Chỉ dưới ánh sáng của các kinh nghiệm
nhân bản nguyên thuỷ và các phẩm chất đích thật của thân xác con người,
chúng ta mới hy vọng hiểu được ý nghĩa và giá trị của tính dục, cùng các hành động gắn liền với nó.
Nếu bị bứng khỏi bối cảnh đích thực của nó,
tức trong tương quan lành mạnh, bền vững
và trên cơ sở một sự dấn thân nào đó,
tính dục sẽ chỉ con là một thứ đồ chơi đơn thuần.
chúng ta mới hy vọng hiểu được ý nghĩa và giá trị của tính dục, cùng các hành động gắn liền với nó.
Nếu bị bứng khỏi bối cảnh đích thực của nó,
tức trong tương quan lành mạnh, bền vững
và trên cơ sở một sự dấn thân nào đó,
tính dục sẽ chỉ con là một thứ đồ chơi đơn thuần.
Giuse
Phạm Công Hiến,
Tu Đoàn Thừa Sai Thánh Mẫu
Tu Đoàn Thừa Sai Thánh Mẫu
DẪN NHẬP
Trong thế giới Dothái
cổ, chịu ảnh hưởng của Cựu và Tân ước, thân xác con người mang một ý nghĩa rất
khác. Cũng thế, nhiều nền văn hoá hiện nay, thường không được hiểu đúng hoặc bị
khước từ, có cái nhìn về thân xác rất khác với văn hoá Tây phương. Quan niệm
theo triết học Hy lạp, tách biệt thể xác với linh hồn và coi khinh thể xác; một
khi chịu ảnh hưởng của quan niệm nhị nguyên này, nền đạo đức Kitô giáo thường
gạt những gì liên quan đến trai gái, tính dục, tình dục sang bên lề cuộc sống,
coi nó như một hành động thấp hèn, không xứng với phẩm giá con người; hoặc như
một phương tiện bất đắc dĩ phải cho phép để bảo tồn nòi giống như trong thiên
nhiên, để xoa dịu cơn khát tình dục. Nhu cầu và sự đòi hỏi tình dục là một nhu
cầu đi liền với con người. Đối với những người có hay không có gia đình, tình
dục vẫn là một cái gì rất thu hút và rất hấp dẫn. Thi sỹ Trần Tế Xương đã viết:
Ba cái
lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được
cái gì hay cái nấy
Có chăng
chừa rượu với chừa trà.
Ngày nay, cuộc cách
mạng tình dục ảnh hưởng trào lưu văn hoá từ các nước phát triển đang cổ võ cho
một lối sống tính dục ích kỷ, buông thả, coi tình dục là tình yêu, hoặc tách
biệt tình dục khỏi tình yêu và lạm dụng tình dục trong nhiều phương thế. Tính
dục bị lạm dụng chỉ để phục vụ cho sự tìm kiếm khoái lạc ích kỷ.
Thánh Giáo hoàng Gioan
Phaolô II đã trả lời cách tuyệt vời cho hoàn cảnh mới của ngày hôm nay.[1]
Ngài đã đặt tính dục trở lại trong bối cảnh sâu rộng hơn của thần học về thân
xác. Chỉ dưới ánh sáng của các kinh nghiệm nhân bản nguyên thuỷ và các phẩm
chất đích thật của thân xác con người, chúng ta mới hy vọng hiểu được ý nghĩa
và giá trị của tính dục, cùng các hành động gắn liền với nó. Nếu bị bứng khỏi
bối cảnh đích thực của nó, tức trong tương quan lành mạnh, bền vững và trên cơ
sở một sự dấn thân nào đó, tính dục sẽ chỉ con là một thứ đồ chơi đơn thuần.
Thế nên, chúng ta bắt đầu suy tư này bằng một lời mời gọi khám phá tính dục như
là một sức mạnh đưa các bản năng tiềm ẩn vào hoạt động, một kho tàng phong phú,
một nguồn mạch của niềm vui, của vẻ đẹp, một ân ban quí giá, một thực tại mầu
nhiệm không ngừng thắc mắc, một thực tại phức tạp chúng ta không thể giản lược
một cách dễ dãi.
I. TÍNH DỤC LÀ GÌ?
Từ ngữ “tính dục” theo văn hoá của người Việt Nam vẫn còn là một
điều gì đó tế nhị, ngại ngùng không được sử dụng tự nhiên như người Tây phương.
Vì thế, nên từ ngữ này còn rất hàm hồ khi sử dụng. Theo từ điển ngôn ngữ học
Việt Nam định nghĩa:
Tính dục là
đòi hỏi sinh lý về quan hệ tính giao[2].
Sách Giáo lý Công giáo Cần Thơ thì nói rằng: con người “linh vật hơn con vật”,
nghĩa là có những cái khác hẳn mọi vật nên con người không dừng lại ở giai đoạn
theo bản năng giới tính, mà con người dùng trí tuệ, ý chí, tự do để vận dụng,
hướng dẫn bản năng giới tính theo ý muốn của mình, để quan hệ với người khác.
Theo nhân học tính dục Kitô giáo:
Giới tính là
thần phần cơ bản của nhân cách, là cách thế hiện hữu, thể hiện, giao tiếp với
người khác, cảm nhận, bày tỏ và sống tình yêu của con người… Giới tính là đặc
điểm của đàn ông, và đàn bà không chỉ trên bình diện thể lý, mà còn trên bình
diện tâm lý và tâm linh, ghi dấu trên mọi biểu hiện của họ.[3]
Như thế tính dục là
tổng thể con người, bao gồm mọi khía cạnh đặc trưng của người nam hoặc người
nữ. Tính dục chính là việc truyền thông trong tình yêu. Tính dục phản ánh tính
cách con người, chứ không chỉ là bản chất sinh dục. Vì là một biểu đạt tổng thể
của nhân cách, tính dục liên quan đến yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội, tinh thần
và văn hoá của đời sống. Nó chính là một dạng thức căn bản của cách ta liên hệ
với người khác, với chính mình và với Thiên Chúa. Nên chỉ khi nào tính dục nói
lên được và trở thành một lời yêu thương, thì khi ấy tính dục mới đạt được sự
giải thoát trọn vẹn[4].
1. Tính dục như một ân
ban
Sách Sáng Thế nói mọi sự Thiên Chúa tạo dựng đều tốt đẹp (x. St
1,31). Tính dục là một trong những ý tưởng sáng tạo được Thiên Chúa đặt để nơi
con người, loài vượt trổi trong các loài thọ tạo được Thiên Chúa tạo nên. Như
vậy tính dục nơi người là một kiệt tác trong chương trình của Thiên Chúa. Tính
dục được Thiên Chúa ban cho con người như một cách thức để nhân hoá chính mình,
để làm người, để thể hiện chính mình. Do vậy tính dục chỉ thực sự có tính người
khi ngang qua tiến trình nhìn nhận người khác, nam hoặc nữ, trong ước muốn phái
tính của mình. Mục đích của ân ban tính dục chính là sự sống: sự sống của tình
yêu, được diễn tả trọn vẹn nơi Đức Giêsu, Đấng “là đường, là sự thật và là sự
sống” (Ga 14,6).
Nhiều nhà khoa học đồng ý với quan điểm rằng, xu hướng tính dục đã
hình thành rất sớm trong con người, ngay từ khi còn nhỏ tuổi, và những tác động
qua lại phức tạp của các yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội. Thế nhưng, tìm ra
nguồn gốc sâu sa thật là khó khăn. Dưới con mắt đức tin, ta biết rằng tính dục
là một hồng ân, là món quà Chúa ban. Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI giải thích:
Con
người một cách nào đó không trọn vẹn, nên phải đi tìm kiếm nơi người khác phần
nào đó cho sự toàn vẹn của mình, nghĩa là con người trong sự hiệp thông với
phái tính mới có thể trở nên “trọn vẹn”, đó chính là điều tìm thấy trong Kinh
thánh.[5]
Bởi vậy, “con người ở một mình không tốt. Ta
sẽ làm một trợ tá tương xứng với nó” (St 2,18). Thế nên Thiên Chúa đã sáng tạo ra người
đàn bà và dẫn đến với người đàn ông, để “người đàn ông lìa cha mẹ mình mà gắn
bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2,24). Chúng ta phải
thấy rõ ngay rằng, tính dục không phải là sinh dục chỉ nói đến những bộ phận
sinh sản, trong khi tính dục nói lên toàn bộ hữu thể con người, trong cách thế
tương quan với người khác, bày tỏ chính mình và giải thích các sự vật. Trong ý
nghĩa đó, chúng ta có thể biết rằng từ tính dục con người có những phẩm chất
đặc biệt về sinh lý, tâm lý và tinh thần. Những phẩm chất này làm nên người nam
hoặc người nữ, điều kiện mang tính chất quyết định cho sự tăng trưởng của con
người.[6]
Thánh Giáo hoàng Phaolô II, trong triều đại giáo hoàng của ngài đã
có nhiều bài viết về tính dục - tình yêu - hôn nhân -gia đình, tất cả đã tổng
hợp thành một thứ thần học về thân xác. Có người nói Đức Gioan Phaolô II là nhà
cách mang tính dục làm đảo ngược lại cuộc “cách mạng tình dục” thế kỷ vừa qua,
đổi hướng nó về nguồn gốc và cùng đích của nó. Ngài trình bày về các phẩm chất
của thân xác nhân vị như sau:
Thân xác con người có tính “biểu tượng”[7].
Từ kinh nghiệm đơn độc nguyên thuỷ, con người nhận thấy mình vừa là thành phần
thế giới tạo thành này vừa vượt trên thế giới. Như muôn loài, con người có một
thân xác là “xác đất vật hèn”. Nhưng thân xác thì khác, vì còn có những gì đó
trong ta còn hơn thân xác đất vật hèn này. Chúng ta có khả năng tư duy khác các
loài vật. Chúng ta có thể hướng về Thiên Chúa và thông giao với Ngài, còn các
loài vật thì không thể. Hơn nữa con người còn có thể thiết lập quan hệ thân mật
với nhau, kết hợp cái hữu hình và cái vô hình. Thân xác vật lý hữu hình của con
người hướng đến bờ bến tình yêu thiêng liêng và vô hình bên kia của nhân vị.
Khi ta nghĩ đến một người bạn, ta không chỉ nghĩ đến thân xác người bạn ấy, mà
nghĩ đến chính người ấy, đến cá tính người ấy, đến khả năng trí tuệ tinh thần
người ấy.
“Thân xác con người có tính hợp hôn”[8].
Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II muốn nói rằng chúng được tạo dựng nên cho tình
yêu, để sống tương giao. Đó là một hệ luận bản tính biểu tượng của thân xác con
người. Đàn ông và đàn bà hấp dẫn nhau. Có hấp dẫn thể xác bên ngoài mà cũng có
hấp dẫn tinh thần bên trong. Họ kết hôn và hợp hoan nên một. Hành động vừa
thuộc tinh thần, bởi thân xác con người có tính biểu tượng. Họ âu yếm trên da
thịt, trao đổi với nhau những lời yêu thương, bằng cách ấy họ thông truyền tình
yêu cho nhau. Như thế, giao hoan là một hành động vừa tuyệt diệu vừa mầu nhiệm.
Đó không phải là một thứ “thể thao ngẫu hứng trong nhà”. Vì thân xác con người
có tính biểu tượng và hôn phối, cho nên khi một người đàn ông và một người đàn
bà diễn tả tình yêu của họ trong quan hệ tình dục, đó là họ thông giao, tức là
trao đổi với nhau.
“Thân xác chúng ta tự do những cũng rất dễ sa
ngã”[9]. Thân xác con người hay nhân
vị vốn được tự do nghĩa là không bị nô lệ cho tội lỗi cùng những dục vọng của
nó. Tự do ấy của thân xác là sự tự do của tặng phẩm dành trao hiến cho nhau,
đây là nền tảng cần thiết để yêu thương như Thiên Chúa yêu thương. Không có tự
do người nam và người nữ không thể trao ban cũng không thể đón nhận tình yêu. Thế
nhưng thân xác của con người bị lôi cuốn bởi tội lỗi, thân xác không còn là
nguyên nhân của tội. Nhưng vì chúng ta là hữu thể thống nhất của hồn và xác, và
tội lỗi xuất phát từ sự lạm dụng tự do vốn thuộc lãnh vực tâm linh, nên thân
xác bị ảnh hưởng. Một hậu quả khác của tội nguyên tổ là dục tình dâm loạn.
Chẳng hạn, một người đàn ông ó thể đem lòng thèm muốn một người đàn bà. Xem họ
như một món đồ chơi để thoả mãn khoái lạc dục vọng trong chốc lát rồi bỏ; hay
nhìn người phụ nữ chỉ ở vẻ đẹp thể chất với ánh mắt nhục cảm, mà không chạm tới
ngã vị vốn vô hình của một chủ thể. Vì thế, tội lỗi ngăn trở chúng ta hiểu thân
xác con người thuộc phạm trù biểu tượng. Ta có thể thấy hình ảnh phiến diện nô lệ trong thế giới ngày
nay. Các phương tiện truyền thông toàn cầu rao ráo phơi bầy bao nhiêu hình ảnh
-nhất là của phụ nữ - tôn vinh chỉ duy chiều kích thể lý của xác thân con
người. Chúng phản bội sự thật của nhân vị.
“Thân xác con người được cứu chuộc”[10]. Khởi đi từ kinh nghiệm
nguyên thuỷ và kinh nghiệm tội nguyên tổ, chúng ta có thể hiểu rằng thân xác
con người vốn có tính biểu tượng và hôn phối, thân xác ấy vốn tự do nhưng là
một thân xác đã ở trong tình trạng sa ngã nhưng đã được Đức Kitô cứu chuộc. Và
từ đó ta biết được chúng ta được tạo dựng để yêu thương chứ không để phục luỵ
dục vọng thấp hèn. Chúng ta khám phá ra ý nghĩa sâu thẳm rằng thân xác là để
tương giao hơn là để cho khoái lạc tính dục. Tính dục chỉ quan trọng trong mức
độ khi nó phục vụ cho sự tương giao. Sau cùng trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô mà
chúng ta ý thức sâu sắc rằng thân xác chúng ta được cứu chuộc. Vinh quang của
thân xác chính là biết và yêu mến Đức Kitô, cụ thể, sẽ giúp ta bước vào các
kinh nghiệm nguyên thuỷ, từ đó có thể biết bản thân mình sâu hơn và biết cuộc
sống mình như thế nào[11].
Như vậy, con người không chỉ thuần tuý có một
tính dục, nhưng nó là một hữu thể tính dục, được cấu trúc trong sự khác biệt bổ
túc cho nhau giữa người nam và người nữ. Bởi vậy tính dục không phải là một
thực tại bên ngoài con người, một cái gì đó tuỳ ý con người tháo bỏ, nhưng đó
là cấu trúc cơ bản của hữu thể con người, tác động đến biểu lộ của cuộc sống,
đặc biệt trong tương quan liên vị. Từ nơi bản tính con người đã được Thiên Chúa
ban cho tự do, có ý thức về những quyết định của mình, có khả năng yêu thương.
2. Tính dục theo quan điểm xã hội
Giới tính và tính dục ngày nay được hiểu biết nhiều hơn thời gian
chỉ trước đây không lâu. Bởi khoa học hiện đại, với các những quan sát nghiêm
ngặt không có liên hệ gì đến các truyền thống thần thoại văn hoá tôn giáo, mà
ngày nay người ta ít có khả năng gán những điều ấy cho sức mạnh siêu nhiên. Chỉ
cần nghĩ đến hai điều này là đủ: chỉ mới đầu thế kỷ mười chín này người ta mới
biết rõ quá trình sinh sản xẩy ra thế nào, và thế kỷ hai mươi mới biết mối
tương quan chặt chẽ giữa tính dục và ngôi vị tính hay nhân cách. Qua đó tính
dục được hiểu theo nhiều chiều kích khác nhau. [12]
Sự khác biệt giới tính giữa nam và nữ được thể hiện nơi sự khác
biệt nhiễm sắc thể (chromosomes). Nam, 44A +; Nữ, 44A + XX . Tổng số nhiễm sắc
thể của người là 46 hay 23 đôi, trong đó chỉ có một đôi quyết định giới tính là
nam (XY) hay nữ (XX). Noãn trứng luôn mang 22A+X, còn tinh trùng mang 22A+X hay
22A+Y. Khi kết thành hợp tử (zigote) sẽ cho kết quả là 44A+XX (nữ) hay 44A+XY
(nam)[13].
Sự khác biệt hóc-môn sinh dục (sex hormones):
vào tuổi dậy thì, các hóc-môn sinh dục được sản xuất dồi dào làm nổi bật sự
khác biệt giới tính. Buồng trứng sản sinh hóc-môn sinh dục nữ
(estrogen/progesterone) và tinh hoàn sản xuất hóc-môn sinh dục nam
(testosterone). Từ thời điểm này, sự phân biệt giới tính được thể hiện rõ nét
với cá đặc tính đi kèm. Thuộc tính riêng của nam giới đặt họ vào cái thế phải
có sáng kiến, thám hiểm, phóng tới, trao tặng. Họ không để cho đời sống cảm xúc
hay tình cảm khống chế và làm tê liệt mình, trong khi lại thích sống theo những
ý tưởng nhất định khả dĩ áp đặt và thôi thúc con người hành động[14].
Nữ giới có vẻ mầu nhiệm hơn và cũng phức tạp
hơn. Cơ quan sinh dục của họ không thấy được, ở trong cơ thể họ. Hơn nữa người
nữ xem ra bị chìm ngập trong tính dục của mình: những hoạt động của kích thích
tố (hormone) phức tạp hơn, những chu kỳ kinh nguyệt, việc làm mẹ. Trong quan hệ
tình dục người nữ bị đi vào trong thâm cung của mình; bởi thế là kẻ lãnh nhận.
Người nữ làm việc trong âm thầm, dễ tuân thủ cảm xúc; nhận biết bằng trực giác
và linh cảm hơn bằng lý trí và suy tư.
Sinh lý học tính dục: hoạt động tính dục được
thực hiện bởi một chuỗi những tác nhân nắm vai trò điều khiển và tạo nên vòng
hóc-môn não, là cơ chế điều khiển chức năng sinh dục. Ngoài chức năng của cơ
quan sinh dục, hành vi tính dục bao hàm hai khía cạnh: sự thúc đẩy bên trong,
thôi thúc cá nhân tìm kiếm bạn phối ngẫu, và hành vi giao hợp. Hoạt tính của
hành vi này là sản phẩm của não bộ, còn hoạt tính thực sự của việc giao hợp bắt
nguồn trực tiếp từ trung tâm thần kinh ở vùng dưới tuỷ sống. Có thể nói sinh
học là chiều kích căn bản của tất cả các cấu trúc giới tính của con người.
Người ta có thể bảo rằng nó là “sinh lực” của con người. Trong thực tế, hành vi
tính dục được sinh sản từ năng lực của những thúc đẩy sinh học, và do đó nền
tảng sinh học đóng vai trò quan trọng quyết định trong việc thực hiện hành vi
này. Ý nghĩa của việc truyền sinh nếu chỉ thu hẹp trong chiều kích sinh học
thôi thì tính dục người chẳng khác gì tính dục loài vật, ví dụ: thứ tính dục
cho việc sinh sản[15].
Do nhiều đòi hỏi khác nhau, hành vi tính dục
con người không bị giới hạn trong nhịp sinh học hướng tới sinh sản. Hơn nữa,
nơi loài người việc sinh sản không thể theo sự thúc đẩy máy móc của bản năng,
nhưng phải được điều khiển bởi tinh thần trách nhiệm, xứng với phẩm giá con
người. Ý nghĩa của khoái lạc; tính dục con người không phải là “trò chơi” hay
công cụ để tìm khoái lạc tối đa. Đàng khác, cũng không thể xem khoái cảm tình
dục như “điều xấu xa tội lỗi” cần phải được biện minh hay như cái “bẫy tình”
(trappola amorosa) Thiên Chúa giăng ra, để bắt con người thực hiện nhiệm vụ
truyền sinh. Khoái cảm luôn đồng hành với tính dục, nó là một trong các chức năng chính của
hoạt động tình dục và là chiều kích liên quan đến toàn bộ hiện tượng tính dục
của con người. Về mặt luân lý tính dục nơi con người khác với loài vật, con
người cần phải có sự tự chủ và yêu thương trong quan hệ tính dục. Nếu không
nguy cơ trở thành một hành vi phi nhân, đồi bại, bởi đây là một quan hệ liên vị
cho-và-nhận trong yêu thương.
Chiều kích tâm lý: khác với loài vật, tính dục
người không bị đóng khung trong chiều kích sinh học, mà còn mở ra cho một nhu
cầu cao hơn của loài người: nhu cầu tâm lý. quả thực, không phải cách tuyến
hóc-môn sinh dục đóng vai trò quyết định, mà là hệ thống thần kinh trung ương
nơi những phần phát triển hơn cả. Hành vi tính dục là hành vi trải nghiệm
(vissuto) và trở thành cung cách ứng xử của con người. Chiều kích tâm lý làm
sáng tỏ ý nghĩa của hành vi tính dục nơi con người: từ đây, bản năng tính dục
mở ra với ánh sáng, mở ra các mối quan hệ, chuyển hoá thành hành vi, mặc lấy
ngôn ngữ, hoá thân nơi các biểu tượng và các hình thái văn hoá xã hội. Trong
lãnh vực này, chúng ta phải mang ơn Simon Freud, người tiên phong trong nỗ lực
tìm hiểu tính dục con người. Freud đã giải phóng tính dục khỏi hai sự giảm
thiểu: giảm thiểu vào chức năng sinh dục (không chỉ có thức đẩy sinh dục mà còn
có tình yêu…) và giảm thiểu về thời gian (không phải thình lình xẩy ra vào lúc
dậy thì, mà bao hàm cả tiến trình lịch sử của đời người). Theo quan điểm bày,
bản năng tính dục (libido) chuyển hoá thành đòi hỏi tâm lý, thành tình ái
(eros) hay thành ước vọng của con người. [16]
3. Hiểu tính dục trên nền tảng luân lý Kitô giáo
Kinh thánh là khởi điểm cho việc suy tư của Kitô hữu. Tuy nhiên. Kinh
thánh lại không quan tâm nhiều tới giới tính.[17]
Những nỗ lực nhằm trình bày cách hệ thống nền luân lý giới tính, mới chỉ là mơ
ước. Cả Cựu ước lẫn Tân ước đều không có nhiều hướng dẫn đặt biệt. Trong khi Kinh
thánh bao hàm nhiều tài liệu liên quan đến giới tính và một số đòi hỏi cụ thể
như “Hãy sinh sôi nẩy nở cho đầy mặt đất” (St 1,28), hoặc Người sẽ không ngoại
tình” (Xh 20,14).
Thời Cựu ước, chung chung dân Dothái nhìn Tạo
Thành như công trình của Thiên Chúa. Họ coi tạo thành là tốt đẹp, kể cả
giới tính. Giới tính không phải là một cái gì đó đáng xấu hổ hoặc làm người ta
phải lúng túng. Các trình thuật về Tạo Thành trong sách Sáng thế không hề có sự
khinh miệt thiên nhiên hoặc giới tính. Nhưng Cựu ước cũng không ca ngợi việc
theo đuổi khoái lạc giới tính, là đặc điểm của một trong những suy nghĩa của
người xưa.[18]
Người Dothái nhìn giới tính cách đơn giản như một quà tặng, một khía cạnh của
cuộc sống, kết hợp giới tính với các mối tương quan của con người và nhu cầu
khắc phục sự cô đơn. “Đàn ông ở một mình không tốt, Ta sẽ làm cho nó một người
phối ngẫu” (St 2,18). Dưới ánh sáng này, giới tính được nhìn như việc phát
triển tình bằng hữu. Giới tính là một quà tặng của Tạo Hoá.
Hôn nhân ở Israel chấp nhận chế độ đa thê, ví dụ như trường hợp
các tổ phụ (St 4,19; 16; 29).[19]
Tuy vậy, chế độ một vợ một chồng được xem như hình thức lý tưởng nguyên thuỷ
(St 2,21-24; 7,7). Thái độ của Cựu ước hướng về giới tính chịu ảnh hưởng của
những khái niệm quan trọng liên quan đến gia
phả, hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên lề luật bảo vệ sự trung thành trong hôn
nhân (St 20,1-6); lên án tử cho kẻ phạm tội ngoại tình (Lv 20,10), nhưng
lại cho phép chồng ly dị vợ (Đnl 24,1-4).[20]
Phụ nữ bị coi là thấp kém, ít giá trị và cũng có những vị trí pháp lý và xã hội
thấp kém hơn. Vì hôn nhân là phương thế duy trì nòi giống, nên phụ nữ được yêu
cầu phải sinh con, nhất là con trai, nếu không người vợ phải cho chồng lấy vợ
kế để viết tiếp gia phả của mình (St 30,1-13). Trong sinh hoạt hàng ngày còn có những đòi hỏi về đạo đức tính dục cá nhân,
chẳng hạn như: khuyên tránh xa những phụ nữ nguy hiểm (Cn 2,16-19), cấm những hành
vi đồi bại như đồng tính luyến ái (Lv 18,22;20,13), giao cấu với súc vật và cấm
quan hệ với gái mãi dâm (Đnl 23,17; St 38,15-16).[21]
Có những tập tục không trực tiếp liên hệ đến luân lý, mà liên hệ đến tính chất
lễ nghi về thanh sạch và ô uế, chẳng hạn: những quy định về kinh nguyệt phụ nữ
(Lv 15,17.24) về việc sinh nở (Lv 12,1-6) về sự lây nhiễm (Lv 15,1-17), về việc
giao hợp (Lv 15,18), loạn luân (Lv 18).
Trong Tân ước, Chúa Giêsu ít nói về giới tính.[22]
Tuy vậy, giáo huấn Tân ước về luân lý tính dục không vì thế mà mất đi tầm quan
trọng và có thể tóm lược trong những nét sau: Tân ước lấy lại giáo huấn của
sách Sáng Thế 1-2, nhấn mạnh sự bình đẳng, sự lôi cuốn và hỗ tương giữa hai
giới. Chúa Giêsu nói: “Anh em nghe người xưa
bảo ‘chớ ngoại tình’, còn Thầy, Thầy bảo anh em ai nhìn người phụ nữ mà ước ao
phạm tội thì đã ngoại tình trong lòng rồi” (Mt 5, 27-28). Chúa Giêsu bảo
tiếp: “Còn thầy, thầy bảo anh em, ai ly dị vợ (trừ phi là cuộc hộn nhân bất hợp
pháp) thì làm cớ cho vợ ngoại tình và ai cưới người phụ nữ bị ly di ấy cũng
phạm tội ngoại tình” (Mt 5, 32). Chúa Giêsu cấm ly dị, việc người khẳng định sự
thuỷ chung trong hôn nhân đối với cả hai giới, việc người nhấn mạnh đến sự bình
đẳng giữa nam và nữ và việc người dành ưu tiên cho giới luật yêu thương. Người
xác nhận phẩm giá con người. Còn thánh Phaolô trong (Gl 3,28) không còn phân
biệt Dothái hay Hylạp,… đàn ông hay đàn bà…[23]
Đây có lẽ là hoàn cảnh thánh Phaolô đang sống: Đĩ điếm lan tràn. Đàn ông có gia
đình và không có gia đình, thường quan hệ với các nô lệ và gái điếm.[24]
Ngài phản đối, cảnh cáo chuyện này. Hơn nữa ngài còn tin rằng thế giới này chẳng
mấy chốc sẽ chấm dứt và Đức Kitô phục sinh sẽ trở lại. Sự thần thiêng hóa
tính dục của dân ngoại phần nào đã ảnh hưởng đến các nghi thức trong sạch hay không trong sạch của Israel (Lv 12,6). Điều đó cho thấy có sự
hàm hồ giữa thần thiêng hóa tính dục và việc tế tự trong tương
quan với
Thiên Chúa. Sách Thánh đã chẳng bao giờ nghi ngờ sự tốt lành
và giá trị tương giao tính dục trong hôn nhân
(Dc 4,1; Cn 5,18; Ed 24,15; Hc 26,16t…).
Thời kỳ đầu của các Kitô hữu tiên khởi: Ảnh hưởng của các phái Stoicism (khắc kỷ), cho nên Clêmentê,
thành Alexandria, Augustinô và cả Kitô giáo thưở ban đầu, đã có quan
niệm hẹp hòi về tính dục gắn với mục tiêu duy nhất là sinh sản. Các giáo phụ
thường viện cớ dẫn sách Sáng thế (St 1,28) “hãy sinh sôi nảy nở và thống trị
mặt đất”. Họ dẹp bỏ việc tìm kiếm khoái lạc, củng cố lý tưởng giới hạn hoạt
động giới tính trong khuôn khổ hôn nân, nghi ngời mọi khoái lạc nhục dục, đến
độ hôn nhân cũng bị nghi ngờ, coi trọng độc thân như lý tưởng cao cả. Sau nay
các Kitô hữu và những người khác bắt đầu nhìn hôn nhân như một sự nhượng bộ đối
với người không thể đạt đựợc lý tưởng độc thân. [25]
Do ảnh hưởng của Ngộ giáo, họ cho rằng cần có được sự
bình an nội tâm để chế ngự nếu không muốn nói là dẹp bỏ các khát vọng giới
tính, sợ hãi và giận dữ. Những người theo Ngộ giáo dạy rằng hôn nhân là xấu, và
sinh con cái là phương tiện truyền bá các thê lực xấu. Họ bi quan và suy nghĩ
theo hai chiều hướng, một mặt chống lại toàn bộ việc giao hợp, mặt khác lại ấp
ủ mọi kinh nghiệm giới tính cả khi giao hợp không phải để sinh con. [26]
Rồi do ảnh hưởng của thuyết nhị nguyên Hylạp và Tân
Platon, họ coi thường vật chất, khoái lạc tính dục coi là điều xấu, họ xa lánh
tất cả những gì liên quan đến xác thịt, ngay cả trong đời sống hôn nhân. Điều
này dẫn đến cái nhìn bi quan yếm thế về hôn nhân, tính dục, và đế cao thái qua
lý tưởng sống trinh khiết, khổ hạnh. Hậu quả là trong suốt lịch sử của mình,
thần học Kitô giáo phải đối mặt với không ít khó khăn trong nỗ lực tìm chỗ đứng
hợp pháp cho khoái lạc trong một quan niệm toàn diện hơn về tính dục. [27]
Tính chất độc đáo của mạc khải Thánh kinh về tình yêu và
tính dục thể hiện rõ nét nơi sự tuyệt giao giữa người Dothái và các tôn giáo
xung quanh. Trong khi các tôn giáo lân cận bộc lộ quan điểm tính dục qua các
huyền thoại và các lễ nghi, niềm tin căn bản của Israel loại trừ tất cả huyền
thoại và lễ nghi tính dục này. Đối với Israel, Giavê là Thiên Chúa duy nhất (Ds
6,4), không có thần nào khác ngoài Ngài. Tất cả mọi sự đều do Ngài dựng nên,
chúng ta đều là thụ tạo của Ngài. Ngài là Đấng siêu việt, vượt trên tất cả. Các
quy định lễ nghi của Israel, trong mối quan hệ giao ước, ngăn cấm mọi hình thức
thần thánh hoá tính dục thực hành nơi các tôn giáo chung quanh. Trong Israel,
không có hôn nhân thiêng thánh giữa các vị thần; mãi dâm thánh bị ngăn cấm với
án tử hình (Ds 23,18-19). Tuy vậy, dân Chúa luôn bị cám dỗ tham gia vào các lễ
nghi tính dục ngoại giáo (Xh 23,6; 1V 14,24; 2V 23,7). Tóm lại niềm tin Dothái
đoạn tuyệt với quan niệm thần bí mà các tôn giáo cổ xưa có về tính dục, không
chấp nhận việc thần thánh hoá tính dục con người.[28]
Khoa thần học Thánh
Kinh đã cung cấp cho chúng ta một vũ trụ quan Kitô giáo khá hoà hợp và quân
bình về thực tại tính dục nơi con người: mọi hành vi nhân linh đều đòi hỏi tính
đạo đức; hành vi tính dục cũng là một hành vi nhân linh, do đó không phải là
một ngoại lệ. Nếu bỏ qua chiều kích đạo đức của tính dục, người ta có nguy cơ
rơi vào tình trạng phân hoá mất tính người. Chiều kích đạo đức không phải là
một đòi hỏi xa lạ đối với thực tại tính dục. Ngược lại, nó chính là thể thức
hoà nhập các năng lực vốn có tính dục con người. [29]
Nguồn căn tính cách quy chuẩn của luân lý tính dục Kitô
giáo đến từ một nguồn kép: “mạc khải và nhân học”. Truyền thống luân lý Công
giáo luôn thừa nhận hai nguyên tắc căn bản này: Bản tính con người, được khám
phá qua nhiều hình thức đa dạng của tri thức nhân loại, và Lời của Thiên Chúa
tìm thấy trong Thánh Kinh, được lưu truyền trong truyền thống Kitô giáo và được
đón nhận bởi đức tin. Vũ trụ quan Kitô giáo là một “môi trường thần học”, của
đạo đức tính dục, không ở mức độ mang nơi mình một tập hợp các quy luật cụ thể,
nhưng ở mức độ nó cung cấp một vũ trụ quan về con người và về việc hiện thực
hoá con người trong lịch sử. Đây là yếu tố quyết định và có giá trị trường tồn cho
việc thiết lập một nền đạo đức tính dục. Một “môi trường thần học” khác của quy
chuẩn tính dục đó là hiểu biết con người vế tính dục. Trong lúc tính cách riêng
của mạc khải là nhằm cung cấp một vũ trụ quan cho đạo đức như các giá trị đặc
thù, nhân học về tính dục mang lại sự cụ thể hoá cho bổn phận luân lý. Nhận
thức con người về tính dục không thể được giải bày bằng những môi giới hay biểu
thức cổ xưa. Chính vì thế, thay vì sử dụng môi giới của “luật tự nhiên”, người
ta có thể dùng môi giới của “nhân học tính dục”.
II. BIỂU HIỆN ĐỜI SỐNG
TÍNH DỤC TRONG XÃ HỘI VN
Khiêu dâm là một đặc điểm của tính dục người. Điều
này bắt nguồn từ sự thôi thúc tính dục dư tràn nơi loài người. Loài vật không
biết khiêu dâm. Đây là nét đặc trưng của loài người.
1. Hiện trạng đời sống tính
dục của bạn trẻ Việt Nam
Chỉ cần thoáng qua,
chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy những hiện trạng về đời sống tính dục diễn ra
trong xã hội Việt Nam hôm nay.
1.1. Ảnh hưởng văn hoá
Phương tây
Cuộc
cách mạng
tình dục từ phương Tây tràn vào Việt Nam, ngay thời điểm đất nước mở cửa hội nhập văn hoá, xã hội, hợp tác giáo dục với các nước láng giềng trong khu vực và thế giới. Hậu quả là, nhiều bạn trẻ Việt
Nam sống lệch chuẩn, bỏ qua những truyền thống luân lý, văn hóa tốt đẹp, sống các tương quan giới tính cách dễ dàng,
phóng túng, nhiều giá trị của hôn nhân gia đình bình coi nhẹ, đảo lộn.
[30]
Sống thử là một hiện tượng không
còn mới,
nhưng cũng chưa bao giờ lại ngày càng trở nên phổ biến trong cuộc sống như hiện nay. Bên
cạnh
những
ý kiến
phản
đối
việc
sống
thử
thì cũng có không ít ý kiến
đồng
tình và cho rằng
đó là điều
cần
thiết
trong cuộc
sống.
Trong những
năm gần
đây, ở các thành phố lớn, các khu
công nghiệp,
đã xuất
hiện
một
lối
sống
mới
của
giới
trẻ, đó là những
đôi nam nữ sống chung như vợ chồng không
có đăng ký kết
hôn. Sau một
thời
gian, nếu
thấy
phù hợp
thì họ tiến tới hôn nhân
chính thức, sẽ đăng
ký kết
hôn theo pháp luật;
còn nếu
thấy
không phù hợp,
họ sẽ chia
tay nhau, không cần
đến
pháp luật.
1.2. Sống
tính dục buông thả
Hiện
tượng thay đổi về phong hoá tính dục là một điều không thể chối cãi, nhưng có
thể giải thích được. Mặc dù chúng ta biết tình dục là một phần trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa, nhưng sự xuyên tạc của nó trong
thế giới đa dạng hôm nay rất dễ làm cho người ta nghĩ về tình dục hoàn toàn khác. Tình dục là sự thiện lành mạnh là những khía cạnh quan trọng trong hôn nhân nhưng cũng rất mong manh.[31] Sức hấp dẫn ban đầu giữa một người nam và một người nữ thường tràn đầy ý tưởng và cảm xúc liên quan đến tính dục. Trong khi các bạn trẻ ngạc nhiên hơn vì được biết thêm rằng, mặc dù tình dục chắc chắn mang lại sự vui thích và thú vị, nhưng nó cũng có thể trở thành môn nan đề trong hôn nhân. Tình
yêu và tình dục là hai mặt tồn tại song song cần thiết cho lứa đôi, tuy nhiên sự thếu hiểu biết về tính dục và sự cám dỗ của nó cũng làm tổn hại đến hôn nhân. Thật ra không chỉ những người trẻ còn độc thân mà những người lớn tuổi còn độc thân hay người lớn tuổi đã có gia đình cũng thường phải đối diện với cám dỗ này hàng ngày.
Có giới tính và làm tình không giống nhau. Tình dục chỉ trở thành một hành động của tình yêu trong trường hợp nó liên kết với những hành động khác của tình yêu, mà nó đi trước và đi sau định chế tình yêu.[32] Trong xã hội phương Tây cũng như phương Đông ngày nay, khuynh hướng chung của nhiều nhiều người không xem trọng vấn đề đạo đức và luân lý. Những người không phải là vợ chồng sống chung với nhau cũng không bị dư luận lên án gắt gao như xưa và người trong cuộc nhiều khi cũng không xem đó là
tội. Người ta thường ví tình dục giữa nam và nữ như ngọn lửa. Lửa có thể giúp ích và sưởi ấm trong nhà nhưng nếu dùng sai chỗ, nó
sẽ làm cho nhà cháy tan. Nếu chúng ta dùng lửa một cách bừa bãi, lửa sẽ làm tổn hại và tiêu hủy cuộc đời chúng ta.
Khi
chúng ta đứng trước cám dỗ tình dục, một số bạn trẻ thường nghĩ: sự kết hợp thể xác sẽ khiến mình
yêu nhau nhiều hơn và gắn bó với nhau hơn. Điều này chỉ đúng trong hôn nhân, giữa vợ với chồng. Tình dục nam nữ đúng chỗ là tình dục trong hôn nhân. Nếu chúng ta sử dụng món quà này ngoài hôn nhân hay trước hôn nhân, chúng ta sẽ không tránh được những hậu quả. Có
người nói rằng: trong Kinh thánh không
có chỗ nào rõ ràng cấm tình dục trước hôn nhân; vì thế, chuyện
đó không nhất thiết là tội. NgườI nói như thế là chưa hiểu rõ lời Chúa dạy: Tình dục là món quà Chúa dành cho hôn nhân, để ràng buộc và củng cố tình yêu giữa vợ và chồng. Tình dục ngoài hôn nhân, dù dưới hình thức nào, cũng là một điều ghê tởm mà chúng ta phải tránh xa.[33]
2. Lạm dụng tính dục
2.1. Mại dâm và mãi dâm
Trong Kinh
thánh, đặc biệt trong Cựu ước, chữ “thông dâm” thường dùng để chỉ
hình thức vô luân này. Bất kể đó là mại dâm trong thế giới phàm tục hay trong
phạm vi tôn giáo.[34] Mại dâm là bán thân
thể mình cho những lạc thú giới tính của kẻ khác để kiếm tiền và lấy đó làm
nghề sinh sống. Thời nào cũng có những người dễ dãi buôn bán nhan sắc hoặc trong một thời gian ngắn hoặc một nghề chuyên
nghiệp. Ở đây, chúng ta muốn nói đến một thứ
nghề thương mại được tổ chức giữa những tên ma cô và các cô gái. Các cô gái sẵn
sàng trao thân cho một người nào đó sau khi thoả thuận về giá cả, và họ trở
thành một món hàng được mua bán như những người nô lệ hay những vật dụng. Điều
mà giới răn thứ tám lên án sự bắt cóc các thiếu nữ và phụ nữ cho sự nô lệ hoá
làm phẩm giá và tác hại nhất. Các mụ tú bà bắt cóc họ, các khách hàng khai thác
họ, tất cả đã đẩy những con cái Thiên Chúa vào một sự suy đốn tâm linh và thể
xác trầm trọng. Họ biết điều đó nhưng không sao có thể thoát ra được.[35]
Hiệp hội Tin lành Pháp tuyên bố
chỉ có 3% gái điếm là tự chọn nghề, còn 97% là vật dụng của những tú bà, những
tên ma cô. Chúng huỷ diệt ý chí của các cô gái bằng rượu, đòn roi và ma tuý. Họ
tìm các cô gái, gạt gẫm họ, rồi bắt họ tiếp khách. Họ coi “thân xác như công cụ
thương mại hoá”.[36] Thật đáng buồn, có
rất nhiều “nhu cầu” cá nhân ấy nằm dưới mức nhân bản và làm hạ phẩm giá của
người phụ nữ cũng như trẻ em, là những người hoàn toàn không có khả năng tự vệ:
thật đáng tiếc, sứ điệp Kitô giáo về phẩm giá phụ nữ lại bị đối nghịch do một
tâm thức nhất định nhìn con người không phải ngôi vị, nhưng như một đồ vật, một
món hàng mua bán, để phục vụ cho lợi thú ích kỷ và lạc dục mà thôi. Nạn nhân
đầu tiên của tâm thức ấy là người phụ nữ. Tâm thức ấy gây ra những kết quả thật
cay đắng, như sự khinh rẻ người nam và người nữ, tình trạng nô lệ, việc áp bức
những người yêu đuối, nhất là khi biến nó thành tổ chức và tất cả những hình
thức kỳ thị người ta gặp phải trong lãnh vực giáo dục, nghề nghiệp và phân phối
công việc.[37] Đồng thời họ cũng
coi “Thân xác nơi gợi sự thèm muốn” trước tiên chúng ta cần phải lưu ý không
khi nào được đề cao thân xác quá mức và cũng không khi nào được thương mại hoá
nó, để thoả mãn sự ích kỷ ngay tức khắc khi điều đó đối lập với tình yêu chân
chính. Bởi vì trong các việc làm đó, thân xác con người chỉ đơn thuần là một
dụng cụ khích thích sự thèm muốn, chúng ta tạo dịp cho sa-tan xâm chiếm và làm
hại tâm hồn chúng ta qua việc làm giảm đi các giá trị nhân văn của thân xác con
người. Mại dâm là cội nguồn sinh ra sự bất an và suy sụp còn sâu sa hơn bất cứ
quan hệ tính dục nào ngoài hôn nhân. Mại dâm là một việc đựơc làm mà không hề
có một chút yêu thương nào xứng đáng giữa một người đàn ông và một người đàn
bàn.[38]
2.2. Nô lệ tình dục
Nô lệ tình dục hay
nói rộng ra là việc cưỡng bức một cách có tổ
chức của những cá nhân, tổ chức
này đối với những người khác tham gia thực hiện
những hành vi tình dục ở nhiều góc
độ khác nhau trái với ý chí và ý muốn của họ. Nô lệ tình
dục
là những người có thân phận bị lệ thuộc
như một nô lệ và thường xuyên bị cưỡng ép tình dục hoặc buộc phải thực hiện
các hoạt
động mại dâm. Việc chống lại chế độ nô lệ tình
dục và buôn người
cũng như giải thoát cho các nô lệ tình
dục
là sự quan
tâm
của
cả cộng
đồng quốc tế, nhất là liên quan đến các quyền của phụ nữ
và của trẻ em gái. Nô lệ tình dục có hình thức rất đa
dạng,
phong phú và ngày nay có nhiều hình thức trá hình
khác
nhau.[39]
Buôn người là việc mua bán
con người với mục đích lao động cưỡng bức,
nô lệ tình dục, hoặc bóc lột tình dục đem lại lợi ích tài
chính cho
kẻ buôn người hoặc những người khác. Điều
này có thể bao gồm việc kiếm cô dâu trong bối
cảnh
hôn nhân bị ép buộc,
hoặc dùng để lấy nội tạng hoặc mô, bao gồm cả việc thay thế
và loại bỏ trứng.
Nạn buôn người có thể xảy ra trong một
quốc
gia hoặc đa quốc gia. Nạn buôn người là tội ác chống lại con
người vì đã vi phạm quyền di chuyển của nạn
nhân thông
qua cưỡng
chế và vì khai thác con người đó theo góc
độ thương mại,
Thật vậy, khi tính dục bị làm giảm giá bằng cách tìm khoái lạc
thuần tuý thì tính dục sẽ đi tới chỗ giết chết ước muốn khoái lạc.[40] Con người
ngày nay có khuynh hướng xem việc giải phóng tính dục khỏi các ràng buộc như
một nỗ lực cần thiết để giải phóng con người. Tự nó việc này không hoàn toàn
xấu, nhưng có nhiều lạm dụng đã làm cho tình dục có thể
bị biến dạng nên xấu xa. Thay vì giải thoát
con người,
giúp
họ nên
những
nhân
vị tự do
như trong
hôn nhân lành
mạnh, thì lại biến người ta thành
nô lệ.
“Văn hóa” khiêu dâm và nạn thủ dâm hủy diệt đi ý nghĩa hôn phối của thân xác con người. Hình
ảnh
khiêu dâm hướng cái nhìn tập chú vào sắc tướng bên
ngoài và kích thích dục vọng. Nhân
vị bị giảm
thiểu chỉ còn là những gì thuộc bề ngoài
của thân
xác có thể xem thấy được. Không có dấu chỉ nào hướng
đến mặt vô hình của tình thân và sự thiêng liêng của
nhân
vị. Họ
sống trong một thế giới huyễn tưởng của bóng hình, không thực sự có con người mà chỉ có thể là những cái bóng phi ngã vị, chứ không là nhân vị.[41]
3. Ý thức
sai lệch về tính dục
3.1. Đồng giới
Thuật ngữ tính dục đồng giới
(homosexuality) được giới thiệu bởi một bác sĩ người Hung-ga-ri
vào cuối thế kỷ XIX ám chỉ thực tại toàn
diện của những người có khuynh hướng tính dục hướng về đối tượng cùng giới
tính. Trong xã hội, thuật ngữ này thường được hiểu theo một nghĩa tiêu cực,
khiến những người trong cuộc phản ứng và họ đã tự tạo ra những tên gọi khác,
như “omofilia”, “omotropia” “gay”...[42]
Khi chúng ta đề cập đến đồng tính luyến ái, chúng
ta đề cập đến hậu quả của một sự quyến rũ tình ái đặc biệt, muốn được yêu và
chiếm đoạt trọn vẹn với người đồng giới. Đây là tình trạng nhân loại của một cá
nhân, ở bình diện tính dục cảm thấy mình tự bản chất như được đặt để trong một
hình thức biểu lộ riêng biệt, trong đó “bạn tình” là người cùng giới. Tình
trạng đồng tính luyến ái có đặc điểm là tự biết mình được đặt để cách riêng
biệt, trong hấp lực hướng về bạn đồng giới.
Trên thực tế, chúng ta cần
phải phân biệt những trường hợp đồng tính luyến ái thực sự
và những trường hợp đồng tính luyến ái trong xu hướng.[43]
Xu hướng đồng tính luyến ái khác sự thực hành đời
sống này.[44] Các bạn không nên
nghĩ mình là người đồng tính luyến ái chỉ đơn giản bởi vì bạn nhận thấy một sự
cuốn hút đồng giới trong bản thân bạn. Đó có thể là một sự rối loạn nào đó
trong quá trình phát triển tâm lý, bởi vì bạn chưa đạt đến giai đoạn chín muồi
của quá trình trưởng thành và ổn định. Có thể bạn thấy bạn có sự khác biệt giữa
xu hướng tiềm tàng trong tâm thức và quá trình hiện thực hoá xu hướng ấy. Nếu
bạn cảm thấy mình có xu hướng đồng tính luyến ái nhưng bạn không bao giờ thực
hành xu hướng này, rất có thể nó sẽ biến mất hoặc ngủ yên trong tiềm thức sâu
thẳm của bạn, để nó không còn là vật cản nơi đời sống tình cảm của bạn. Ngược
lại nếu bạn cứ bám víu vào những cám dỗ và sự quyến rũ của xu hướng này, nó sẽ
càng chiếm ngự và nhấn chìm bạn khiến bạn thực sự thành người đồng tính luyến
ái.
Cũng cần phân biệt việc thực hành đồng tính và cá
nhân đồng tính luyến ái. Thánh Augustinô khi ngài nói: “Thiên Chúa căm ghét tội
lỗi nhưng Ngài yêu mến người tội lỗi”. Điều này thật phù hợp với lòng Chúa yêu
thương trong Kinh thánh cũng như giáo huấn của Giáo hội về vấn đề đồng tính
luyến ái. Bởi trước khi là người đồng tính luyến ái, họ là một con người như
chúng ta. Bởi vậy, chúng ta được mời gọi yêu thương và kính trọng họ trong tình
huynh đệ và tình bác ái. Trên thực tế, nhiều khi họ cũng phải gánh chịu nhiều
đau khổ trong đời sống bởi những hệ quả của xu hướng hay việc thực hành đồng
tính luyến ái.
Linh mục Jeffrey Keefe, một nhà tâm lý từng làm
việc với những người đồng tính nam, khám phá từ những thân chủ của mình điều
này: trong khi tình bạn đích thực phát triển giữa hai bạn tình, phong cách đồng
tính luyến ái lại bị mất tự nhiên đi. Sự suy thoái ham muốn tình dục đưa nhiều
cặp đồng tính đến những hành vi tình dục càng cực đoan hơn. Đặc biệt là những
đòi hỏi đồng tính nam chỉ có thể ân ái với nhau khi hiện diện một người thứ ba,
hoặc khi họ đã lên cao trào nhờ ma tuý. [45]
Thật vậy khi người ta sống trong
một môi trường xã hội tự do quan hệ tính dục quá trớn, coi thường các giá trị
hôn nhân, sống dâm dật và phóng đáng, người ta sẽ đâm ra nhàm chán và mất hết
cảm giác trước sự quan hệ tính dục với người khác phái và sẽ ngược chiều về một
quan hệ tính dục ngược lại. Tất nhiên, cũng có những người vốn sinh ra với sức
khoẻ và tâm lý bình thường, nhưng do hoàn cảnh đưa đẩy đã thực hành quan hệ
đồng tính như một sinh kế hay sống chung lâu với những người đồng tính nên bị
ảnh hưởng và dân dà đã trở thành những người có thói quen đồng tính.[46]
Đồng tính luyến ái làm mất đi sự bổ túc cần thiết
giữa người nam và người nữ, họ không học được “ngôn ngữ” khác biệt của người
khác phái, có một nỗi sợ hãi người khác phái, sợ việc chấp nhận và đánh giá sự
đa dạng của giới tính, và thiếu tin tưởng rằng người khác phái có một cái gì đó
để nói với họ. Vì từ chối kẻ khác, họ sẽ thu mình lại với chính mình. Nhưng có
người sẽ nói, “vẫn có tình yêu mà”. Không phải mọi tình yêu giới tính đều hợp
với luân lý, chỉ tình yêu giữa hai người khác phái trong hôn nhân hợp pháp mới
hợp với luân lý thôi. Hôn nhân của những người đồng tính luyến ái không bền, vì
không có khả năng sinh sản, đó là thử thách nặng nề nhất đối với mọi người.[47]
Trên thế giới nhiều nơi đã chấp nhận hôn nhân đồng
tính hay ít ra là được được thông cảm hay được nhân nhượng, nhưng tại nhiều nơi
khác lại bị cấm đoán và bài trừ như một tệ nạn xã hội. Từ khoảng thế kỷ thứ 18
trở về trước hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đều coi hiện tượng đồng
tính là một sa đoạ ghê tởm về luân lý đạo đức.[48]
Nhưng ngày nay, não trạng và tư duy con người đã
thay đổi nhiều, đã cởi mở và thông thoáng hơn, một số quốc gia cũng chấp nhận
hay thông cảm chấp nhận những người đồng tính như một hình thức sống chung mang
tính riêng tư giữa những người có chung một chí hướng, một ý muốn, một quan
điểm hay một lập trường. Ngoài ra về mặt tôn giáo có ba tôn giáo độc thần chống
đối, tức là những tôn giáo thờ một mình
Thiên Chúa là vị thần linh tối cao duy nhất, đó là Kitô giáo, hay đúng hơn là Giáo
hội Công Giáo, Dothái giáo và Hồi giáo. Dựa theo giáo huấn trong Sách thánh của
mình - Kinh thánh, sách Tora và sách Koran - cả ba tôn giáo độc thần này đều
coi sự quan hệ tính dục giữa những người đồng tính là “tội lỗi” và sẽ không bao
giờ chấp nhận.
Quan điểm đạo đức về tính dục đồng giới của Công
giáo được trình bày rõ ràng trong tuyên ngôn “persona umana” của Thánh Bộ Giáo
Lý và Đức Tin (1975):
Giữa những người đồng tính, có người mang khuynh hướng này bắt
nguồn từ những nền gíao dục sai lầm, từ sự thiếu phát triển tính dục bình
thường, từ thói quen trái ngược, từ gương mù
gương xấu hay từ những nguyên do tương tự, đây là khuynh hướng nhất
thời, hay ít nhất có thể chữa được; và có những người đồng tính dứt khoát là
như thế, như một thứ bản năng bẩm sinh hay do cấu tạo bệnh lý, được xem là
không thể chữa trị (số 8). Tuy nhiên, vẫn coi cấu trúc đồng tính luyến ái như
một hình tình trạng “bệnh lý”, là quan điểm trái ngược với kết luận của khoa
tâm lý.[49]
3.2. Thủ dâm
“Thủ dâm” là một hành vi con
người thể hiện qua việc thực hành tính dục một mình hoặc không có quan hệ liên
vị đúng nghĩa.[50] Thủ dâm nhấn mạnh
đến việc tự thủ cho chính bản thân mình trong cô đơn và tìm đến sự thoả mãn qua
việc kích thích có chủ ý vào các bộ phận tính dục. Trong bản tính tự nhiên của
nó, thủ dâm đi ngược lại với luân lý Kitô giáo về sinh hoạt đời sống tính dục.
Trong hoạt động thủ dâm chúng ta không thấy được sự trao hiến giữa hai bên và
sự phong phú trong giao ước giữa Chúa Giêsu và Giáo hội.[51]
Cũng như các vấn đề tính dục khác, trước khi đưa ra phán quyết luân lý về vấn
đề này, cần phải xem xét hiện tượng này từ quan điểm nhân học. Các thống kê cho
thấy: thủ dâm là một hiện tượng phổ biến và xẩy ra khá thường xuyên, nhất là
trong một số giai đoạn nào đó đời người.
Từ quan điểm sinh học, nhiều
bác sĩ cho rằng hiện tượng thủ dâm, nhất là nơi thanh thiếu niên, là một hoạt
động bình thường hoặc chẳng có gì đáng quan tâm. Oraison cho rằng, “ngoại trừ
các trường hợp thái quá, thủ dâm không gây ra bất cứ nguy hiểm hay phiền phức
nào cho sức khoẻ thể lý”.[52]
Từ quan điểm tâm lý học, thủ dâm được coi là một
hiện tượng tâm lý. Đây là một thực tại có mặt trong cấu trúc và trong sự tiến
hoá tâm lý con người. Thông thường môi trường không phù hợp là nguyên nhân phổ
biến dẫn tới việc thủ dâm nơi vị thành niên. Nếu trẻ con và thiếu niên không
tìm thấy bầu khí an toàn trong gia đình, thay vì mở ra cho tha nhân, chúng sẽ
khép kín nơi chính mình và sẽ sử dụng các năng lực tâm lý để tìm sự thoả mãn bù
trừ trong thế giới riêng của mình. Dung mạo của cha mẹ cũng có một ảnh hưởng
lớn trên trẻ con. Như một người mẹ đòi hỏi uy quyền thái quá cũng tạo ra nơi
đứa trẻ tình trạng nữ hoá về tâm lý và thái độ rụt rè đối với người khác phái;
tất cả điều này ảnh hưởng trên sự hình thành của hành vi thủ dâm thay thế. Một
môi trường học đường thù nghịch làm cho trẻ sống khép kín, và những cám dỗ bạn
bè đồng trang lứa cũng là những nguyên nhân dẫn tới việc thực hành thủ dâm.
[53]
Trong Kinh thánh, đoạn văn duy nhất của Cựu ước
thỉnh thoảng được trưng dẫn để nói về thủ dâm thì không rõ ràng và khập khiểng,
đó là Huấn Ca 23,16-17. Tân ước cũng không có lời ám chỉ rõ ràng minh bạch về
thủ dâm. Các sách giáo khoa luân lý thường
trưng dẫn vài đoạn sau: 1Cr 6,9-10; Ep 5,3; Gl 5,19-71, nhưng không đoạn
nào trực tiếp lên án thủ dâm. Các thánh Giáo phụ cũng giữ thái độ thinh lặng
tương tự trong Kinh thánh. [54]
Tuy nhiên khi khảo sát tài liệu của các tu sĩ tiên
khởi, Plé tìm thấy bản văn của Cassiano ám chỉ rõ ràng đến thủ dâm: chung chung
có ba thứ thủ dâm: loại thứ nhất hệ tại nơi kết hợp giữa đàn ông và đàn
bà; loại thứ hai là làm sự dâm dục mà
không tiếp xức với phụ nữ; và loại thứ ba là tội ham muốn dâm dục trong tư
tưởng. Các tác giả Kitô giáo đầu tiên đã quan tâm đến cái gọi là “sự ô uế về
đêm”.
Hướng quan điểm gần đây phân biệt giữa “tội cố
tình” và “tội cứ sự”. Theo Plé, hai luận cứ thần học dựa trên hai nguyên tắc:
thủ dâm là hành động chống lại tự nhiên; và thủ dâm là một “khoái lạc rối
loạn”. Chống lại tự nhiên, theo nghĩa truyền thống là cố tình xuất tinh ngoài
mục tiêu sinh sản, chống lại tự nhiên, đi tìm kiếm khoái lạc ngoài phạm vi duy
nhất được phép, nghĩa là ngoài hôn nhân, ích kỷ hưởng thụ một mình, không mở ra
với tha nhân, không ở trong trật tự hướng tới một người khác rối loạn hướng về
chính mình.
Theo ngôn ngữ phân tâm học, thủ dâm là tội “tự yêu
mình” hay “tự thoả mãn”. Tính cách vô luân của hành vi này hệ tại ở chỗ làm tổn
hại đến sự tiến triển hài hoà và năng động của cá nhân.[55]
Thủ dâm làm tổn hại sự trưởng thành tiệm tiến của nhân cách và của sự hội nhập
toàn diện con người, sự hội nhập trong mối tương quan liên vị và siêu việt. Về
mặt khách quan, việc thủ dâm đi ngược lại với đạo đức và luân lý Kitô giáo trên
phương diện tình yêu hôn nhân cũng như sinh hoạt đời sống tính dục. Để không bị
chìm đắm trong ngục tù của sự tối tăm, bạn nên thoát khỏi thói quen xấu đó bằng
việc thánh hoá bản thân và hãy coi đó là một tội. Bạn nên tạo cho mình một đời
sống quân bình, cởi mở với môi trường xung quanh để từ đó bạn cởi mở tâm hồn
với Thiên Chúa, với thế giới, với nhân loại và với những nhiệm vụ mà bạn nhận
lãnh.[56]
III. VẺ ĐẸP CỦA TÍNH DỤC THEO QUAN ĐIỂM KITÔ GIÁO
1. Tính dục mở ngõ cho huyền nhiệm
1.1. Tính dục
ngôn ngữ của loài người
Từ ngàn xưa tính dục đã được xem như một thực tại thánh thiêng,
cấm kỵ, được thần thánh hoá trong các tôn giáo (chẳng hạn như các tôn giáo phồn
thực), được giải thích bằng những huyền thoại thần thiêng và được cử hành bằng
những nghi lễ truy hoan tập thể mang mầu sắc tôn giáo.[57]
Ngày này, các quan niệm trên được giải mã,
giải thiêng và hầu như hoàn toàn bị bác bỏ bởi cái nhìn khoa học vế tính dục.
Tuy nhiên từ sự xuất hiện rất phổ biến của chúng trong các nền văn hoá và tôn
giáo, người ta phải thừa nhận rằng nơi con người, tính dục có cái gì đó bí
nhiệm, nó không chỉ là cửa ngõ mở ra với tha nhân trong thế giới hữu hạn, mà
còn mở ra trong thế giới vô hạn. Như chúng ta thấy, đối thoại là thành phần của
chiều kích tâm lý tính dục. Sự hợp nhất bản thân và mối quan hệ liên vị tạo nên
một động lực duy nhất. Bởi đó, sẽ không có sự trưởng thành cá nhân nếu không có
sự trưởng thành trong mối quan hệ liên vị và ngược lại[58].
Con người là một cấu trúc mở. Hiện sinh con người được cấu thành
trong mối quan hệ liên vị với tha nhân. Mỗi mối quan hệ với tha nhân đều được
ghi dấu bởi tính dục, và do đó tính dục tô điểm mọi quan hệ liên vị của con
người. Sự mở ngõ cho đối tượng trong giới tính được xác định rõ là một trong
những cuộc mạo hiểm quan trọng và là nhiệm vụ căn bản của con người. Nơi con
người, sự hấp dẫn sinh học giữa hai giới mở đường cho sự gặp gỡ liên vị. Đặc
biệt nơi con người, sự kết hợp hai giới tính không xẩy ra theo mùa. Đây là một
thực tại lệ thuộc vào sự năng động tiến hoá của con người.
Giao hợp tính dục là một ngôn ngữ đặc biệt để
có thể nói “anh yêu em hoặc em yêu anh” trong một cách thức mà không có thể làm
cho hợp”.[59]
Hoạt động tình dục có thể đầy lùi vui thú, cảm xúc hoặc chỉ là một dữ kiện, và
thậm trí chỉ là một công việc hàng ngày. Nó cũng có thể được sử dụng làm chỗ
dựa hoặc để yêu thương người khác. Nhưng tình dục cũng có thể bị dùng như phương
thế để làm nô lệ, sửa phạt, chỉ huy và lạm dụng. Thật vậy ý nghĩa của tình dục
tuỳ thuộc vào thời gian, không gian, phương thế, lý do và đối tượng. Chúng
thông truyền với nhau qua tình dục của mình. Cũng như khi chúng dùng ngôn ngữ
có lời và ngôn ngữ không lời để liên lạc với người khác, chúng ta có thể sử
dụng ngay cả ngôn ngữ tình dục. Ngôn ngữ tình dục được tạo dựng nhằm mục đích
truyền thông những cảm giác mạnh và sức thuyết phục của tình yêu. Nó không chỉ
là ngôn ngữ của tình yêu, nhưng còn là một yếu tố rất quan trọng trong hôn
nhân.
1.2. Tính dục
đưa con người vào mối
tương quan
Tính
dục làm cho con người có khả năng gặp gỡ những người khác. Nó là đường ra lối
vào của mỗi cá nhân trong thế giới loài người. Con người là một hữu thể “mở”.
Trước hết và trên hết, không phải mở ra cho thế giới sự vật, mà mở ra với những
người khác và với Thiên Chúa. Tự căn bản, con người là người trong tương quan,
nó thúc đẩy con người mở ra và ra khỏi chính mình. Nhờ đó, con người khám phá
ra “đối nhân” và đồng thời khám phá ra “chủ thể” là chính mình. Hơn nữa, sự mở
ra của con người không dừng lại trong mối tương quan “tôi-anh/em”, mà con vươn
tới mối quan hệ “chúng ta”.
Theo Merleau-Ponty,[60] nhận thức về thế
giới và nhận thức về tha nhân xẩy đến trực tiếp ngang qua gần gũi thân xác.
Những gì vốn gắn liền với con người được nhận biết ngang qua thân xác. Giống
như lời nói là biểu hiện của tư tưởng, thân xác là sự biểu lộ hay biểu hiện sự
hiện hữu của con người. Giới tính hay tính dục cũng là hình thức biểu lộ sự
hiện hữu. Chính tính dục “mang lại ý nghĩa” cho sự hiện hữu. Mà nếu tính dục
làm cho sự hiện hữu có ý nghĩa, “dấu hiệu” của nó chính là ước muốn của con
người được biểu lộ qua thân xác. Do đó thân xác không phải nhà tù hay mồ chôn
của tâm hồn theo cái nhìn nhị nguyên, mà thuộc về và là trung tâm của nhân
tính. Có thể nói, tính dục là ngôn ngữ giao tiếp giữa người với người trong
chiều kích sâu xa nhất của tương giao liên vị. Tình yêu tính dục có khả năng tạo ra một cộng đoàn. Nó ràng buộc con người lại với nhau, thân xác và linh hồn càng tham gia vào tình yêu đó nhiều, thì khả năng ràng buộc của tình yêu đó càng lớn. Tình yêu ấy sẽ tạo ra một bầu khí yêu thương, gợi lên những
tâm tình
biết ơn, quảng
đại và vui tươi.
2. Chiều
kích xã hội của tính dục
2.1.
Tính dục lý giải và định dạng thực tại xã hội
Cuộc
sống tính dục con người đặt trên nền tảng nhân học xã hội. Sự hiện hữu của thượng
tầng kiến trúc văn hoá xã hội nơi hành vi tính dục của con người bắt nguồn từ
tính chất riêng của thôi thúc tính dục nơi con người. Sự khác biệt lớn lao giữa
hành vi tính dục của con người và của con vật. Nó được đặt trên ba nét khác biệt
và đặc thù sau: [61]
Thôi
thúc tính dục dư thừa: khác với con vật, thôi thúc tính dục nơi con người
xuất hiện liên tục và không bị trói buộc trong giới hạn của một chu kỳ cố định.
Đây chính là nguyên nhân của sự dư tràn năng lực dục tính nơi con người, và nó
cần phải hướng tới những mục tiêu không trực tiếp liên quan đến tính dục. Chính
vì thế, các cấu trúc và thể chế xã hội được định ướng bởi các năng lực dư thừa
của bản năng, cách riêng của bản năng tính dục. Theo nghĩa này, tính dục mang
chiều kích xã hội.
Tính
cách “không thể đoán trước được”. Bản năng tính dục nơi loài vật hoạt động
theo bản năng cố định và “rất an toàn”, ngược lại, nơi con người bản năng này
lại mang tính cách “không thể đoàn trước được”. Do tính cách đặc thù này cuộc
sống tình dục của con người có nguy cơ hướng tới những xu hướng sai lạc. Chính
vì thế, cần phải có sự hiện diện của cấu trúc thượng tầng, để giúp con người
sắp xếp những thôi thúc bản năng vào trong những hành vi có ý thức, có văn hoá.
Giải
phóng khoái cảm tính dục. Con người có khả năng giải phóng khoái cảm tính
dục ra khỏi sự nô lệ mục tiêu thuần tuý sinh học. Điều này dẫn tới hệ quả tích
cực cũng như tiêu cực. Chính vì thế, cần phải có sự hiện diện của cấu trúc xã
hội thượng tầng nhằm điều tướng hành vi tính dục của con người; và những hình
thức khoái cảm tính dục tách rời khỏi mục tiêu sinh học phải phù hợp với khuôn
khổ và với cấu trúc văn hoá xã hội tương ứng.
2.2. Chiều kích văn hoá xã hội của
tính dục
Con người có một lịch sử, là
một lịch sử, và nắn đúc nên lịch sử. Họ là một phần của lịch sử này nhờ ý thức,
nhờ biết ơn và đồng thời phê phán lịch sử. Theo một quy
luật tự nhiên, sự thu hút
nhau do bản
năng tính dục của hai người nam và nữ khi gặp gỡ nhau.[62] Nhưng nếu việc kết hợp
tính
dục chỉ
dựa theo bản năng này thì chưa phải là tình yêu
nhân loại đúng nghĩa. Bên cạnh hay thậm
chí trước
cả khi có những biểu hiện của tình yêu tính dục ấy, quan hệ giữa các phái tính phải là một sự giao
tiếp cá nhân, biết kính
trọng, yêu thương
và quan tâm đến nhau.
Tính cách đặc thù của tính dục người là
nguồn gốc và nguyên nhân của thượng tầng kiến trúc xã hội về tính dục. Trước
tiên, cấu trúc xã hội này có nhiệm vụ bảo toàn mục tiêu của thôi thúc tính dục
dư thừa, bằng việc ổn định và chuẩn hoá xã hội. Thứ đến, nó định hướng cho sự
dư tràn năng lực tính dục nơi con người, ví dụ như: tránh xa sự lang chạ bừa
bãi…, sau cùng nó cung cấp những nguyên tắc xã hội phù hợp với việc thể hiện
năng lực dục tính trong đời sống con người.[63]
Hành vi tính dục người cần có một
định dạng văn hoá và xã hội. Cần lưu ý rằng các hình thức văn hoá tính dục rất
đa dạng và tương tác với các nhân tố xã hội và môi trường. Một đàng, tính dục
điều kiện hoá việc hình thành cấu trúc xã hội và cũng ảnh hưởng trên cách biểu
lộ của hành vi tính dục.
Định dạng xã hội có thể mang các
hình thức rất đa dạng. Do đó, không đồng hoá một hình thức nhất định với tính
cách hợp lệ đạo đức, đàng khác, cũng không thể đồng hoá luân lý với mọi hình
thức văn hoá xã hội hiện có. Luân lý có nhiệm vụ đánh giá và phê bình chiều
kích văn hoá xã hội như nó đã làm ở mức độ sinh học tâm lý.
Trong xã hội ngày nay, tính dục được
xem như một sự bù trừ ngày càng cần thiết đến mức, mối quan tâm về nó có thể
biến con người thành nô lệ. Tình dục sản sinh sự thất vọng triệt để hơn cả, đó
là sự thất vọng vế “ý nghĩa”. Khi mọi sự hầu như trở nên vô nghĩa, chỉ con lại
khoái cảm tức thời và những gì tạo ra. Ở mức độ này, tình dục đánh mất mọi ý
nghĩa nhân văn, trở nên tầm thường đến nỗi người ta có thể thương mại nó mà
không biết xấu hổ. Theo Schelky,[64] vai trò và ý nghĩa
mà tính dục đảm nhận luôn bị điều kiện hoá bởi cấu trúc toàn thể của bối cảnh
xã hội.
Chính
vì thế, trong xã hội tiêu thụ, tính dục được xem một thứ khoái lạc cần phải
hưởng thụ, như một thứ hàng hoá có thể buôn bán, đổi chác, hưởng thụ sở hữu
càng nhiều càng tốt. Một xã hội phát triển không ngừng con người cũng theo đà
tiến tới sự hoàn thiện trong ý thức, lối sống và nhân cách. Tuy nhiên tệ nạn xã
hội cũng sẽ tăng theo chiều hướng phát triển của xã hội. Đời sống tính dục
trong tình yêu dư tràn tăng theo xu hướng xã hội, sự phóng túng trong tương
giao tính dục là sự thoả mãn các ước muốn cá nhân tăng cao và nó được giải
phóng khỏi những ràng buộc áp đặt bởi xã hội. Con người tự xem mình như một hữu
thể tìm kiếm khoái lạc hoặc được phép tìm kiếm khoái lạc thực hành việc “yêu
hết mình” được xem như một đòi hỏi bình thường.
3. Chiều
kích hiện sinh của tính
dục
3.1. Tính dục
như hình thái hiện hữu
cá nhân
Giới tính là thành phần
của con người và có mặt trong tất cả hiện sinh của con người. Con người hiểu,
cảm nhận, suy tư và ước muốn như đàn ông hay như đàn bà. Vì thế, tính dục là
cấu trúc định dạng sự hiện hữu của con người.[65]
Theo Paul Ricoeur, con người
phải sống mối bất cân xứng giữa giới hạn và vô hạn; phải hợp nhất “sinh lực” và
“nhân tính “những gì là đặc thù của con người. Cấu trúc tính dục là nơi chốn ưu
tiên, trong đó con người trải nghiệm sự vượt qua hay sự hiện hữu bất xứng giữa
sinh lực và nhân tính. Chính vì thế, tính dục người vừa có chiều kích bản năng,
vừa có chiều kích nhân bản. Theo triết gia này “không thể giảm thiểu thoả mãn
tính dục nơi khoái cảm thể xác. Ngang qua khoái cảm, hữu thể người tìm thoả mãn
những đòi hỏi khác vượt trên bản năng đơn thuần; như thế sự vô hạn thâm nhập
vào con người, đồng thời nhân cách hoá con người, như thế, bản năng mất dần
tính cách chu kỳ mở ra cho vô hạn. Tính dục của con người chỉ đạt tới sự phân
biệt đặc thù khi nó mở ra với tha nhân[66].
Nếu thôi thúc tính dục chỉ được
sống ở mức độ quy ngã, con người tự giam hãm nơi chính mình trong vòng cương
toả của sự thoả mãn và tự chiếm hữu. Chính sự mở ra với tha nhân làm cho tính
dục con người mang một cung cách riêng và người hơn. Hành vi tính dục là hành
vi con người trong mức độ nó là hành vi đối thoại. Nói cách khác, chìa khoá để
giải thích hành vi tính dục của con người là việc giải thích chiều kích hiện
hữu và đối thoại của nó.
Về phương
diện tâm lý, tính dục không phải là một thực tại định sẵn bất di bất dịch, mà
là một năng lực phải được hoà nhập và trưởng thành. Do đó, tính dục là sức mạnh
xây dựng cái tôi, kiến tạo nên con người. Con người tự thể hiện mình qua
tính dục. Đúng hơn, tính dục là hình thức biểu lộ ưu tiên con người, như một
thứ ngôn ngữ của con người.
3.2. Đối mặt với
tính dục của
chúng ta
Tính dục hiện nay là thứ “tính
dục tiêu thụ”, hướng tới việc hưởng thụ càng nhiều càng tốt, và do đó mất chất
lượng. Nếu xem tính dục bao hàm ba cấp độ từ thấp lên cao: sesso, eros, agàpe,
thì ngày nay người ta có nguy cơ giảm thiểu tính dục vào mức độ thấp nhất:
sesso, tính dục ấu trĩ, sự thống trị của thứ tình dục tiêu thụ biến con người
thành những con nghiện khiêu dâm, ngày càng đòi hỏi nhiều hơn, nhưng không bao
giờ thoả mãn[67].
Cách sống tính dục trong xã hội
hiện đại ngày nay cho thấy một sự phá sản sâu xa nơi những giá trị cá nhân.
Đằng sau “làn sóng tình dục” ẩn chứa vấn đề nghiêm trọng khiến nhiều người quan
ngại: đó là thứ tình dục dồn nén, không trưởng thành và trong nhiều trường hợp,
có sự mù quáng.
Tính dục là nơi trải nghiệm của
sự sống và sự chết. Tính dục xuất hiện như một thực tại bí nhiệm, vừa hấp dẫn
vừa đáng sợ. Nó biểu hiện của sự sống, bởi lẽ tính dục thể hiện hai chiều kích
căn bản đó là sự kéo dài và mở rộng. Hai chiều kích này được biểu hiện lộ ngang
qua chức năng truyền sinh của tính dục, nhắm tới việc kéo dài và mở rộng giống
nòi. Bởi đó, tính dục là lễ hội của sự sống; là trải nghiệm niềm vui của sự
sống. Nó cũng là biểu hiện của sự chết, bởi lẽ tính dục, con người kinh nghiệm
được mầu nhiệm của sự chết. Chức năng sinh sản của tính dục vừa biểu lộ sự kéo
dài và mở rộng của sự sống, vừa chỉ ra giới hạn và thân phận phải chết của con
người. Do đó, tính dục có liên hệ mật thiết với sự chết cũng như sự sống. [68]
KẾT
LUẬN
Tính dục là một năng lực sáng tạo rất kỳ diệu nơi con
người, nhưng cũng là một điều đáng sợ và rất mỏng manh do sức mạnh tiềm tàng
của nó. Bản năng tính dục thúc đẩy con người tìm cách duy trì nòi giống như bản
năng tự bảo tồn đã thúc đẩy con người duy trì sự sống của mình bằng cách ăn
uống. Thiên Chúa đã cho khoái lạc đi kèm việc thoả mãn các bản năng ấy, nhưng
lạc thú không phải là mục tiêu và cứu cánh của việc thể hiện bản năng. Một khi
tách rời tương giao tính dục ra khỏi tình yêu, con người sẽ vấp phải sai lầm và
phải đối diện với sự dữ. Nếu con người biết đón nhận tính dục như món quà cao
quý mà Thiên Chúa tặng và sử dụng tính dục một cách hợp lý, chính đáng, trong
phạm vi cho phép, thì nó sẽ đem lại niềm vui, hoan lạc và hạnh phúc cho họ.
Ngược lại, nếu con người sử dụng tính dục chỉ để thoả mãn những đam mê dục vọng
của mình, thì nó sẽ gây ra cho họ những hậu quả khó lường.
[69]
Không bao giờ có thể làm cho tính
dục hoạt
động một cách có ý nghĩa, nếu chỉ coi đó là một giá trị chỉ quy về mình. Trái lại,
con người
phải
nhìn tính dục trong thế giới tương quan với người khác”. Hai
giới biểu
lộ sự lôi cuốn và yêu thương
nhau một
cách thâm
sâu, xác thịt và ngây ngất trong hành
vi yêu thương của tính dục. Tự bản chất, tình yêu tính
dục
làm cho một người tìm cách trở thành
kẻ đối
ngẫu
của người
khác giới với mình. Mọi hình thức khác của việc hoạt động
tính dục đều bất toàn, nếu không muốn nói là chưa trưởng thành hay là đồi bại. Mục tiêu hay
cứu
cánh của tình yêu
hoặc tính
dục theo
như thần học luân lý truyền thống thì
đều hướng
tới vai trò truyền sinh của hành
vi tính
dục. Bất
cứ mục tiêu nào khác mà con
người
nhắm tới
khi thể hiện tình yêu vợ chồng, đều đặt bên
dưới
vai trò cơ bản ấy.
Để giữ được vẻ đẹp của đời sống tính dục theo đúng ý định
ban đầu của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta cần phải biết và sống đúng mục đích
của tính dục mà Thiên Chúa đã trao ban, đồng thời cũng phải nghe theo giáo huấn
của Giáo hội về những giá trị, hành vi của đời sống tính dục. Có như vậy, chúng
ta mới có thể có được đời sống tính dục đúng đắn và lành mạnh, đem lại nhiều
lợi ích cho cuộc sống trần thế và hạnh phúc vĩnh cửu mai sau.
[1] Gioan Phaolo II. Thần học về thân xác.
Chuyển ngữ: Luis Nguyễn Anh Tuấn. Nxb Tôn Giáo. 2018. tr 10
[2] Viện ngôn ngữ học. Từ điển tiếng việt,
tr. 999
[3] Xc. Lê Đình Phương, CSsR. Luân lý giới
tính chuyên biệt. Lưu hành nội bộ. Nk 2016-2017. Tr 85
[4] Nguyễn Đức Thông. Luân lý giới tính.
Nxb Phương Đông. 2015. Tr 90
[5] Chia
sẻ, nội san thần học-muc vụ-tu đức LTSTP. “Đồng hành với giới trẻ giai đoạn tiền hôn nhân”. Số 85. Tr 119
[6] Xc. Nguyễn Văn Dụ. Để có được cái nhìn
Kitô giáo về tính dục. Tài liệu, ban mục vụ TGP Sài Gòn. Tr 9
[7] Xc. Gioan Phaolô II. Thần học về thân
xác. Tr 19
[8] Xc. Ibid., tr 22
[9] Xc. Ibid, tr 24
[10] Xc. Gioan Phaolô II. Thần học về thân
xác. Tr 25
[11] Xc. André Jos Léonard. Thân xác để yêu
thương. Lm Nguyễn Thái Tài. Nxb Đồng Nai. 2019. Tr 25
[12] Xc. Equipes Notre-Dame - Italia. Tình
yêu hôn nhân. Nxb Tôn Giáo. 2008. Tr 22
[13] Xc. Lê Đình Phương, CSsR. Luân lý giới
tính chuyên biệt. Tr 6
[14] Xc Equipes Notre-Dame - Italia. Tình
yêu hôn nhân. Tr 25
[15] Xc Lê Đình Phương, CSsR. Luân lý giới
tính chuyên biệt. Tr 7
[16] Xc Ibid. Tr 9
[17] Xc. Thần
học luân lý chuyên biệt III. Tủ sách chuyên đề. Tr 16
[18] Nguyễn Đức Thông. Luân lý giới tính.
Nxb Phương Đông. 2015. Tr 13
[19] Xc Lê Đình Phương, CSsR. Luân lý giới
tính chuyên biệt. Tr 19
[20] Xc. Nguyễn Đức Thông. Luân lý giới
tính. Tr 14
[21] Lê Đình Phương, CSsR. Luân lý giới tính
chuyên biệt. Tr 19
[22] Xc. Nguyễn Đức Thông. Luân lý giới tính.
Tr 15
[23] Lê Đình Phương, CSsR. Luân lý giới tính
chuyên biệt. Tr 20
[24] Xc. Nguyễn Đức Thông. Luân lý giới
tính. Tr 16
[25] Xc. Lê Đình Phương, CSsR. Luân lý giới
tính chuyên biệt. Tr 22
[26] Xc. Nguyễn Đức Thông. Luân lý giới
tính. Tr 19
[27] Xc.. Lê Đình Phương, CSsR. Luân lý giới
tính chuyên biệt. Tr 21-22.
[28] Ibid. Tr 29
[29] Xc. Lê Đình Phương, CSsR. Luân lý giới
tính chuyên biệt. Tr 33
[33] Nguyễn Đình Nhơn. Những góc
khuất trong tình yêu hôn nhân gia đình, Nxb Phương Đông, 2006. Tr 202.
[34] Thần
học luân lý chuyên biệt III. Tủ sách chuyên đề. Tr 93
[35] Théodule Rey-Mermet, CSsR. Một lối nhìn mới về luân lý. Nguyễn Đức Thông. Tr 273
[36] Xc André Jos Léonard. Thân
xác để yêu thương. Lm Nguyễn Thái Tài. Nxb Đồng Nai. 2019. Tr 69
[37] John L. Thomas, SJ. Bước
vào đời sống hôn nhân. Tr 98
[38] Xc André Jos Léonard. Thân
xác để yêu thương. Tr 68
[39] https://vi.wikipedia.org › wiki › Nô_lệ_tình_dục. Truy cập
8/12/2019
[40] Lê Đình Phương, CSsR. Luân
lý giới tính chuyên biệt. Tr 18
[41] Xc mfvietnam.org › than-hoc-ve-than-xac-va-hoat-dong-tinh-duc.
Truy cập ngày 9/17/19.
[42] Lê Đình Phương, CSsR. Luân
lý giới tính chuyên biệt. Tr 40
[43] Xc. André Jos Léonard. Thân
xác để yêu thương. Tr 45
[44] Xc. Ibid., tr 46
[45] Dale O’Leary. Một nam
một nữ. UBMVGĐ, Hội đồng Gíam Mục VN. Nxb Tôn Giáo. 2018. Tr 196
[46] Nguyễn Hữu Thy. Những
suy tư đúng đắn về hôn nhân và gia đình công giáo. Nxb TTMVGP Trier,
CHLB Đức. Tr 331
[47] Nguyễn Đức Thông. Luân
lý giới tính. Nxb Phương Đông. 2015. Tr 179
[48] Nguyễn Hữu Thy. Những
suy tư đúng đắn về hôn nhân và gia đình công giáo. Nxb TTMVGP Trier,
CHLB Đức. Tr 332
[49] Lê Đình Phương, CSsR. Luân
lý giới tính chuyên biệt. Tr 42
[50] Xc Ibid. Tr 51
[51] Xc André Jos Léonard. Thân
xác để yêu thương. Tr 40
[52] Lê Đình Phương, CSsR. Luân
lý giới tính chuyên biệt. Tr 52
[53] Xc Thần
học luân lý chuyên biệt III. Tủ sách chuyên đề. Tr 60
[54] Xc Lê Đình Phương, CSsR. Luân
lý giới tính chuyên biệt. Tr 55
[55] Xc mfvietnam.org › than-hoc-ve-than-xac-va-hoat-dong-tinh-duc. Truy cập ngày 21/8 2019
[56] Xc André Jos Léonard. Thân
xác để yêu thương. Tr 45
[57] Lê Đình Phương, CSsR. Luân
lý giới tính chuyên biệt. Tr 15
[58] Xc Ibid. Tr 11
[60] Xc. Lê Đình Phương, CSsR. Luân lý giới tính chuyên biệt. Tr 14
[61] Xc. Ibid., tr 12
[62] Nguyễn Đức Thông. Luân
lý giới tính. Nxb Phương Đông. 2015. Tr 97
[63] Lê Đình Phương, CSsR. Luân
lý giới tính chuyên biệt. Tr
13
[64] Ibid., tr
17
[65] Xc. Lê Đình Phương, CSsR. Luân lý giới tính chuyên biệt. Tr 14
[66] Xc. Lê Đình Phương, CSsR. Luân lý giới tính chuyên biệt. 12
[67] Ibid., tr 16
[68] Xc Ibid. Tr 14
[69] Xc Equipes Notre - Dame. Tình
yêu hôn nhân. Tr 30
Đăng nhận xét