“Bên ngoài”- “Bên trong”- “Bên trên”

 Con người khoa học kỹ thuật

thì luôn chắc tâm về đáp án của mình;

nhưng bản chất con người có tự do lại luôn tò mò, bị lôi cuốn

như một khao khát khám phá kết cuộc còn ẩn dấu của câu chuyện.

Lm. Giuse Nguyễn Trọng Viễn, OP.

1. Chân lý và chân thực
1.1. Bên trong và bên ngoài

Thế giới bên ngoài là sự vật, là biến cố và sự kiện, là lịch sử diễn tiến, là thế giới khách quan. Ta gọi chung những điều đó là thực tại. Thế nhưng, vì con người có hồn và xác, con người không thể buông trôi đời mình theo những diễn tiến hoàn toàn khách quan của thực tại, nhưng con người có khả năng gán nghĩa cho thực tại, có khả năng và cần phải đọc ý nghĩa của thực tại theo cách thức riêng của mình. Đó là mối tương quan giữa thực tại và ý nghĩa, hay mối tương quan giữa bên ngoài và bên trong.

Trong thế giới Tây phương, người Hy Lạp chưa biết đến thế giới bên trong. Nếu như Socrate nói “hãy biết mình”, thì “cái tôi” của Socrate thật ra cũng chỉ là một cái tôi “ở ngôi thứ ba”, cái tôi được đặt thành một đối tượng khách quan để quan sát và phân tích như thể từ bên ngoài.

Trong khi đó, chính truyền thống Do Thái - Kitô giáo mới đóng góp cho thế giới Tây phương một thế giới bên trong đích thực. Các Ngôn sứ Cựu ước, chẳng hạn Isaia kêu gọi vua và tư tế cần phải sống đức Tin bằng chính tấm lòng của mình, bằng một sự hoán cải từ bên trong... Đức Giêsu nối tiếp truyền thống các ngôn sứ để rao giảng về sự sám hối từ bên trong; và thánh Phaolô đã nhiều lần nêu lên và mô tả một cách phong phú những đề tài về lương tâm...

Đặc biệt nhất, thánh Âu Tinh đã đưa đường nét nổi bật ấy của truyền thống Do Thái Kitô giáo vào lịch sử triết học Tây Phương, đặc biệt trong tác phẩm Tự Thuật (Bên Á Châu, người ta đã thấy đường nét bên trong đã rất mạnh, chẳng hạn có trường phái Phật Giáo chủ trương vạn sự do tâm). Rồi với Descartes, thế giới bên trong được xác định một cách rõ ràng và trở thành một yếu tố không bao giờ được bỏ quên trong suy tư triết học ở Tây phương.

Thế giới bên trong ở đây không phải chỉ là “cái tôi ở ngôi thứ ba” được đặt đằng trước một lý trí như một sự kiện thuần túy khách quan, như trong triết học Hy Lạp, nhưng thế giới bên trong ở đây là một sự sống phong phú vô tận của tự do, của khả năng “sáng tạo” giá trị vô tận, của cảm nhận ý nghĩa cách “riêng tư”...  Như thế, người ta bắt đầu nhận ra có mối nguy cơ về sự phân cực giữa duy tâm và duy vật.

1.2. Tương quan lệch lạc giữa bên trong và bên ngoài

Khi thế giới bên trong không được phát triển đúng đắn và phong phú, người ta có thể rơi vào tình trạng đánh giá sự vật theo quy luật “thực dụng” của sự vật; người ta chỉ có “lý trí khoa học”, chỉ thấy giá trị của sự vật theo khía cạnh “sung sướng”. Đó là khuynh hướng duy vật, vì mặc dù nhận thức luận Mác xít vẫn cho rằng tinh thần phản ảnh thế giới khách quan và khám phá ra bản chất… nhưng quy chuẩn cuối cùng của bản chất vẫn chỉ là vật chất. Khuynh hướng này khó lòng tìm thấy được chân lý nhân văn vững bền...

Cũng thế, có khi thế giới bên trong uốn nắn cách khiên cưỡng chân lý của thực tại, tạo ra những ý nghĩa giả tạo (giống thái độ AQ trong AQ Chính Truyện của nhà văn Lỗ Tấn) hoặc ý nghĩa ngược ngạo khi đưa ra những ý nghĩa trái ngược với nền tảng nhân văn hoặc siêu nhiên mà Thiên Chúa đã đặt để trong thực tại (Chẳng hạn chủ trương giết bớt người “hèn kém” nhằm để làm trong sạch xã hội con người như Hitler)

1.3. Còn có thế giới “bên trên”

Điều quan trọng cần lưu ý là: tuy truyền thống Do Thái Kitô giáo có công làm lộ ra sự hiện hữu của thế giới bên trong, nhưng nền tảng của chân lý vẫn luôn là thực tại, là lịch sử khách quan, là biến cố và sự kiện. Lý do chính yếu là vì truyền thống này xác tín về quyền Thiên Chúa ban cho con người để “đặt tên cho muôn vật”; nhưng ngoài sự hiện hữu của thế giới bên trong và bên ngoài, người tín hữu luôn phải nhớ còn có thế giới “bên trên” tức là quyền của Chúa. Chính Chúa đã ngầm đặt những giá trị khách quan nơi thực tại và Thiên Chúa trao cho con người quyền cũng như trách nhiệm để làm lộ ra những ý nghĩa chân thực của thực tại. Do Thái Kitô giáo không lạc vào chủ nghĩa duy tâm hoàn toàn có quyền gán nghĩa chủ quan của mình cho thực tại; và cũng không rớt vào thứ chủ nghĩa duy vật, chỉ thấy những “thực tại thô” và tuân theo quy luật tương tác thực nghiệm của sự vật.

Thực tại thuộc thế giới bên ngoài; ý nghĩa thuộc về thế giới bên trong. Con người được quyền “đặt tên” cho muôn vật, được quyền gán nghĩa cho thực tại một cách tự do và khai mở thế giới phong phú có “vô cùng ý nghĩa”, nhưng lại không bao giờ được bẻ quặt thực tại ngược với ý định của Chúa đã đặt để, đã hàm chứa trong thực tại. Con người được quyền “đặt tên” cho muôn vật theo sự tự do của mình, nhưng không phải con người muốn sao thì ra vậy, vì chính Chúa mới là cội nguồn của chân lý. Có thể gọi điều hàm chứa trong thực tại khách quan là “chân lý”; còn ý nghĩa, giá trị được cảm nhận của thế giới tinh thần bên trong con người là “chân thực”. “Cái lý” là cấu trúc khác quan bên ngoài, còn “cái lẽ” là ý nghĩa bên trong mang tính cá nhân chủ quan. Chân lý thì có một nhưng chân thực thì lại vô cùng phong phú. Hai khía cạnh ấy không mâu thuẫn hoặc loại trừ nhau, nhưng tương tác và bổ túc cho nhau.

Một thái độ đúng đắn chính là biết lắng nghe, trân trọng những cảm nhận chân thực khác nhau để làm phong phú nhiệm cục sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa cũng như làm phong phú bản thân mình; miễn là những điều đó không ngược với chân lý. Con đường tìm chân lý không nhất thiết đưa đến thứ cãi vã của những kẻ giáo điều.

Chúng ta thấy một ví dụ rõ ràng là: sự kiện Đức Giêsu chỉ có một, nhưng lại được cảm nhận khác nhau qua kinh nghiệm đức Tin chân thật của ít là bốn thánh ký trong bốn Tin Mừng khác nhau. Tuy nhiên, cả bốn thánh ký đều là “hoa trái” của một Thánh Thần duy nhất.

1.4. Tầm quan trọng của học hỏi và giáo dục

Một nền giáo dục chân chính khi người ta giúp cho người thụ huấn có được những giá trị nhân văn đích thực, giá trị siêu nhiên đích thực. Ngược lại, khi được trang bị bằng những triết thuyết, những tư tưởng sai lạc, khiên cưỡng hay ngược ngạo, người ta sẽ dễ biến người thụ huấn thành những người “vong thân”.

Một sự giáo dục chân chính cũng là làm cho phong phú thế giới bên trong, trong sự tôn trọng tự do tư tưởng của phẩm giá người. Một ví dụ rõ ràng là xã hội Việt Nam hiện nay có quá nhiều lệch lạc và tội phạm mà người ta không thể nào chỉ giải quyết bằng luật pháp bên ngoài: người sản xuất không có đủ đạo đức cá nhân bên trong để bảo đảm cho hàng hoá mình tạo ra trong nền kinh tế thị trường, người ta cố gắng để thực hiện một “nhiệm vụ chính trị” mà không bận tâm về sự thúc bách thực hiện “nhiệm vụ nhân bản” đích thực, người ta chỉ thấy hệ quả lịch sử mà không thấy gì về phẩm tính trong những hành vi phi nhân của mình...

Thật ra, điều mang tính quyết định của vận mệnh con người ở chỗ con người đã từ chối ánh sáng “bên trên”, tự tin vào khả năng của chính mình

2. Lương tri và lề luật
2.1. Từ hiện trạng đất nước

Có lẽ Trung Quốc và Việt Nam hiện nay là nơi có nhiều tính thế gian nhất, thứ “thế gian thù địch” ẩn khuất trong những sinh hoạt bình thường nhất, chui rúc vào mọi ngõ ngách của xã hội và lòi đuôi cả trong những lề thói của Hội Thánh Việt Nam. Có lẽ chính ở Việt Nam này và trong tầng thách đố muôn thuở của phận người, là nơi “thực tập” tốt nhất cho những người môn đệ của chân lý...

Trong những ngày cuối năm 2019 và bước sang năm mới 2020, có một bài báo của tác giả Phạm Văn, đăng trên Dân Làm Báo, muốn nhìn lại vấn đề của Đất Nước bằng sự phân biệt giữa lương tri và lẽ thật. Tác giả đã cố gắng moi móc sâu hơn cội nguồn của những suy thoái trong xã hội Việt Nam, cội nguồn của tình trạng sở hữu cộng đồng giả tạo, cội nguồn của tuyên truyền dối trá, cội nguồn của bất công và cái ác đang hoành hành... bằng sự sai lệch giữa lương tri và lẽ thật.

Tác giả cho rằng lương tri là sự tổng hợp của tình cảm và nhận thức... để hướng dẫn hành vi con người, nhưng lương tri ấy cần cảm nhận được thứ lương tri đầu tiên làm nền cho tất cả tri thức về cảm xúc về cái thiện, cái đẹp. Theo tác giả Phạm Văn, lương tri là khả năng ý thức về “lẽ thật” khách quan và vững bền.

Như thế là, trước tình hình rối bời của đất nước, tình trạng đấu đá của các thế lực, tình trạng mọi người tranh giành để sống, tác giả nhận ra cần có một tiêu chuẩn nền tảng hơn. Mặc dù bài báo ấy, theo tôi, chưa được mạch lạc lắm, nhưng những nỗ lực của tác giả đã đụng tới một vấn đề sâu xa trong dòng lịch sử triết học Tây phương:

2.2. Nhìn lại lịch sử xa xưa

Trong truyền thống Hy Lạp, chữ syneidesis được hiểu là “cùng biết”, nghĩa là một thứ cảm thức chung của con người. Thế nhưng, thời các giáo phụ, trong bầu không khí Kitô giáo, lại xuất hiện thêm từ ngữ synderesis, được hiểu là “sự gìn giữ”, “sự duy trì”; nghĩa là khả năng gìn giữ, duy trì một tia lửa (scintilla animae) của Thiên Chúa, đã được gieo rắc trong tâm hồn con người.

Như thế, chữ lương tri synderesis được hiểu như một thứ lương tri có cội nguồn, đặt nền trên một chân lý khách quan và vững chắc từ nơi Thiên Chúa. Từ chiều ngang của sự “cùng biết”, các giáo phụ Kitô giáo đã thêm vào chiều dọc của lẽ thật của Thiên Chúa. Tuy vậy, từ thế kỷ 16-17, các nhà thần học luân lý dần dần bỏ mất phần cội nguồn “bên trên” của synderesis, để chỉ còn chú ý đến tầm quan trọng của lương tâm (conscientia) như một sự hòa hợp giữa “ý thức bên trong” và “hành động bên ngoài”. Đến thế kỷ 18. Kant lại củng cố thêm điều đó, khi ông muốn thiết lập một nền luân lý tự nhiên, bắt nguồn từ một mệnh lệnh nhất quyết đồng nhất nơi lý trí tự nhiên của mọi người...

2.3. Tử huyệt của thế giới

Sự lệch hướng ấy trở nên bước đi định mệnh mới cho thời hiện đại. Ngỡ như chuyện nhỏ, nhưng thật ra, sự lệch hướng ấy làm lộ ra tử huyệt của thế giới hiện đại, bộc lộ rõ ràng nhất trong những nước chủ trương vô thần.

Bước đi ấy để lại hệ quả gì cho thế giới hôm nay?

Quả thật, chúng ta đang sống trong một thời đại vắng bóng Thiên Chúa, không phải chỉ như một đối tượng phụng thờ, nhưng vắng bóng Thiên Chúa còn như một sự hụt hẫng cội nguồn của tất cả mọi giá trị nhân văn. Người ta tưởng Thiên Chúa ở bên ngoài con người, ép buộc con người tước đoạt tự do của con người, và người ta chối từ Thiên Chúa. Nhưng con người không ngờ, không có Thiên Chúa, chính chỗ đứng của con người bị lung lay.

Con người được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa, và lương tri chính là tia lửa Thiên Chúa ban cho con người. Nhưng tia lửa ấy phải được giữ gìn, được bảo tồn, được nuôi dưỡng... bằng chính “Lời Thiên Chúa” hay bằng chân lý của Chúa. Khi nguồn nhiên liệu nuôi dưỡng tia lửa lương tâm đã mất, con người loay hoay trong bóng tối nhá nhem.

Đức Gioan Phaolô II, trong di chúc tinh thần của ngài, mang tên Ký Ức và Căn Tính cũng cho thấy con người bỏ Thiên Chúa và rơi vào thứ “văn hóa cạnh tranh”; bỏ Thiên Chúa và con người không còn có một triết lý đích thực về sự ác. Người ta dùng sự ác này để diệt trừ sự ác kia, và sự ác lây lan nhiều hơn nữa... 

Tác giả Phạm Văn đã bắt mạch trúng căn bệnh xã hội hôm nay. Theo kinh nghiệm của ông, những người Cộng Sản ban đầu có thể có tình cảm yêu nước thương nòi thật sự, nhưng họ đã không thoát được bối cảnh của nền văn hóa căn bản. Người Việt Nam nói chung, sống trong bầu không khí tuyên truyền dối trá, sống trong sự xô đẩy nghiệt ngã của quy luật sống còn, sống trong thái độ luôn phải phòng vệ ... đã rơi vào những ngộ nhận về sự thiện, ngộ nhận về lẽ thật, ngộ nhận về cái đẹp ...

3. Bài toán – câu chuyện – câu chuyện cứu độ
3.1. Tình tiết và cấu trúc một câu chuyện

Dĩ nhiên Kinh Thánh không trình bày những chân lý khoa học, nhưng thiết yếu là tỏ bày nẻo đường cứu độ của Thiên Chúa. Tuy nhiên, qua Kinh Thánh, chúng ta còn nhận ra một thứ “bản chất siêu hình” của vận mệnh con người dưới khía cạnh tự nhiên: bản chất cuộc sống con người là một câu chuyện. (câu chuyện là một cách nói khác của của khái niệm sử tính, khác với sử học và sử quan).

Trong khi những câu chuyện trong cách sách Kinh Điển trong những tôn giáo khác đã nối kết những tình tiết của một câu chuyện theo “cấu trúc toán học”, nhằm trình bày một khuôn mẫu lý tưởng, một bài học giác ngộ và luân lý. Với những mô hình mẫu ấy, người ta có thể dễ dàng đưa ra một thang điểm, dễ dàng chấm điểm và xếp hạng những loại người khác nhau. Cấu trúc toán học đã thu gom thế giới con người vốn muôn màu và huyền nhiệm vào những công thức cố định, và đưa ra đáp số một cách chắc chắn như một bài toán …

Sách Thánh cũng kể những câu chuyện, với những tình tiết biến thiên, có vẻ không khác lắm với những sách kinh điển của các tôn giáo khác. Nhưng thật ra, trong khi trình bày lịch sử ơn cứu độ, Sách Thánh cũng đưa ra một thứ “cấu trúc” căn bản của vận mạng con người. Sách Thánh trình bày các tình tiết của các nhân vật trong lịch sử theo cấu trúc của một câu chuyện. Câu chuyện của mỗi con người có những tình tiết riêng và mỗi tình tiết, cho dù là những tình tiết xấu hay tốt về mặt luân lý, cũng đều góp phần làm nên bản sắc và vận mạng của chính nhân vật ấy.

3.2. Cấu trúc nào cho các tình tiết trong cuộc đời?

Bình thường, một bài toán đúng chỉ có một kết quả. Trong bài toán, khi có những dữ kiện, thì kết quả gần như đã có rồi. Những cách giải toán dù có biến thiên hay khác biệt nhau thế nào, thì cũng vẫn chỉ là một lô-gíc cố định, đưa tới đáp số đã có và chỉ có thể đi đến đáp số ấy mà thôi.

Câu chuyện thì khác. Câu chuyện luôn bất ngờ. Người ta tò mò hoặc say sưa đọc truyện, nghe chuyện vì muốn biết được kết cục của câu chuyện, vì muốn nhìn thấy một kết cục theo ý mình... Khi mà tác giả tìm thấy những tình tiết vừa chân thực, vừa "hợp lý" lại vừa tạo nên một sự chuyển hóa thật ly kỳ thì câu chuyện trở nên hấp dẫn và có giá trị...

Cuộc đời con người không phải là một bài toán đúng nghĩa, nhưng là một câu chuyện đúng nghĩa. Một con người là một huyền nhiệm và một cuộc đời luôn hàm chứa những bất ngờ, luôn ẩn chứa một hoặc nhiều khả năng "sáng tạo". Sự có mặt của một con người nào đó chính là dấu chỉ xuất hiện một cái mới, một bắt đầu mới và luôn có thể trở nên mới...

Hơn nữa, cách làm mới của Chúa thật là kỳ diệu. Cách của Chúa không phải là cắt bỏ cái cũ, không phải là cắt đục, đẽo gọt, hoặc uốn nặn ngẫu hứng. Thiên Chúa làm mới cuộc đời con người bằng cách đi vào lịch sử con người, đón nhận những dữ kiện đã hình thành trong cuộc đời mỗi con người. Thiên Chúa đi vào bài toán cuộc đời con người để biến bài toán ấy nên một câu chuyện mới, câu chuyện hấp dẫn với những chuyển biến vừa "hợp lý", vừa kỳ diệu, vừa tôn trọng tự do con người, vừa bộc lộ quyền năng của tình yêu, hàm chứa sự khôn ngoan vượt bậc trong quyền năng và thấm nhuần thứ tình yêu đầy lòng thương xót trong quyền năng vô biên của Ngài...

Cái mới ấy không phải chỉ từ trên trời rơi xuống, nó nảy sinh từ chính những dữ kiện cụ thể của lịch sử, nhờ sự “đồng hành” của thế giới bên trên. Câu chuyện đời luôn đón nhận nguồn cội trong dòng lịch sử thật, nhưng lại luôn hàm chứa những yếu tố, những cách lý giải có thể khác, luôn có thể vượt qua thứ lô-gíc toán học để bay lượn trong bầu trời của tự do. Con người ta có tự do. Với tự do, phương thức giải toán trở nên thiếu sót; đáp án đời người trở thành một tác phẩm nghệ thuật được sáng tạo với tất cả tài năng của người nghệ sĩ chứ không phải là một thành quả kỹ thuật được xếp hạng cao thấp...

Con người khoa học kỹ thuật thì luôn chắc tâm về đáp án của mình; nhưng bản chất con người có tự do lại luôn tò mò, bị lôi cuốn như một khao khát khám phá kết cuộc còn ẩn dấu của câu chuyện.

Mỗi con người chính là người kể chuyện đời mình. Mỗi người là một đạo diễn, là một tiểu thuyết gia, là người nghệ sĩ đích thực trên chất liệu cuộc đời mình. Thiên nhiên và xã hội cung cấp cho con người những dữ kiện, nhưng chính con người mới là kẻ cấu trúc nên câu chuyện đời mình. Người ta thường nói "xấu nhưng cấu trúc đẹp", đó cũng là cách nói thay cho kiểu nói "nhất dáng nhì da".... và cách nói chơi đùa ấy cũng có thể hàm một ý nghĩa "triết lý" sâu xa. Chất liệu làm nên bức tranh hoặc pho tượng nào đó có thể không tốt, nhưng điều đó không có nghĩa là người ta không thể tạo nên được một tác phẩm nghệ thuật tuyệt hảo. Với con người, điều đó càng đúng hơn rất nhiều, nếu người ta bỏ đi được cách nhìn so sánh thô thiển, nếu người ta đừng đánh giá được thua theo tiêu chuẩn của một thứ thành đạt xã hội nào đó.

Cuộc đời con người là một câu chuyện, một câu chuyện có thể mở ra vô cùng kết quả khác biệt. Câu chuyện đời của mỗi con người quả là một huyền nhiệm, vì chính bản thân mỗi con người đã là một huyền nhiệm, và kế hoạch của Thiên Chúa trên cuộc đời con người lại là một huyền nhiệm gấp đôi. Câu chuyện đời người có thể "diễn ra" trong bối cảnh một làng quê hoặc bối cảnh những đại gia giàu có. Vai chính của câu chuyện có thể là một bác sĩ mà cũng có thể là một bệnh nhân, có thể là một vị tổng thống hoặc một người mẹ đau nặng... Điều quan trọng hơn là câu chuyện ấy lạt lẽo nhàm chán hoặc đầy kịch tính; đầy ý nghĩa nhân văn hoặc là những thứ câu khách rẻ tiền; hé mở được thực tại huyền nhiệm của đời người hoặc chỉ là sự nối kết những sự kiện lòe loẹt..; và điều quan trọng hơn hết là câu chuyện của một người lại có thể "gợi hứng" như một lời chứng chân thật cho những câu chuyện đời phong phú muôn mặt của mỗi người. Giá trị câu chuyện cuộc đời được "đo" bằng những khúc quanh bất ngờ đầy ý vị...

Hãy đọc một câu chuyện để đừng đóng khung đời mình theo một thang điểm nghèo nàn; hãy nghe một câu chuyện để tìm thấy những chân trời mới lạ nơi cuộc đời mình. Hãy chiêm ngắm câu chuyện một vị thánh để gia tăng lòng trông cậy vào Chúa... Đứng trước câu chuyện đời mình, mỗi người cần nghe được mời gọi sáng tạo, cần nhận ra một năng lực thôi thúc sáng tạo mãnh liệt nhất, để vượt thắng cái lôgic máy móc của khoa học thực nghiệm.

3.3. “Nghệ thuật” chứ không phải “kỹ thuật”

Trong cấu trúc một câu chuyện, ta có thể nhận ra bản chất của đời sống con người đích thực là một “nghệ thuật” chứ không phải là một “kỹ thuật”. Kỹ thuật cao có thể thay thế hoàn toàn và có thể loại trừ hoàn toàn kỹ thuật thấp. Nhưng không bao giờ nghệ thuật này lại có thể loại trừ nghệ thuật kia. Trong kỹ thuật, mọi thứ được xếp vào một thang điểm chung, và người ta có thể chấm điểm mỗi sản phẩm thành một con số. Điều đó không là gì khác hơn hạ giá phẩm tính trở thành lượng tính; và khi áp dụng vào con người, thì đó là hạ giá nhân linh trở thành sự vật.

Trong khi đó, nghệ thuật lại là sự sáng tạo trong tự do, hình thành nên một câu trúc toàn thể, có nét duyên riêng, độc đáo như “hồn” của sản phẩm. Tác phẩm như thế có thể tự đứng một mình mà không bị chìm khuất trong đám đông vô danh như những sản phẩm kỹ thuật. Vận mạng của một con người được nhìn như một câu chuyện có khả năng trở nên một tác phẩm nghệ thuật như vậy. 

3.4. Câu chuyện đời và câu chuyện cứu độ

Con người có thể viết lên câu chuyện đời mình, nhưng bình thường kết cấu câu chuyện con người viết ra quá lỏng lẻo... Chất liệu con người có thể có được không an toàn để xây khung trời mơ ước... Nhưng Thiên Chúa đã dính dáng vào đời người như một Đồng Tác Giả. Thiên Chúa khai mở chân trời siêu việt, Thiên Chúa gợi ý cho những nẻo đường quanh co, Thiên Chúa trợ giúp tích cực cho những tình huống bế tắc... để có thể đi đến một kết luận "có hậu". Quả thật, Thiên Chúa vẫn có thể viết lên những câu chuyện đẹp từ những chất liệu xấu. Từ những bước rẽ lệch lạc do con người tạo nên, Thiên Chúa vẫn có thể "ráp nối" nên một câu chuyện đẹp, mặc dù câu chuyện ấy sẽ đau thương hơn, bi tráng hơn. Huyền nhiệm cuộc sống chỉ có thể được khai mở trong dòng một câu chuyện. Chìa khóa toán học không mở được huyền nhiệm ấy, chỉ có sự trân trọng cuộc đời mỗi người như một câu chuyện mới có thể mở ra cánh cửa huyền nhiệm.

Có lẽ hầu hết những nhà tri thức và cả những nhà nghiên cứu tôn giáo ngoài Kitô giáo đều không hiểu được quan điểm mạc khải Kitô giáo, nên cũng rất thường bị sốc về những câu chuyện trong Kinh Thánh, nhất là Cựu Ước, và đã có những cách phê bình “đánh vào không khí”. Tác giả Trần Chung Ngọc chẳng hạn có lần nói rằng không thể hiểu được tại sao những người Kitô giáo lại tin vào một Thiên Chúa ác độc như vậy…

Vận mạng con người trong mạc khải Do Thái-Kitô giáo là một sự đan bện kỳ lạ giữa thánh thiện và ô trọc, giữa cao cả và man rợ, giữa vĩnh cửu và thời đại… một sự đan bện làm nên một vận mạng của một Dân tộc hoặc một cá nhân, sự đan bện giữa hai điều trái nghịch, không thể đồng hoá với nhau mà cũng không phải tách biệt nhau trong một câu chuyện duy nhất. Sách Thánh Do thái Kitô giáo là câu chuyện tình, nơi đó, Thiên Chúa không muốn chờ đợi khi nào con người thật sự văn minh, nhân bản, anh hùng…rồi mới tỏ lòng yêu thương và giao ước với con người. Ngài đón nhận con người ngay khi con người còn man rợ, Ngài liên luỵ với con người ngay trong sự ngu dốt về khoa học, tàn bạo trong những tục lệ, sự cứng lòng trong chính trị, sự ô uế trong luân lý,…S ách thánh Do Thái-Kitô giáo tỏ bày câu chuyện tình ấy, không phải chỉ trong nội dung ý nghĩa của câu chữ, nhưng còn trong chính “cấu trúc siêu hình” của bản văn mạc khải.

Theo quan điểm Giáo hội, Thiên Chúa mạc khải cho con người bằng cách đón sự cộng tác của thánh ký với trọn vẹn kiến thức, văn hoá, tính tình, địa vị và hoàn cảnh của Thánh ký. Thiên Chúa đón nhận những “dụng cụ bất toàn” ấy để nói lên chân lý của Ngài, ẩn chứa trong những lớp vỏ của những con người đầy giới hạn và bất toàn… Toàn bộ và từng chi tiết của Sách Thánh, cả trong những điều man rợ hoặc phi lý, hoặc sai lầm…, đều được linh hứng, nghĩa là được Thiên Chúa sử dụng, được Thiên Chúa tác động, và phải được tôn kính. Nhưng linh hứng không đồng nhất với chân lý mạc khải. Giáo hội tôn kính toàn bộ Sách Thánh, nhưng không phải chấp nhận như chân lý toàn bộ những điều trong đó, mà phải biết phân biệt đâu là ý Chúa, đâu chỉ là quan niệm của thánh ký.

Sách Thánh Do Thái-Kitô giáo đã đón nhận ngôn ngữ và những tình tiết của lịch sử nhân loại, cả những tình tiết tội lỗi và nhơ uế, để cấu trúc nên một câu chuyện “có hậu”, câu chuyện cứu độ… Thiên Chúa cứu độ là Thiên Chúa của lịch sử, con người được cứu độ là con người của lịch sử, và ơn cứu độ thiết yếu, một cách căn bản, chính là “lịch sử ơn cứu độ”. Sống đức Tin không là gì khác hơn sống chính lịch sử đời thường của mình như một lịch sử ơn cứu độ.

Dưới bàn tay Thiên Chúa, tất cả mọi người và mọi cuộc đời, trong sự vùi dập đau thương của quy luật thế gian, đều có thể đón nhận được những cơ duyên tặng không của Thiên Chúa như những tình tiết mới của câu chuyện. Ai tin và để cho Thiên Chúa đi vào câu chuyện đời mình đều có thể đưa đẩy câu chuyện đời mình đến chỗ thành toàn trong nét duyên độc đáo và huyền nhiệm… Chỉ trong viễn tượng của một “cấu trúc câu chuyện” ta mới có thể thoát được cơn cám dỗ của chủ nghĩa ưu tuyển.

- Có phải chúng ta vẫn đang cung cấp cho xã hội một thứ “chân lý đóng hộp”, bị cắt đứt khỏi dòng chảy của cuộc sống, không còn độ tươi rói của thực tại và cũng không còn mấy trọng lượng của chân lý? Bởi vì sản phẩm đóng hộp thì tiện lợi, chỗ nào cũng dùng được, nhưng lại không bắt mạch được thực trạng của cơn đói chân lý.

- Phải chăng bầu khí vật lộn với những “sản phẩm đóng hộp” như thế chỉ khuyến khích thói khôn vặt, chỉ biết thêm nếm gia vị, chế biến vớ vẩn, đối phó tạm thời ?

Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian. Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến.” (Ga 17,17,19)

 

1 Nhận xét

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn