Đối thoại: Con đường lựa chọn dứt khoát của hội thánh

 

Trong bài này, chúng tôi xin được giới thiệu
trước hết quan điểm chính thức của Hội Thánh
về “Con Đường Đối Thoại”,
đối thoại nội hướng với anh em trong nhà,
và đối thoại ngoại hướng với bà con láng giềng hàng xóm. 
Kế đến, chúng tôi xin trình bày những mục tiêu, những tiêu chí do Hội Thánh quy định … để một đàng bảo vệ tính chính danh và thành quả chắc chắn của việc đối thoại,
đàng khác ngừa tránh những hệ lụy tiêu cực …

Tu sĩ P.X. Nguyễn Văn Nhứt, OP.

 

Một trong những nét đặc trưng của Hội Thánh vào giai đoạn sau Công Đồng Vatican II là “đối thoại” - không những chỉ là tinh thần dối thoại, chính sách đối thoại, nỗ lực đối thoại, hành động đối thoại, mà còn thiết yếu là lựa chọn đối thoại như con đường “một đi không trở lại”[1] để đến với mọi người, bất chấp vẫn còn ngổn ngang bao thứ chướng ngại, vật cản trên từng bước đi.

 Những trở ngại, dù rất thực, không được phép làm chúng ta coi nhẹ các dịp thuận lợi để có thể mở ra một cuộc đối thoại, hoặc bỏ qua bao thành quả đã từng gặt hái.  Hiện nay chúng ta đã đạt được mức độ hiểu biết lẫn nhau sâu xa hơn, và chủ động cộng tác với nhau nhiều hơn.  Đối thoại quả đã tác động tích cực trên chính Hội Thánh.  Các tôn giáo khác cũng nhờ đối thoại mà đạt đến một cuộc canh tân và cởi mở rông lớn hơn.  Đối thoại liên tôn đã tiếp sức cho Hội Thánh thực thi sứ vụ chia sẻ các giá trị Tin Mừng cho tha nhân.  Bởi đó, mặc cho còn có nhiều khó khăn, cam kết của Hội Thánh đối với công cuộc đối thoại vẫn mãi kiên định và bất khả nghịch đảo.[2]        

Trong bài nầy, chúng tôi xin được giới thiệu trước hết quan điểm chính thức của Hội Thánh về “Con Đường Đối Thoại”, đối thoại nội hướng với anh em trong nhà, và đối thoại ngoại hướng với bà con láng giềng hàng xóm.  Kế đến, chúng tôi xin trình bày những mục tiêu quan yếu được Hội Thánh nhắm đến trong công cuộc đôi thoại.  Sau cùng, chúng tôi sẽ nêu ra những tiêu chí do Hội Thánh quy định - vừa chỉ ra những hình thức hoặc mức độ đối thoại, vừa mời gọi những ai muốn dấn thân cho sứ vụ đối thoại phải được chuẩn bị thích đáng - để một đàng bảo vệ tính chính danh và thành quả chắc chắn của việc đối thoại, đàng khác ngừa tránh những hệ lụy tiêu cực - nhứt là trong lãnh vực đạo lý - do ngộ nhận, thậm chí lạm dụng, ý nghĩa và mục đích cao quý của sứ vụ đối thoại.

I.        Đối Thoại theo Quan Điểm của Hội Thánh

1)    Ý Nghĩa

Lẽ thường tình, đối thoại – dialogue - giả thiết có 2 phía để luân phiên phát biểu và lắng nghe.[3]  Nếu chỉ có nói mà không có nghe - hoặc do cả 2 cùng tranh nhau nói, hoặc một bên nói át đi hoặc bịt mồm cả bên kia, hoặc không được phát biểu một cách trung thực điều mình muốn phát biểu - thì một bên chỉ còn hiện diện cho có hình thức, vì thực chất đối thoại đã biến thành độc thoại.

Trong Sứ Điệp về Ngày Truyền Thông Thế Giới dịp Lễ Chúa Thăng Thiên năm 2012, Đức Thánh Cha Biển Đức thứ 16 nhấn mạnh đến yếu tố “tương kính lắng nghe trong thinh lặng” như điều kiện thiết yếu để đạt được công cuộc truyền thông chính danh.

Tôi xin chia sẻ cùng anh chị em vài cảm nghĩ về một góc độ trong trong tiến trình trao đổi thong tin giữa con người với nhau.  Góc độ này, dù rất hệ trọng, thường bị coi nhẹ.  Tuy vậy, hình như đã đến lúc mọi người phải quan tâm đến yếu tố đó: mối tương quan giữa thinh lặng và lời nói.  Đây là hai khía cạnh trong động tác thông tin cần phải đượ c gioncilu cho quân bình, có thể hoán chuyển và tháp nhập vào nhau, nếu chúng ta muốn đạt đến một cuộc đối thoại đích thực.[4]

2)    Nền Tảng

Con người là sinh vật có khả năng sử dụng ngôn từ - lời nói - bên cạnh chữ viết, hoặc các hình thức diễn đạt khác, để giao tiếp.  Tương quan giữa 2 con người, 2 nhân vị, do đó, được thiết lập, phát triển, củng cố, qua việc trao đổi ngôn từ.  Thánh Kinh dạy rằng con người được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa[5]  Chính Thiên Chúa đã khởi đầu công cuộc đối thoại với thụ tạo khi nhờ Lời của Người mà dựng nên vũ trụ càn khôn.[6]  Thiên Chúa - tuy là Đấng Toàn Năng nắm quyền quyết định vận số của muôn vật muôn loài - kiên trì theo đuổi công cuộc đối thoại với con người cho đến chung cuộc khi phát biểu qua Ngôi Lời trường cửu nay mặc lấy xác phàm.[7]

Vào thời điểm có Công đồng Vatican II, Đức Thánh Cha Phao-lô VI, Tiền Nhiệm của tôi, tuyên bố trong Thông Điệp Hội Thánh Của Chúa là vấn đề tương quan giữa Hội Thánh và thế giới hiện nay là một trong những nỗi bận tâm trọng yếu nhứt của thời đại chúng ta.  Người viết: “mối tương quan nầy xuất hiện như một tình trạng cấp bách khiến chúng ta phải nặng lòng, bị thôi thúc, bị giục giã.”  Từ đó về sau, Hội Thánh luôn trước sau như một bày tỏ mong muốn theo đuổi mối tương quan ấy trong một tinh thần đối thoại.  Dầu vậy, ước nguyện đối thoại không phải đơn thuần là một chiến thuật để mọi người được chung sống thuận thảo với nhau, song đây là một thành phần chủ yếu trong sứ vụ của Hội Thánh, bởi lẽ đối thoại được khơi nguồn từ chính công cuộc đối thoại đầy yêu thương  về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa Cha với nhân loại thông qua Chúa Con, trong quyền năng của Chúa Thánh Thần.  Hội Thánh chỉ có thể chu toàn sứ vụ của mình theo một đường hướng phù hợp với cách thức Thiên Chúa đã hành động trong Chúa Giê-su Ki-tô: Người trở thành con người, chia sẻ cuộc sống phàm nhân, và sử dụng ngôn ngữ của chúng ta để truyền đạt thông điệp cứu nhân độ thế của Người.  Mầu nhiệm Nhập Thể là nền tảng của công cuộc đối thoại do Hội Thánh khởi xướng.[8]

Thừa ủy nhiệm của Chúa Ki-tô, Hội Thánh đảm nhận sứ vụ truyền giảng Tin Mừng Cứu Độ thông qua công cuộc đối thoại.[9]

3)    Đối Tượng

Công cuộc đối thoại được tiến hành song song, vừa đối thoại với anh chị em trong nhà - Đối Thoại Đại Kết—, vừa đối thoại với bạn bè hàng xóm - Đối Thoại Liên Tín, hoặc cũng thường gọi là Đối Thoại Liên Tôn.

a.      Đối Thoại Đại Kết

Công cuộc “Đối Thoại Đại Kết” (ecumenical dialogue) diễn ra giữa và trong bối cảnh những nhóm Ki-tô hữu tuy còn nhiều dị biệt về phương cách nhận thức và diễn đạt niềm tin vào huyền nhiệm Hội Thánh, nhưng đã thật sự thông hiệp vững chắc trong cùng một đức tin và một Bí Tích Thánh Tẩy trong Chúa Giê-su Ki-tô.       

b.      Đối Thoại Liên Tín

Thiết nghĩ cần phân biệt hàm ý khác biệt giữa hai danh xưng “Đối Thoại Liên Tôn” (inter-religious dialogue) và “Đối Thoại Liên Tín”.(inter-faith dialogue). “Liên Tôn” gợi ý cuộc gặp gỡ giữa hai tôn giáo mang tính chất cơ chế, tổ chức, phẩm trật, nghi thức và, tất yếu, luật pháp.  “Liên Tín” vượt qua các giới hạn cấu trúc nói trên để giản đơn và thiết yếu chỉ là cuộc hội ngộ giữa hai niềm tin, hai xác tín - bất kỳ là niềm tin hay xác tín đó mang tính chất tôn giáo, xã hội, văn hóa, hoặc ngay cả chính trị.[10]  Sứ vụ truyền giảng Tin Mừng của Hội Thánh, một khi được Chúa Ki-tô Phục sinh ủy thác “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”[11] chẳng những mang tính toàn cầu (tứ phương thiên hạ) mà còn có tầm mức hoàn vũ nữa (cho mọi loài thọ tạo).

Trong bài viết này, chúng tôi chủ ý chọn cụm từ “đối thoại liên tín” khi nói về nỗ lực của Hội Thánh để tiếp cận với anh chị em không phải là Ki-tô hữu.                                                

4)    Tiến Trình

Lấy cột mốc đối chiếu là thời điểm Công Đồng Vatican II công bố văn kiện “Nostra  Aetate về mối tương quan giữa Hội Thánh với các tôn giáo ngoài Ki-tô giáo, tiến trình đối thoại của Hội Thánh đã trải qua nhiều chặng đường sôi nổi, dũng cảm, và vẻ vang.

a)     Biện Giáo và Độc Thoại

 Lịch sử Hội Thánh còn ghi lại nhiều chứng cứ về nỗ lực giới thiệu Tin Mừng Chúa Ki-tô Phục Sinh cho một thề giới hãy còn xa lạ, thậm chí thù nghịch, với tôn giáo mới xuất hiện.  Mặc chống đối, đàn áp và hủy diệt, có lúc ác liệt và dai dẳng - như thời kỳ 300 năm bách hại dưới đế chế Rô-ma - Hội Thánh vẫn khiên trì, nhẫn nhục, và không mệt mỏi, bằng mọi giá -đôi khi là giá sin h mạng của Ki-tô hữu - tìm mọi cách tiếp cận với thế giới, chỉ để nói cho mọi người biết Chúa Giê-su Ki-tô, đặc biệt nhấn mạnh sự thật vĩ đại nầy chính vì yêu thương họ và muốn cứu họ khỏi ác tà, Chúa đã hy sinh tính mạng trên Thánh Giá.[12]

Lời giảng của Hội Thánh, vẫn trước sau như một, chuyển tải cùng một thông điệp, cùng một nội dung là chính Lời Tin Mừng,  tàng ẩn quyền năng cứu thoát và ban sức sống.[13]  Tuy nhiên, tùy hoàn cảnh,  đối tượng, và phương hướng, việc truyền giảng có thể đặt trọng tâm ở một hoặc nhiều điểm nhấn sau: “biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ”.[14]  Không phải đợi đến Thời Trung Cổ, mà ngay từ thủa khai sáng, Hội Thánh phải đối đầu với các khuynh hướng sai lạc về đức tin và luân lý Ki-tô giáo.[15]  Hành vi chống đối rất nhiều lần không còn dừng lại trong khung cảnh hàn lâm, học thuật, diễn ra giữa những huynh đệ cùng chia sẻ nỗi khao khát tìm kiếm chân lý cứu độ, mà bùng nổ thành bạo lực - lôi kéo hoặc bị lôi kéo theo quyền lực thế tục khiến nguy cơ một Hội Thánh bị chia năm xẻ bảy chỉ còn là vấn đề “khi nào?” mà thôi.[16]  Do đó, mọi biện pháp cần thiết phải được vận dụng để bảo vệ bình an của Dân Chúa và thánh đức của Hội Thánh.   Một mặt, mối bận tâm phòng vệ được đẩy tới cực điểm với các quy định cấm đoán nghiêm ngặt không để con cái trong nhà tiếp xúc với mọi hình thức độc hại về phương diện đạo lý đến từ bên ngoài, song hành với biện pháp trừng phạt nặng nề - thí dụ hình phạt khai trừ khỏi Hội Thánh.[17]  Mặt khác, các mũi tiến công được phát động tối đa nhắm công phá mọi mục tiêu ác tà - kể cả thực chất là thế hay bị suy diễn là như thế.

Trong bối cảnh nói trên, “đối thoại” hầu như biến mất khỏi bảng từ vựng giáo lý đến mức tiếng nói của Hội Thánh chỉ còn là lời độc thoại.               

b)     Đối Thoại và Kiên Định     

Thật ra, cánh cửa đối thoại chưa bao giờ minh nhiên hoặc mặc nhiên đóng lại trong nỗ lực không mệt mỏi của Hội Thánh để chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng Cứu Độ.

Nối tiếp bước chân của Thánh Phao-lô, Vị Đại Tông Đồ Lương Dân, nhiều nhà truyền giáo vượt qua biên cương địa lý, văn hóa và tôn giáo vẫn được quy ước thời bấy giờ, để thi hành nghiêm lịnh công bố Tin Mừng.  Các vị ấy ngẫu nhiên trở thành những sứ giả mở đầu cho một giai đoạn mới của cuộc gặp gỡ giữa Hội Thánh với các dân tộc bên ngoài lãnh địa truyền thống Ki-tô giáo.

Đáng kính nể hơn hết là công trình của Cha Matteo Ricci, thuộc Dòng Chúa Giê-su (Dòng Tên), Đấng Sáng Lập Miền Truyền Giáo Trung Quốc.[18]  Tài đức kiệt xuất của Cha chẳng những giúp cho Tin Mừng Chúa Ki-tô được con cháu Đức Khổng Tử lắng nghe, mà còn xây nên nhịp cầu văn hóa và tâm linh nối liền hai châu lục Âu-Á.

Trong lãnh vực học thuật - như triết lý và thần học chẳng hạn - cũng có những bước đột phá ngoạn mục để khai thông kênh liên lạc giữa Hội Thánh và thế giới bên ngoài.  Đơn cử đóng góp vĩ đại của Thánh Tô-ma A-qui-nô, thuộc Dòng Anh Em Giảng Thuyết (Dòng Đa Minh), trong việc vận dụng triết học Hy Lạp của Đại Sư A-rít-tốt, và triết lý Ả-rập của Đại Sư Averroes - vốn nằm trong tầm ngắm đầy nghi kỵ của giáo quyền thời bấy giờ - để kiến tạo một thần học kinh viện, cống hiến một chỗ dựa uy tín cho giáo thuyết của Hội Thánh.[19]

Những đóng góp kiên định như trên, dầu nhìn thấy được hoặc âm thầm, khiêm tốn, vẫn diễn đạt ước muốn mãnh liệt của Hội Thánh là chọn con đường đối thoại để chu toàn sứ vụ Phúc Âm Hóa Các Dân Tộc.  Công Đồng Vatican II chính là thành quả của công trình gieo trồng trong mồ hôi, nước mắt, và cả máu đào, của mọi thành phần Dân Chúa.[20]       

Nhiều vị anh hùng tiên phong trong sứ vụ đối thoại đã không kịp nhìn thấy giây phút những nỗ lực và hy sinh của mình đươm bông kết trái.  Song chắc chắn Hội Thánh sẽ mãi ghi nhớ công trạng của họ, và chính Đấng họ tận trung phụng sự sẽ ban thưởng cân xứng cho họ.

II.     Mục Tiêu của Sứ Vụ Đối Thoại

1)    Đối Thoại Đại Kết

Mục tiêu trước mắt là nhắm tái lập hình ảnh hiệp nhứt nguyên thủy của Hội Thánh.  Tình trạng chia rẽ, thậm chí thù nghịch và triệt tiêu lẫn nhau, quả là một chướng kỳ không thể biện minh do những người tự xưng là tín hữu Chúa Ki-tô gây ra trước mặt thế giới.  Gương xấu đó rõ ràng là một phản chứng, làm thương tổn uy tín và thánh đức của Hội Thánh, vốn là “bí tích hiệp nhứt”,[21] và khiến cho nỗ lực truyền giảng Tin Mừng bị suy yếu, nếu không muốn nói là ít tác dụng.[22] 

Nhưng không thể có hiệp nhứt thực sự nếu chỉ cố khiên cưỡng tạo được một cơ chế đồng phục, đồng bộ mà lại thiếu một cuộc hoán cải, hòa giải, và đổi mới từ bên trong Hội Thánh, từ nơi sâu thẳm của cõi lòng mỗi Ki-tô hữu.  Đối Thoại Đại Kết phải đảm nhận thách đố nặng nề song cao quý nầy.[23] 

2)    Đối Thoại Liên Tín

Trong nỗ lực tiếp cận các tôn giáo ngoài Ki-tô giáo, Hội Thánh không dừng lại ở mức độ mối giao hảo tương kính tương thân.  Thành tâm nhìn nhận và kính trọng những yếu tố chân thật và thánh thiện trong các tôn giáo ấy[24] không hề làm suy giảm nhiệm vụ của Hội Thánh phải công bố cho nhân loại biết Chúa Ki-tô là “Đường, Chân Lý, và Sức Sống”,[25] là Đấng Cứu Thế duy nhứt, và Hội Thánh do Người sáng lập là bí tích cứu độ.[26]  Tóm lại, giảng Tin Mừng trong cung cách đối thoại, và đối thoại vì sứ vụ truyền giảng Tin Mừng.[27]

Trừ phi những mục tiêu vừa nêu được triệt để nhắm đến, công cuộc đối thoại liên tín dễ gặp phải nguy cơ “dĩ hòa vi quý”, “cào bằng” theo kiểu “đạo nào cũng tốt”.[28]

 

III.  Tiêu Chí của Sứ Vụ Đối Thoại 

Trước tiên là những hình thức gặp gỡ, nơi diễn ra công cuộc đối thoại.  Kế đến là một số yêu cầu đối với những ai thực tâm dấn thân vào sứ vụ đối thoại.

1)    Những Hình Thức Đối Thoại

Có 4 hình thức hoặc tầm mức đối thoại:[29]

a)     Đối Thoại Trong Cuộc Sống

Sống gần gũi, hòa mình vào những vui buồn, sướng khổ của kiếp người sẽ rút ngắn khoảng cách, gỡ bỏ rào chắn do ngộ nhận, thành kiến dựng lên.

b)     Đối Thoại Trong Hành Động

Tìm những đồng điểm, chung sức hợp tác hành động vì công ích, bảo vệ con người, bảo tồn thiên nhiên, gìn giữ và phát triển các giá trị văn hóa, tâm linh.[30]

c)     Đối Thoại Trong Trao Đổi Thần Học

Nghiên cứu, học hỏi, thảo luận, trao đổi về giáo lý, nghi lễ, luật lệ, truyền thống giữa các học giả uy tín, theo và trên những “kênh” chính thức và chính thống.[31]

 

d)     Đối Thoại Trong Trao Đổi Kinh Nghiệm Tôn Giáo

Đây là cuộc hội ngộ của những cõi lòng khát vọng chiều kích siêu việt về Đấng Tối Cao, Cội Nguồn Chân, Thiện, Mỹ Tuyệt Đối.  Cảm nghiệm rất sống, rất thực phần nào bù đắp được nỗ lực diễn tả, biểu thị vô cùng vụng về, khiếm khuyết, qua ngôn ngữ bất toàn, bất tương xứng của loài người.[32]

2)    Những Phẩm Chất Của Người Đối Thoại

Hội Thánh một mặt thiết tha mời gọi mọi người thiện tâm tham gia vào công cuộc đối thoại, song mặt khác ân cần nhắn nhủ những tín hữu dấn thân cho sứ vụ nầy phải được chuẩn bị thích đáng.

Chỉ những ai trưởng thành và xác tín trong đức tin Ki-tô giáo mới đủ phẩm chất để dấn thân vào một cuộc đối thoại liên tôn chân chính.  Chỉ những Ki-tô hữu đã đính kết sâu xa trong huyền nhiệm Chúa Ki-tô, và sống hạnh phúc với cộng đoàn đức tin của mình, mới có thể tham gia vào sứ vụ đối thoại liên tôn.mà không lo xảy ra rủi ro bất tiện, để hy vọng đạt được hoa trái tích cực.[33]

Do tính chất gần gũi hữu cơ giữa sứ vụ đối thoại với sứ vụ truyền giảng Tin Mừng, điều Hội Thánh căn dặn nhà truyền giáo cũng có ý nghĩa quan trọng đối với người dấn thân trong công cuộc đối thoại: phải là con người đối thoại trước lúc bắt đầu sứ vụ đối thoại.      

Hội Thánh là người truyền giảng Tin Mừng, song Hội Thánh bắt đầu công cuộc ấy bằng việc truyền giảng Tin Mừng cho chính mình.  Hội Thánh là một cộng đoàn tín hữu, cộng đoàn của một niềm hy vọng đã được trải nghiệm và truyền đạt, cộng đoàn tình yêu huynh đệ.  Hội Thánh cần liên tục lắng nghe điều mình phải tin, lắng nghe lý do vì sao mình hy vọng, lắng nghe giới luật mới về yêu thương.  Hội Thánh là Dân Thiên Chúa hòa mình vào trần thế, và thường bị các thần tượng cám dỗ, nên luôn cần nghe công bố “những công trình vĩ đại của Thiên Chúa nhờ đó mà được dẫn dắt trở về cùng Đức Chúa.  Hội Thánh luôn cần được Chúa tái kêu gọi và tái hiệp nhứt.  Tắt một lời, nếu muốn giữ vững mãi nét tươi trẻ, sức sung mãn, và nghị lực để truyền giảng Tin Mừng, Hội Thánh cần phải được Tin Mừng hóa liên tục.  Công Đồng Vatican II nhắc nhở, và Thương Hội Đồng 1974 chọn lại chủ đề nầy, xác quyết rằng: Hội Thánh được Tin Mừng hóa qua tiến trình liên tục hoán cải và canh tân để có đủ tư cách khả tín mà giảng Tin Mừng cho thề giới.[34]



[1]At the Second Vatican Council, the Catholic Church committed herself irrevocably to following the path of the ecumenical venture” (Xin Cho Họ Được Hiệp Nhứt, số 3).

[2] Hội Đồng Giáo Hoàng Về Đối Thoại Liên Tôn, Đối Thoại Và Công Bố, số 54.

[3] Xc Gerald O’Collins, S.J., A Concise Dictionary of Theology, 63-64.

[4] Thông Điệp Ngày Truyền Thông Thế Giới Lần Thứ 46. “Thinh Lặng Và Lời Nói: Đường Hướng Phúc Âm Hóa, 20 tháng 5, 2012.

[5] Xc St 1:27.

[6] Xc Kn 9:1-2; Tv 33:6. 9.

[7] Xc Dt 1:1-2.

[8] Hội Thánh Tại Á Châu, số 29. 

[9] Xc Đối Thoại Và Công Bố, các số 2 và 3,                                                                            

[10] Xc Nguyễn Văn Nhứt, O.P., Reconciliation in Christ: Theological Ground for Interfaith Dialogue, Manila: University of Santo Tomas, 2011, Chap. I.

[11] Mc 16:15.

[12] Xc Cv 4:10-12; 17:22-32; 1 Cr 2:1-2.

[13] Xc Ga 6:68.

[14] Xc 2 Tm 4:2.

[15] Xc 1 Ga 2:19.

[16] Xc The New Advent Catholic Encyclopedia The Eastern Schism; Western Schism; The Reformation; Gerald O’Collins, S.J., A Concise Dictionary of Theology, 236.

[17] Xc Mt 18:17; 1 Cr 16:22; Gl 1:9;  A Concise Dictionary of Theology, 9, 84.

[18] Xc New Advent Catholic Encyclopedia, Matteo Ricci.

[19] Xc New Advent Catholic Encyclopedia, Saint Thomas Aquinas; Đức Thánh Cha Biển Đức XVI nhắc đến 2 sự kiện: 1) Đức Chân Phước Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, trong Thông Điệp “Đức Tin và Lý Trí”, ủng hộ việc tôn phong Thánh Tô-ma là Tôn Sư Tư Duy, và Mẫu Mực của đường hướng đúng đắn để làm thần học; 2) Sách Giáo Lý Của Hội Thánh Công Giáo trích dẫn Thánh Tô-ma 61 lần, đứng thứ nhì sau Thánh Âu-gu-ti-nô.  (“After several Catecheses on the priesthood and on my latest Journeys, today we return to our main theme: meditation on some of the great thinkers of the Middle Ages. We recently looked at the great figure of St Bonaventure, a Franciscan, and today I wish to speak of the one whom the Church calls the Doctor communis namely, St Thomas Aquinas. In his Encyclical Fides et Ratio my venerable Predecessor, Pope John Paul II, recalled that "the Church has been justified in consistently proposing St Thomas as a master of thought and a model of the right way to do theology" (n. 43). It is not surprising that, after St Augustine, among the ecclesiastical writers mentioned in the Catechism of the Catholic Church St Thomas is cited more than any other, at least 61 times!” - Trích Giáo Huấn trong buổi “Tiếp Kiến Công Chúng Ngày Thứ Tư”, 2 tháng 4, năm 2010.)

[20] Chỉ vì quá thiết tha đẩy mạnh và nhanh sứ vụ đối thoại với anh chị em không Công Giáo, hoặc không Ki-tô Giáo, nhiều học giả Công Giáo gánh chịu bao nỗi oan khiên, đau khổ.  Đơn cử trường hợp Thánh Tô-ma Tiến Sĩ: người  tiếp tục bị truy sát về phưong diện đạo lý ngay cả sau khi đã qua đời (xc Standford Encyclopedia of Philosophy, Albert the Great.)  Các hậu duệ của thánh nhân, như 2 tu sĩ Marie-Joseph Lagrange và Ives Congar, chỉ được phục hồi danh dự sau bao năm trời bị đối xử như kẻ lạc giáo. (xc website của EBAF, Father Marie-Joseph Lagrange; Britannica Online Encyclopedia, Ives Congar.    

[21] Xc Xin Cho Họ Được Hiệt Nhứt, số 5.

[22] “Believers in Christ (…) cannot remain divided.  If they wish truly and effectively to oppose the world’s tendency to reduce to powerlessness the Mystery of Redemption, they must profess together the same truth about the Cross” (Xin Cho Họ Được Hiệt Nhứt, số 1).

[23] Xc Hội Thánh Tại Á Châu, số 30.

[24] Xc Hiến Chế Tín Lý Về Hội Thánh Ánh Sáng Muôn Dân, số 16.

[25] Xc Ga 14:6.

[26] Xc Hội Thánh Tại Á Châu, số 31; “It must therefore be firmly believed as a truth of Catholic faith that the universal salvific will of the One and Triune God is offered and accomplished once for all in the mystery of the incarnation, death, and resurrection of the Son of God” (Chúa Giê-su, số 14)  “The Lord Jesus Christ, the only Svior, did not only establish a simple community of disciples, but constituted the Church  as a salvific mystery” (Chúa Giê-su, số 16).

[27] Xc Hội Thánh tại Châu Á, số 31.

[28] Xc Chúa Giê-su, số 4.

[29] Xc Đối Thoại Và Công Bố, số 42.

[30] Xc Hội Thánh Tại Châu Á, số 31.

[31] Xc Ibid.

[32] Xc Hội Thánh Tại Châu Á, số 31.

[33] Ibid.

[34] Hãy Truyền Giảng Tin Mừng, số 15.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn