Ki-tô
giáo và Hồi giáo là đạo phổ quát,
khẳng định này không chỉ dành riêng cho một dân tộc
hay sắc tộc đặc thù nào, nhưng cho cả nhân loại.
Nguyên tắc quan trọng này thâu tóm các mục tiêu và cơ hội
cho việc đối thoại mang tính cách xây dựng
cũng như những chướng ngại gây cản trở.
Ninh
Tú Toàn, OP.
Hẳn
Ki-tô giáo đã xuất hiện ở vùng Ả-rập khi thánh Phao-lô lánh vào vùng
sa mạc phía tây của sông Gio-đan trong vài ba năm. Từ sa mạc Syrian, có
lẽ do các tu sĩ đi truyền giáo, Ki-tô giáo được loan giảng ở phía Nam
Ả-rập, vốn đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển một nền văn
minh phong phú. Từ đó, Ki-tô giáo được loan truyền tiếp sang phía Bắc
Ả-rập, nơi đặt để cho những nền tảng luân lý và linh đạo cho đạo
Hồi.
Từ sự khởi đầu
này, đạo Hồi đã triển nở trong một môi trường được thấm nhuần những
giá trị luân lý và tâm linh Ki-tô giáo Đông phương. Rất có thể đạo
Hồi gần gũi với gia sản tâm linh của Ki-tô giáo Đông phương điều mà
tiên tri Muhammad đã quy chiếu khi ngài công bố: “Ta cảm được hơi thở
của Đấng Từ Bi (nafas al-rahman) từ dân tộc Yaman”. Hơi thở của Đấng
Từ Bi chính là hồn thánh thiêng của Thiên Chúa mà Đức Giê-su đã tỏ
lộ như là một đấng cứu độ vinh thắng trên mọi thế lực sự ác. Vì
vậy, Ki-tô giáo mà kinh Koran tán dương không chỉ là Ki-tô giáo chính
thức của Rô-ma và Bysantium cùng với thần học sắc sảo của nó, mà
còn cả phụng tự phổ biến của các ẩn sĩ vốn đã làm những việc
chữa lành và thanh tẩy, điều mà Đức Ki-tô đã bắt đầu trong suốt
thời gian tại thế.
Kinh
Koran đề cập một cách tế nhị về linh đạo của các ẩn sĩ và những
mục tử thông thái của các Ki-tô hữu, “…vì trong số họ, có các ẩn
sĩ và các mục tử thông thái, và họ không lấy làm kiêu ngạo”. (Q.
5,82). Đoạn kinh Koran vừa được trích dẫn tiếp tục đưa ra hai khẳng
định quan trọng, vốn có thể dùng như là một động lực tốt đẹp cho
việc đối thoại mang tính xây dựng giữa hai bên. Thứ nhất, các Ki-tô
hữu là những người gần gũi nhất trong mối quan hệ hữu nghị với các
tín đồ Hồi giáo. Thứ hai, các vị ẩn sĩ Ki-tô giáo và các mục tử
thông thái chân nhận một chân lý khi họ đã nghe nói và cảm động bảy
tỏ lòng biết ơn khiêm nhường trước sự dẫn dắt của Thiên Chúa. Hơn
nữa, giống như các tín hữu giữa các tín đồ Hồi giáo, những vị ẩn
sĩ khiêm nhường và những vị mục tử thông thái khát khao ân sủng của
Thiên Chúa và cầu xin trở thành những chứng nhân cho sự duy nhất của
Thiên Chúa và hướng dẫn tới chân lý này. Vì thế, cuộc đối thoại
giữa Ki-tô giáo và Hồi giáo nên là một cuộc gặp gỡ sáng tạo và
năng động giữa những người bạn, chứ không phải là kẻ thù, theo như
Kinh Koran (3,64) mời gọi dân trong Sách Thánh[1].
2. Những mục tiêu cấp bách và lâu
dài
Ki-tô
giáo và Hồi giáo là đạo phổ quát, khẳng định này không chỉ dành riêng
cho một dân tộc hay sắc tộc đặc thù nào, nhưng cho cả nhân loại. Nguyên
tắc quan trọng này thâu tóm các mục tiêu và cơ hội cho việc đối
thoại mang tính cách xây dựng cũng như những chướng ngại gây cản trở.
Cả hai truyền thống đều nhận ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho tất
cả nhân loại, và những tác động tiền định của Người nơi lịch sử
nhân loại, nhưng cả hai đều khẳng định mình là người cuối cùng mang
sứ điệp chung cuộc và sự chúc phúc trường tồn của Thiên Chúa cho thế
gian. Vì thế, mặc dù kêu gọi sự bao dung và sự tôn trọng đối với các
dân trong Sách Thánh, điều mà Kinh Koran thường nhắc đến, nhưng chung
chung Hồi giáo đã chỉ trích Ki-tô giáo như là những tín đồ đa thần.
Bởi vì Hồi giáo xuất hiện sau Ki-tô giáo và thách thức một vài
những đạo lý nền tảng của Ki-tô giáo, nên Ki-tô giáo cũng thường hay
chỉ trích đạo Hồi như là một thứ tà đạo, và các tín hữu Hồi giáo
như là những kẻ dã man không có bất kỳ các giá trị luân lý hay tâm
linh nào.
Vì
thế, mục tiêu cấp bách nhất mà cả hai cộng đồng này cần nỗ lực
hướng đến là cùng đón nhận tính hợp pháp và tính xác thực của
truyền thống tôn giáo của nhau xét như là một tôn giáo do Thiên Chúa
linh hứng. Nguyên tắc nền tảng cho việc đối thoại mang tính xây dựng
và chân thật vẫn còn là một hy vọng lý tưởng, chứ chưa trở thành
một thực tại. Quả vậy, phần lớn cuộc đối thoại giữa Hồi giáo - Ki-tô
giáo cho đến giờ chỉ có thể đạt được là sự công nhận chính thức
hai tôn giáo này có chung một tổ phụ Ab-ra-ham; và vì vậy, có liên
hệ về thần học và lịch sử của nhau. Sự công nhận này có tầm quan
trọng to lớn xét như là một bước tích cực hướng tới việc đón nhận
sự hiện hữu đích thực của tôn giáo này đối với phía bên kia, nhưng
cần thiết hơn nữa phải đẩy mạnh việc đối thoại tiến triển vượt ra khỏi
tầm mức xã giao.
Đành
rằng đối thoại như là một công việc cấp bách, nhưng trong tiến trình đối thoại,
việc công nhận và đón nhận lẫn nhau lại có mục tiêu lâu dài vốn luôn
luôn hướng dẫn những nỗ lực của chúng ta hướng đến cuộc đối thoại
có tính cách xã hội, thần học, luân lý, tâm linh, và gặt được nhiều
hoa trái. Việc đón nhận lẫn nhau không phải dừng lại ở sự nhận
thức, ngay cả việc đón nhận, sự hiện hữu của nhau xét như là một
người thân cận, thân hữu. Đúng hơn, các tín hữu Hồi giáo và Ki-tô
giáo phải đón nhận lẫn nhau như những người bạn, như những người
cùng theo đuổi công lý cho con người, tính hòa hợp về thần học, và
tiến trình tâm linh trên cùng con đường gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng là
mục đích tối hậu của họ.
Nỗ
lực đáng quý này đòi hỏi sự tôn trọng đích thực và thành thật về
đạo của nhau, kể cả niềm tin, những nguyên tắc luân lý, giá trị xã
hội, và những khát vọng có tính cách chính trị. Điều này nên trở
thành mục tiêu thứ hai cho việc đối thoại giữa Ki-tô giáo và Hồi
giáo. Trong khung cảnh của sự tôn trọng và đón nhận nhau, việc đối
thoại liên tôn có thể tiến triển thành cuộc đối thoại giao lưu văn
hóa đích thực và sáng tạo. Thực vậy, nếu không có cuộc đối thoại
giao lưu văn hóa đích thực, thì việc hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau
là điều không thể.
Mục
tiêu thứ ba là sự đón nhận bởi cả tín hữu Ki-tô lẫn Hồi giáo xét
như là những người cộng tác bình đẳng - chứ không phải là kẻ đối
lập - trong đối thoại. Tính bình đẳng này phải là sự bình đẳng
giữa người với người, và sự bình đẳng khi đòi hỏi tính chân thực
của tôn giáo. Trong mọi khía cạnh, điều này ám chỉ quyền cho các
tín hữu của hai cộng đồng này rằng cả Ki-tô giáo và Hồi giáo có
những nguồn tâm linh và đạo lý riêng để hướng dẫn tín hữu của mình
tới con đường cứu độ.
Đức Ki-tô đã dạy chúng ta tìm kiếm sự thật,
và sự thật sẽ giải thoát chúng ta. Kinh Koran dạy rằng sự thật
chính là Thiên Chúa. Vì thế, sự tự do nơi sự thật chính là sự tự
do nơi Thiên Chúa, vốn là sự tự do của đức tin. Trong sự tự do nơi
Thiên Chúa, các tín hữu Hồi giáo và Ki-tô giáo có thể và nên tự do
chia sẻ những cảm nghiệm về đức tin của mình cho nhau.
Một
mục tiêu quan trọng khác là phải để cho hai tôn giáo này nói về
chính mình, tức là phải tỏ lộ chính mình khi đối thoại. Điều này
ám chỉ đến các Ki-tô hữu và tín đồ Hồi giáo không tham gia vào các
hoạt động đối thoại dựa trên điều họ nghĩ họ biết hoặc hiểu về
điều mà tôn giáo của phía bên kia là. Nói cách khác, họ không nên làm
cho phía bên kia khác đi theo hình ảnh của riêng mình, xét như là điều
kiện đầu tiên để đón nhận nhau. Đúng hơn, họ nên lắng nghe và học
hỏi trước khi “mạo muội” đi vào “khu vực thánh thất” về niềm tin của
nhau.
Nói
cách cụ thể hơn, Hồi giáo không phải tìm cách để giải thích cho
Ki-tô giáo chỉ có dựa trên điều mà Kinh Koran và truyền thống tiếp
hậu của Đạo Hồi đã đề cập tới, nhưng nên tìm hiểu Ki-tô giáo từ
chính những nguồn của tôn giáo này, và trên những thuật ngữ của riêng của
Ki-tô giáo. Cũng thế, các Ki-tô hữu không phải giải thích cho các tín
hữu Hồi giáo, đặc biệt về Kinh Thánh, theo lối hiểu riêng của mình
về kế hoạch cứu độ, nhưng nên nhìn nhận một cách nghiêm túc thế
giới quan và kế hoạch thần thiêng của Hồi giáo để đạt tới sự tha
thứ, cứu độ và sự chúc phúc mai sau.
Mục tiêu cuối cùng là khát vọng sự công bằng
tuyệt đối và tính khách quan khi đưa ra bất kỳ sự so sánh nào giữa
hai tôn giáo này. Một vài nguyên tắc chủ đạo phải được giữ một cách
nghiêm ngặt liên quan đến việc này. Trước hết là những tư tưởng của
hai tôn giáo này nên được đối chiếu với các tư tưởng khác và các thực
tại này với các thực tại khác. Thứ hai, mọi cố gắng để “lấy điểm”
cho đạo của mình trên đạo của người khác bằng việc tương phản những
điều tốt nơi mình với những điều xấu nơi đạo của người khác phải
tuyệt đối tránh. Đúng hơn, điều tốt nên được đối chiếu với điều tốt
và điều xấu với điều xấu. Ngược lại, hành vi sai lạc của các tín
hữu nơi tôn giáo này ở bất kỳ khía cạnh nào cũng không được phép bao
che hay đáp trả bằng việc hành xử sai lạc tương tự đối với các tín
hữu của tôn giáo bạn. Hành vi sai lạc như thế cũng không nên được bàn
qua cho xong chuyện hay viện cớ là do tội lỗi hay tính yếu đuối của
con người. Thứ ba, Kinh Thánh hay truyền thống của bên này không nên
được dùng như là một tiêu chí để đánh giá tính chân thật hay sai lạc
của phía bên kia. Hồi giáo và Ki-tô giáo có thế giới quan hoàn toàn
khác biệt vốn phải hướng dẫn và thông tri việc đối thoại giữa Hồi
giáo - Ki-tô giáo ở mọi cấp độ.
3. Các dạng thức đối thoại
Ki-tô
giáo và Hồi giáo là hai tôn giáo có số tín hữu chiếm hơn năm mươi
phần trăm dân số thế giới. Trong khi về mặt lịch sử, đại kết
(oikomene) hoặc khu vực của Ki-tô giáo và khu vực Hồi giáo (dar al-islam),
bị giới hạn nơi những vùng địa lý riêng biệt của thế giới, thì cả
đoàn thể tôn giáo có độ dài về mặt địa lý và về mặt chính trị
đã biến mất. Bây giờ, tầm ảnh hưởng của đạo Hồi chính là những con
tim và nơi ở của cộng đồng Hồi giáo. Cũng thế, ngôi nhà của Ki-tô
giáo là Giáo hội, con tim và tinh thần của các tín hữu.
Ngày
nay, hàng triệu các tín hữu Hồi giáo là những công dân của các quốc
gia Ki-tô giáo Tây Phương, và nhiều quốc gia Hồi giáo cũng có số tín
hữu Ki-tô tương tự như vậy. Đặc biệt ở Phương Tây, Hồi giáo không còn
là tôn giáo xa lạ. Các tín hữu Hồi giáo chia sẻ với các tín hữu
Ki-tô tình làng nghĩa xóm, trường học, công sở, bệnh viện, và thậm
chí trên cùng mảnh đất nghĩa trang. Họ chia sẻ mọi vấn đề luân lý
và xã hội cũng như những tiện nghi của đời sống hiện đại. Họ cũng
chia sẻ nơi linh thiêng, thờ tự của họ - các nhà thờ và đền thờ,
vốn là nơi đối thoại đầy ý nghĩa và luôn cần duy trì được ủng hộ.
Dạng
đối thoại cụ thể, phổ biến và cơ bản nhất là đời sống. Chính cuộc
đối thoại của những người láng giềng gắn liền với những nhà thờ
và đền thờ gần sát bên họ, vốn cùng làm việc với nhau và sống
chung một ngõ. Dạng đối thoại này liên hệ tới những vấn đề công lý
xã hội, vấn đề ô nhiễm, trẻ vị thành niên với các vấn đề về giới
tính, nghiện ngập, và vô số các vấn đề khác nữa. Ở đây, gia sản tâm
tinh và luân lý, cùng chung một tổ phụ Ap-ra-ham có thể giúp con cái
của cả ba dòng tộc Áp-ra-ham (Do Thái - Hồi Giáo - Ki-tô giáo) cùng
đối diện với những vấn đề hiện đại của thế giới. Qua các hội
đường, nhà thờ, và đền thờ, họ sẽ cùng nhau nỗ lực để có được
điều thiện ích chung cho xã hội.
Đối
thoại bằng đời sống là mối quan tâm thực sự của những công dân với
những vấn đề về cuộc sống chung với nhau trong một quốc gia dân chủ
và tự do. Một trong những thay đổi quan trọng nhất nơi cộng đồng Hồi
giáo là phát triển thành một nhà nước độc lập. Nhà nước này không
chỉ củng cố mối dây ràng buộc đức tin mà còn phân nhánh thành cộng
đồng Hồi giáo. Nhờ kiểu mẫu này, cộng đồng này bây giờ có thể,
còn hơn cả lúc trước, vượt ra khỏi các biên cương về luân lý, văn
hóa, địa lý và quốc gia. Hơn nữa, nơi các tín hữu Hồi giáo sinh
sống xét như là những thành phần thiểu số ở các quốc gia đã phát
triển Phương Tây, thì họ có nhiều tự do hơn để thử nghiệm những ý
tưởng và những hành động mới hơn so với những thân hữu của họ ở
các đất nước khai sinh ra Hồi giáo. Chính vì thế, họ có thể giúp
cộng đồng Hồi giáo này tìm được nơi chính đáng trong thế giới hiện
đại.
Dạng
đối thoại thứ hai là đức tin, các đạo lý thần học, và những tư
tưởng triết học. Dạng thức này có khuynh hướng bị giới hạn ở lĩnh
vực học thuật. Việc đối thoại này thường có tính chuyên môn và trừu
tượng. Vì lý do này, lý do khác, việc đối thoại thường bị tránh né.
Tuy nhiên, việc đối thoại thực sự quan trọng, xét vì nó thu hút tâm
trí, sức lực của những tín hữu cả hai phía trong việc cùng truy tầm
chân lý.
Một
dạng thức đối thoại khác có thể được gọi một cách hoa mỹ là chứng
nhân cho niềm tin của mình. Tuy nhiên, dạng thức này thường trở thành một
lời mời gọi trở về thông qua phương thức
thuyết giáo và sứ vụ. Ở đây, tên gọi đối thoại này được dùng
để che đậy vấn đề không mang tính cách đối thoại. Tuy nhiên, những
người tham dự trong cuộc đối thoại như thế có thể có ý hướng tốt,
vì mục đích sau cùng của họ không chỉ để hiểu và đón nhận phía bên
kia, mà còn để hấp thụ và tiêu hóa chúng.
Dạng
thức cuối cùng của việc đối thoại là đối thoại về đức tin. Dạng
thức này sử dụng những ý tưởng và những phương pháp của dạng thứ
hai, nhưng ở một cấp độ sâu hơn, và cá nhân hơn. Mục đích của nó là
đào sâu đức tin của chính những tín hữu Hồi giáo và Ki-tô giáo bằng
việc chia sẻ đức tin cá nhân của họ cho nhau. Mục đích cuối cùng của
dạng thức này là để tạo ra một mối tương giao đức tin giữa những
tín hữu Hồi giáo và Ki-tô giáo. Mục tiêu này có thể đạt được bằng
cách chia sẻ đức tin với nhau thông qua thờ phượng, thực hành tâm linh,
và bảo vệ cho sự hiện hữu của Thiên Chúa. Kinh Koran hứa ban cho những
ai khát khao Thiên Chúa, Đấng sẽ hướng dẫn họ tới những con đường
của Người. Những con đường của Người là “những con đường hòa bình” (Q
29,69 và Q 5,16)
4. Những thách đố không thể vượt qua?
Như
đã trình bày ở trên, mọi cuộc đối thoại giữa Hồi giáo và Ki-tô
giáo đã đạt được cho tới nay mới chỉ dừng lại ở việc chân nhận có chung
một gốc tổ Ap-ra-ham. Sự chân nhận này, kể từ một phần tư thế kỷ
20, đã đưa tới sự hiểu biết thực sự về việc dấn thân của các tín
hữu Hồi giáo đối với đức tin của họ cùng với sự phóng khoáng của
nhiều Ki-tô hữu và sự ngưỡng mộ tương tự về tính bác ái và cởi mở
của Ki-tô hữu cùng với sự phóng khoáng của những tín hữu Hồi giáo.
Chính vì thế, người ta có thể đưa ra lập luận rằng các Ki-tô hữu đã
bắt đầu đón nhận các tín hữu Hồi giáo xét như là những người có
đạo, nhưng cho đến này vẫn chưa thể đón nhận Hồi giáo xét như là
một truyền thống tôn giáo hậu Ki-tô đích thực. Ngược lại, các tín
hữu Hồi giáo cũng chấp nhận Ki-tô giáo như là một đạo được mạc
khải, nhưng vẫn chưa thể chấp nhận các tín hữu Ki-tô giáo và đức tin
của họ vào Chúa Ba Ngôi, Giáo hội như là nguồn mạch hướng dẫn, và
các sách trong Tân Ước như là Sách Thánh thực sự.
Ở
đây, vấn đề nằm ở chỗ chúng ta không thể chấp nhận đức tin của nhau
theo cách thức riêng của mình. Các tín hữu Hồi giáo đã Hồi giáo
hóa Ki-tô giáo và các Ki-tô hữu đã Ki-tô hóa Hồi giáo. Chính vì
vậy, với tất cả ý hướng ngay lành, cả hai tôn giáo này đã tìm cách
phủ nhận, hoặc ít là vô hiệu tính đặc trưng và uyên nguyên của đức
tin phía bên kia để tìm chỗ cho mình theo truyền thống và nhãn quan
của riêng mình.
Thách
đố chính đối với cuộc đối thoại Hồi giáo - Ki-tô giáo ở cả hai phía
là chưa sẵn sàng thực sự thừa nhận tình yêu và sự tiền định của
Thiên Chúa trải rộng đồng đều với tất cả nhân loại, bất kể là căn
tính tôn giáo nào. Điều này tương ứng với sự phủ nhận rằng Thiên
Chúa có thể và thực vậy, đã bày tỏ thánh ý của Người nơi Do-thái,
Hy-lạp, Ả-rập, và nơi chính những ngôn ngữ thánh thiêng của thế
giới. Vì vậy, mục tiêu tối hậu của tất cả cuộc đối thoại liên tôn
nằm ở chỗ mọi phần tử tín hữu phải có khả năng lắng nghe và vâng
phục tiếng nói của Thiên Chúa xét vì tiếng nói ấy đang nói với cả
hai tôn giáo thông qua những truyền thống đức tin riêng biệt và khiêm
nhường lắng nghe cùng một tiếng nói đang nói với mỗi cá nhân thông
qua truyền thông đức tin của chính mình.
[1] Dân trong Sách Thánh (the
people of The Book or people of Scripture) là thuật ngữ ám chỉ đến những
tín hữu không phải là Hồi giáo. Có ba hạng tín hữu mà Kinh Koran đề cập đến như
là dân của Sách Thánh: Do Thái giáo, Các giáo phái không phải đạo
Hồi, và Ki-tô giáo.
Đăng nhận xét