Vài cảm nhận về ba ngôi tối linh trong ấn giáo & mầu nhiệm thiên chúa ba ngôi

 

… qua một số điểm tương đồng
giữa quan niệm Ba Ngôi tối linh của Ấn giáo
và Thiên Chúa Ba Ngôi trong Kitô giáo,
chúng ta có thể thấy Ba Ngôi tối linh
như là mặc khải của Thiên Chúa cho con người,
ngang qua văn hóa và triết học Ấn độ về chính Ngài.
Điều này không làm chúng ta mất đức tin; nhưng ngược lại,
học hỏi về những quan niệm
liên quan đến siêu hình nơi các tôn giáo bạn
giúp chúng ta thêm quý mến các tôn giáo bạn hơn,
trân trọng những giá trị tâm linh nơi họ

Joseph Tuyến

Dẫn nhập

Là Kitô hữu, chúng ta tin vào mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Có lẽ trước đây, với hiểu biết hạn chế về các tôn giáo bạn, chúng ta vẫn coi thần học Thiên Chúa Ba Ngôi là điều chỉ Kitô giáo mới có. Mầu nhiệm này là “độc quyền” của Kitô giáo.

Tuy nhiên, khi tìm hiểu kinh điển Ấn Độ, chúng ta thấy họ đã có quan niệm về Ba Ngôi từ lâu (khoảng 1000 năm trước Công nguyên). Ba Ngôi tối linh so với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là đề tài vượt sức người viết; hơn nữa, cũng chỉ mới nghiên cứu chút ít về triết học Đông phương nói chung và Ấn giáo nói riêng.

Vì vậy, trong bối cảnh bàn về sự công tác giữa các tôn giáo Á đông của chủ đề báo Chia Sẻ số này, nhằm hiểu biết hơn về các tôn giáo bạn, cách riêng với Ấn giáo, chúng ta cùng nhau tìm hiểu quá trình tư duy của họ về Ba Ngôi tối linh, theo cách tóm tắt lại tài liệu học tập theo cách hiểu của mình và đưa ra vài nhận định. Nhờ đó, chúng ta thêm hiểu biết về các con đường mà Thiên Chúa dùng để đưa con người về với Chân lý, để ngày một tin tưởng hơn, yêu mến Chúa hơn.

1. Sự tương quan dẫn tới quan niệm Ba Ngôi

Thưở ban đầu, cũng như hầu hết các dân tộc khác, người Ấn cũng theo tín ngưỡng vật linh, đa thần. Nhưng khuynh hướng của lý trí con người trưởng thành bao giờ cũng muốn quy tụ những yếu tố ấy vào một hệ thống duy nhất. Nhìn vào vũ trụ đa tạp, người ta thấy có một quy luật thống nhất… Do đó, tư tưởng người Ấn phải tiến tới một Thực tại tối cao duy nhất. Người Ấn gọi Thực tại tối cao duy nhất là Brahman. Mặt khác, người Ấn thấy con số 3 là một huyền số liên hệ tới nhiều thực tại trần gian: Trong gia đình có cha, mẹ và con. Thân thể con  người có đầu, mình và tay chân. Vạn vật có động vật, thực vật và khoáng vật. Thời gian có quá khứ, hiện tại và tương lai…

Quy nạp tất cả những hiện tượng trong mối liên hệ với số 3, người ta đi đến kết luận rằng số 3 là một huyền số chi phối cả siêu nhiên và tự nhiên (hiện tượng giới). Do đó, các hiền triết Ấn đã thu gom bằng lý trí các thần linh vào một hệ thống bộ ba gọi là Ba Ngôi. Từ tiến trình suy tư từ thấp lên cao, các hiền triết Ấn có lẽ đã nghĩ hoặc bởi mạc khải siêu nhiên mà thấy rằng Thực tại tối cao duy nhất cũng phải liên hệ đến huyền số 3, hoặc phải biểu hiện trong hệ thống gồm 3 chức năng mới đáp ứng nhu cầu lý trí hoặc khả năng tri thức của con người. Ngoài ra, Thực tại tối cao hẳn là vô hình và siêu hình. Có như thế, Thực tại tối cao mới thực sự là nguyên ủy của vũ trụ vạn vật vốn là thực tại tương đối và hữu hạn. Với sự suy tư sâu sắc này, người Ấn thiết lập nên hệ thống Ba Ngôi tối linh: Đấng Sáng Tạo (Brahmâ), Đấng Bảo Tồn (Vishnu) và Đấng Hủy Diệt (Shiva).

2. Ba Ngôi Tối linh (Brahmâ, Vishnu và Shiva)

a. Đấng Sáng Tạo (Brahmâ)

Brahmâ là một chức năng của Thực tại tối cao Brahman, trong Yajur-Veda có ghi lời Thực tại tối cao như sau: “Brahmâ” do nơi Ta sinh ra, ở trên hết muôn vật. Ngài là Đại tổ, tức là cha chung của muôn loài, là Đấng tự sinh tự hữu”. Người Ấn quan niệm Đấng Sáng Tạo Brahmâ như kho chứa vạn vật ở dạng tiềm thể của Thực tại tối cao Brahman. Ngài là một thực tại hữu ngã của Brahman vô ngã.


Brahmâ là Đấng Sáng Tạo, vì thế mọi sự sáng tạo của loài người ở trần gian trong mọi lãnh vực đều có liên hệ mật hiết với Brahmâ. Brahmâ là nguồn cảm hứng cho các nghệ sĩ trong các bộ môn nghệ thuật. Đó là những nỗ lực của loài người được Brahmâ dẫn khởi để ca ngợi vinh quang của Thực tại tối cao toàn năng toàn trí; đồng thời cũng là để biểu hiện sự phong phú toàn năng toàn trí của Thực tại tối cao trong trần thế. Để có sáng tạo cần phải có sự điều hòa giữa đối cực âm-dương… Brahmâ chính là chức năng điều hòa giữa hai đối cực để tạo nên thế quân bình, ổn định; từ đó mới có sáng tạo.

b. Đấng Bảo Tồn (Vishnu)

Đã có sáng tạo thì phải có bảo tồn. Vishnu chính là Đấng Bảo tồn, kết hợp với chức năng duy trì và cứu độ thế gian. Loài người là đỉnh cao của sự sáng tạo nhưng lại dễ sa đọa, hư hỏng. Cho nên Vishnu đôi khi cần phải giáng trần để ra tay tế độ chúng sinh. Thần Vishnu là phát ngôn viên của Thực tại tối cao. Vishnu hóa thân trong Krishna để xác định những giá trị đích thực của cuộc đời, bổn phận của con người trong thế gian, lý tưởng phải vươn tới để được giải thoát. Vishnu làm người được mang những danh hiệu như: Thánh của các thánh, tức là con người hoàn thiện nhất; Con đường (Đạo) dẫn đến chân lý giải thoát; Chân lý tối thượng; Người cha nhân lành và là người bạn tốt lành.

Vishnu biểu hiện phẩm tính thuần khiết và hướng nội, tượng trưng cho nguyên lý liên tục và đời sống vĩnh hằng. Chính phẩm tính thuần khiết và hướng nội giúp cho con người được giải thoát khỏi mọi chi phối vật chất bên ngoài.

Vishnu là quyền năng bảo hộ vũ trụ thể hiện năng lực tái sinh và phục sinh; vì thế Vishnu là cứu cánh mà mọi người, mọi vật hướng tới. Như vậy, ý nghĩa bảo tồn của thần Vishnu luôn luôn hiện diện trong sinh hoạt tôn giáo mọi nơi và mọi thời.

c. Đấng Hủy diệt (Shiva)

Mới nghe tới hai từ “hủy diệt”, những người bình dân chúng ta thường nghĩ tới điều xấu, điều ác. Nhưng ở đây, hủy diệt mang ý nghĩa tốt lành; phá hủy để tân tạo, hủy diệt cái xấu để có cái tốt, hủy diệt cái cũ để có cái mới.


Nhìn vào một khoảnh khắc, một thời gian ngắn, hủy diệt là điều xấu; nhưng nếu nhìn vào toàn bộ đại hóa của vũ trụ[1] thì chức năng Hủy diệt cũng tham dự với chức năng Sáng tạo và Bảo tồn[2] làm cho nguồn sống luôn luôn được tái tục với dạng thức mới. Vì thế, Hủy diệt cũng thiêng liêng cao cả như Sáng tạo và Bảo tồn. Nên Shiva còn được mệnh danh là “Thần của giấc ngủ”. Khi người ta quá mệt mỏi, chán ngán cuộc đời thì họ trở về với Chúa tể của giấc ngủ, chốn yên tịnh cực lạc[3].

Các hiền triết Ấn Độ chia ra 3 chức năng Sáng tạo, Bảo tồn và Hủy diệt và đặt trong tác động của 3 thần Brahmâ, Vishnu và Shiva để dễ bề phân giải lý thuyết, nhưng thực ra cả 3 chức năng ấy chỉ là “một Thực tại miên trường”. Chức năng làm cho vạn vật hứng khởi gọi là Sáng tạo, chức năng làm cho vạn vật tồn tại gọi là Bảo tồn, chức năng làm cho vạn vật tiêu vong gọi là Hủy diệt. Tuy nhiên, tiêu vong để rồi lại được sáng tạo và bảo tồn. Vì thế Shiva ngoài ý nghĩa hủy diệt còn mang trong mình ý nghĩa sáng tạo và che chở. Đặc biệt về mặt tâm linh, thần Shiva giúp con người diệt trừ óc phân biệt và thị hiếu đối với đời sống bộn bề phiền toái để dẫn con người tới một sự phản tỉnh toàn diện; từ đó mới có thể hiệp nhất với Thực tại tối cao, thần Shiva đóng vai trò bảo hộ và nâng đỡ.

Như vậy, trong Ấn giáo, Ba ngôi tối linh được tôn thờ làm Thượng đế toàn năng và toàn trí, sáng tạo và cai quản toàn thể vũ trụ vạn vật. Ba ngôi hiệp nhất với nhau không tách lìa nhau: “Thượng đế duy nhất biểu hiện trong cả Ba Ngôi. Đấng nào cũng đứng đầu, Đấng nào cũng đứng chót, không Đấng nào tách biệt ra”.

3. Vài suy nghĩ

So sánh quan niệm Ba ngôi tối linh của Ấn giáo và mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi của Kitô giáo là điều vượt sức chúng ta, bởi vì công việc đó đòi hỏi phải có sự hiểu biết thấu đáo về mặc khải mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, và cả về quan niệm Ba Ngôi trong Ấn giáo nữa. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy một số điểm tương đồng. Chúng ta chỉ nêu ra những điểm tương đồng mà thôi:

Hình ảnh về Đấng Sáng tạo Brahmâ gần với Chúa Cha trong giáo lý của chúng ta. Ngài là Cha chung của muôn loài, Đấng tự sinh tự hữu. Triết Ấn nói mọi sáng tạo ở trần gian đều liên hệ mật thiết với Ngài; Công giáo chúng ta gọi đây là sự cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa.

Thần Vishnu cũng có nét giống Đức Giêsu[4]. Triết Ấn coi thần Vishnu như Đấng duy trì và cứu độ thế gian. Con người là đỉnh cao sáng tạo nhưng dễ hư hỏng và sa ngã; điều này Kitô giáo giải thích cách rõ ràng hơn về nguyên do yếu đuối của con người. Thần Vishnu là “phát ngôn viên” của Thực tại tối cao thì Đức Giêsu là “Lời” Thiên Chúa. Vishnu là thánh các thánh, là “đạo”, là bạn[5] của muôn dân thì Đức Giêsu đã bày tỏ cách rõ ràng : “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14,6). Hình ảnh thần Vishnu thể hiện năng lực tái sinh và phục sinh càng làm ta thấy rõ nơi Đức Giêsu, Đấng đã phục sinh để mọi người được cùng sống lại với Người…

Về thần Shiva với chức năng Hủy diệt để tái sinh và bảo tồn cũng phần nào giống Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hóa, biến đổi. Đấng làm cho con người “chết đi” với tội lỗi để sống đời sống mới trong Chân lý… Về quan niệm Ba ngôi liên kết không tách rời cũng có nét gần với thần học về Thiên Chúa Ba Ngôi của ta. Đồng thời, triết Ấn cũng có quan điểm về việc tương quan Ba Ngôi giống như chúng ta về Ba Ngôi bằng nhau, cùng một bản thể. Tuy nhiên theo Ấn giáo, Ba Ngôi chỉ là “tương quan thiên tính với thế giới, hoặc tương quan chức năng của Đấng Tối cao[6].

Trên đây là một vài nhận định chủ quan của người mới tìm hiểu triết Ấn, nên đương nhiên còn phiến diện và có thể sai sót.

Kết luận

Như vậy, qua một số điểm tương đồng giữa quan niệm Ba Ngôi tối linh của Ấn giáo và Thiên Chúa Ba Ngôi trong Kitô giáo, chúng ta có thể thấy Ba Ngôi tối linh như là mặc khải của Thiên Chúa cho con người, ngang qua văn hóa và triết học Ấn độ về chính Ngài. Điều này không làm chúng ta mất đức tin; nhưng ngược lại, học hỏi về những quan niệm liên quan đến siêu hình nơi các tôn giáo bạn giúp chúng ta thêm quý mến các tôn giáo bạn hơn, trân trọng những giá trị tâm linh nơi họ. Và nhất là nó còn giúp ta tăng thêm niềm tin vào Thiên Chúa hơn. Bởi vì điều đó cho thấy Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, thuộc mọi dân tộc, màu da, giai cấp và tôn giáo. Chúa dùng nhiều phương thế, qua nhiều con đường để giúp con người nhận ra Chân lý. Nhìn vào chương trình của Chúa, chúng ta càng phải cất cao lời tạ ơn Chúa, đã mời gọi, dẫn dắt chúng ta trong ân sủng, cho chúng ta sống trong Hội thánh, nhiệm thể Chúa Kitô, Đấng là mạc khải trọn vẹn của Thiên Chúa, Đấng đã mạc khải rõ nét nhất về Thiên Chúa Ba Ngôi cho chúng ta./.



[1] Lý Minh Tuấn, Triết học Đông Phương cương yếu, trang 390

[2] Ba chức năng liên kết với nhau.

[3] X. Lý Minh Tuấn, Sđd trang 390

[4] Giống chứ không phải là (x. LMVT, Người Công Giáo tìm hiểu các tôn giáo, trang 73)

[5] X. Ga 15,15

[6] LMVT, sdd, trang 73

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn