Antôn Nguyễn Văn Bảy,
Tu Đoàn Thừa Sai
Thánh Mẫu
Đau khổ của con người có tầm mức sâu rộng, rất đa dạng và có nhiều chiều kích khác nhau. Con người phải chịu đựng đau khổ dưới nhiều hình thức, không phải lúc nào y khoa cũng quan sát được, kể cả những ngành tiến bộ nhất. So với bệnh tật, đau khổ là một cái gì đó rộng lớn hơn, phức tạp hơn, đồng thời cắm rễ sâu trong chính bản tính con người.
Đau khổ của con người tự nó làm thành một thế giới riêng,
hiện hữu đồng thời với con người, thế giới đó xuất hiện trong con người và biến
mất đi, nhưng đôi khi cũng không biến mất mà lại tồn tại và ăn sâu vào con
người. Thế giới chứa những đau khổ, có thể nói, thế giới đó hiện diện tản mác
khắp nơi.[1]
Sự dữ và đau khổ là điều lý trí con người không muốn chấp
nhận. Tuy nhiên, dù muốn dù không thì thực tại nó vẫn có đó, nó gắn liền với
hết mọi con người trong thế giới này, và kinh nghiệm thực tế cho thấy vẫn còn
đó biết bao vấn nạn về đau khổ có thể đặt ra. Tại sao? Tại sao lại có sự dữ, và
đau khổ vẫn hiện hữu trên thế gian này? Tại sao con người lại chịu đau khổ đó
là câu hỏi thường đặt ra nhất: đâu là ý nghĩa của đau khổ? Và hẳn sâu trong
trái tim mỗi người là những khắc khoải, day dứt tìm kiếm lời giải thích cho
nhứng hệ lụy đau khổ tràn ngập trong đời sống.[2]
Vấn đề sự dữ và đau khổ là vấn đề không thể loại bỏ vì nó
cứ đặt ra từ khi loài người có mặt trên mặt đất. Quả thật, đau khổ là một vấn
đề hiện sinh. Trong bài viết này,
chúng ta chỉ nhìn thoáng qua về đau khổ qua khóe nhìn của một số tôn giáo và
người vô thần.
Đau khổ dưới cái nhìn của Hồi giáo
Hồi giáo xem đau khổ
là một hình phạt cho tội lỗi của
con người, hoặc là một thử thách về đức tin. Tiến sĩ
Sayyid Syeed, Chủ tịch Hiệp hội Hồi giáo Bắc Mỹ, phát biểu rằng các thảm họa
xảy ra là để nhắc nhở người ta “tiếp tục biết ơn Thượng Đế vì những phước lành
ngài ban và ý thức là mình phải giúp đỡ những người cần được giúp”.[3] Tuy nhiên, Hồi giáo cũng dạy là hãy chấp nhận đau khổ vì chúng ta không hiểu tại
sao. Đừng ca thán, đừng than trách, bởi vì
đau khổ là ý định của Đấng Allah, là ý định của Thiên Chúa, chỉ có điều là Đấng Allah, Thiên Chúa, sẽ không bắt
chúng ta phải chịu đựng quá mức. Hơn nữa, đau khổ là cách thanh tẩy và thánh hóa con
người.
Đau khổ theo cái nhìn Phật
giáo
Xưa nay
người ta vẫn coi Phật giáo là một triết lý, một học thuyết chứ không phải là
một tôn giáo. Nhưng khi đề cập đến vấn đề đau khổ, thiết nghĩ không thể không
nói đến Phật giáo. Vậy, Phật giáo quan niệm thế nào về đau khổ?
Phật
Thích Ca khi chưa xuất gia, ngài là một thái tử trong cung điện Già Tỷ La, thân
mẫu Ma Da Mật mất sớm, được Hoàng phụ Trình Văn Vương hết sức lo lắng, chiều
chuộng nên đầy đủ mọi thứ hoan lạc, gọi là “ngũ dục ngũ lạc” không hề biết đến
đau khổ là gì. Nhưng vốn là người biết quan sát, ham tư duy nội giới và ngoại
giới đã làm cho Thái Tử nhận thấy đau khổ trên mặt đất này. Một hôm, ngài đứng
nhìn những luống cày dưới cánh đồng, thấy những con dun, con dế bị lưỡi cày cắt
đứt, và chim trời liệng xuống ăn mất, Thái Tử liền động lòng trắc ẩn.
Một lần
khác, trong chuyện “Tứ môn xuất du”, khi Đức Phật dạo chơi ngoài cửa thành, đi
tới cửa Đông thì gặp thấy một lão già thân mình tiều tụy, đầu tóc bạc phơ, mắt
lòa miệng móm, chân run lưng còng, tay chống gậy hồi lâu mới cất nổi một bước.
Khi ra cửa Nam thì ngài nghe thấy tiếng rên siết sầu thảm, như khóc, như than,
như ai như oán của một người bệnh nằm ở bên vệ đường. Ra cửa Tây lại thấy một
người đang nằm bên bờ suối, trơ trơ như một khúc gỗ, không hề có chút cử động,
mặc cho rùi nhặn bò lúc nhúc từ đầu đến chân, xông lên những mùi hôi thối khó
chịu, thì ra là một người đã chết không biết tự bao giờ. Thực là những cảnh
thương đau vô cùng”[4].
Như vậy,
đời là bể khổ. “Sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, cái gì không
ưa mà phải hợp là khổ, cái gì ưa mà phải rời là khổ, cái gì muốn mà không được
là khổ…”[5] Đó cũng
chính là tứ diệu đế, là nét cơ bản của tinh hoa Phật Giáo, vạn sự trên đời này
toàn là đau khổ. Và chính Phật Tổ đã dạy: “Nước mắt chúng sinh trong ba nghìn
thế giới đem chứa tích lại còn nhiều hơn nước trong bốn bể”.
Vậy,
trong kiếp nhân sinh này, con người phải trải qua biết bao cuộc hành trình, từ
đời này sang đời khác vẫn cứ phải than khóc vì biết bao điều mình không ưa và
không gặp được những thứ mình mong muốn. Nào là mất mẹ, mất cha, mất con cái
mất gia tài sự nghiệp … và còn biết bao điều ngang trái khác mà mỗi người ai
cũng đều cảm nghiệm được những nỗi đau vô cùng này.
Đau khổ theo cái nhìn Ấn
giáo
Theo
lịch sử Ấn giáo, từ ngàn xưa, người dân Ấn đã theo đạo Bàlamôn và đã có trên
dưới 1300 bài thánh vịnh từ thế kỷ XV dến thề kỷ X trước Tây lịch. Ngoài ra còn
có các bộ kinh Veda như: Rig Veda; Sama Veda ; Yajur Veda… Tất cả những sách đó
có rất nhiều lời nói về đau khổ. Vì chỉ có thế giới Thần thiêng mới chân thực,
ngoài thế giới ấy ra hạ giới chỉ là hư không, mà đã là hư không huyễn hoặc thì
chỉ có xấu xa và đau khổ.
Theo
quan niệm của Ấn giáo, cuộc đời này đầy dẫy những đau khổ, và giáo lý Ấn giáo khuyên người ta
nên từ bỏ càng nhiều càng hay, vì từ bỏ trần tục bao nhiêu là bớt đau khổ bấy
nhiêu. Như thế, trần tục nghĩa là đau khổ và làm sao càng xa lánh thế gian, bớt
dính vào thế gian này là bớt đi đau khổ. Đạo sĩ Yajnuvalkya chủ trương không
nên có con cháu vì ông không muốn có thêm người chịu đau khổ, và nên từ bỏ vạn
sự, đem thân phiêu lưu không biết nơi đâu là nhà để không còn bám vào chỗ nào,
vì đâu đâu cũng là đau khổ và ông đã đi hành khất để sống không còn bận tâm vào
một điều gì, vì cái gì cũng làm cho ra đau khổ…[6]
Với Ấn giáo,
họ tin vào thuyết luân hồi và cho rằng hồn của vạn vật kể cả hồn con người là
tiểu hồn (Atman). Tất cả đều do đại hồn là Barama (Paratman) là toàn thể của vũ
trụ mà tách ra, rồi quay cuống trong vũ trụ, càng ngày càng bám vào vật chất mà
xa đại hồn, xa cách thần Barama kể như là Tạo Hóa, là Thượng Đế. Từ đó, người
Ấn Giáo cho rằng nguyên nhân đau khổ là vì con người xa cách Đại Hồn, xa cách
Thượng Đế, càng xa rời Thượng Đế bao nhiêu con người càng suy khuyết, kém cỏi
bấy nhiêu cho nên càng phải đau khổ. Người theo Ấn Giáo coi hạnh phúc con người
là khi linh hồn sát nhập với Barama là đại hồn của vũ trụ. Như thế không có
nghĩa là tiêu tan nhưng là hợp với Đại Hồn, không còn phân cách cá nhân. Hợp
nhất như thế cũng gọi là “biết”, vì biết là chủ thể hợp với đối tượng. Trong Chandogya Upanishad có nói: “Khi linh hồn
được giải thoát đến trước Barama có thể thưa với Ngài Rằng : Ngài là hồn của
vạn vật, Ngài thế nào thì con cũng thế ấy. Barama mới hỏi, vậy thì Ta là gì?
Linh hồn thưa: Ngài là thực thể”. Như vậy, giải thoát là ra khỏi ảo mộng hão
huyền của thế giới này, hạnh phúc là được thấy Thực Thể. Tiêu diệt đau khổ là
tiêu diệt huyền ảo, không phải biết hiện tượng, nhưng là được biết Thực Thể…
Đau khổ dưới cái
nhìn của người vô thần
Những người vô thần
họ không tin vào thượng đế, không tin vào một đấng có quyền năng trên họ, họ
cho rằng đau khổ là một chuyện tự nhiên, xảy ra như những gì xảy ra tự nhiên mà
thôi. Do đó
đau khổ đối với họ là một điều không nên có, chết đối với họ không nên hiện
diện, bởi vì nó chia cách giữa gia đình với nhau, nó làm cho con người bất lực,
bởi thế đối với người Vô thần đau khổ không nên có mặt, nến họ tìm cách xóa bỏ
đau khổ bắng mọi giá. Tại sao chúng ta lại chịu đau khổ, trong khi chúng ta
biết rằng đau khổ không đem lại một giá trị gì.
Đây là những lý luận của con người khi gặp những hoạn nạn họ có thể chết
và chọn cái chết để tránh đau khổ. Thí dụ: cho phép con người chọn cái chết một
cách nhẹ nhàng… họ nói
cái chết và đau khổ không nên có mặt, bởi thế. Họ tìm cách tránh đau khổ bằng
mọi giá. Bệnh nan y không có thuốc chữa, thì tại sao mình không chọn cái chết.
Khi con người không tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống mà chỉ thấy đau khổ thí cái
chết là
cách giải thoát tốt nhất. Bên cạnh đó chúng ta cũng có những lý luận, về Thiên
Chúa và đau khổ khác nhau.
Bắt đầu từ triết lý Hy Lạp, nếu Thiên Chúa là đấng toàn năng toàn thiện, và toàn thức, thì không thể
có đau khổ trên thế gian đây là lý luận của họ. Họ nói như thế này: “Nếu chúng ta tin vào một
Thiên Chúa toàn năng, Ngài
làm được mọi sự; toàn
thức, nên Ngài
biết hết mọi sự; toàn
thiện, Ngài
không muốn hại ai”. Nếu có một Thiên Chúa như vậy, thì trên đời này không có sự
đau khổ. Và họ kết luận hiện tại trên đời này của chúng ta đang đau khổ, cho
nên không có một Ông Chúa nào vừa toàn năng làm được mọi sự, và toàn thức biết
mọi sự, toàn thiện tốt lành. Loại chúa đó không hiện hữu trên trần gian.
Lý do tại sao họ đưa ra một triết lý và kết luận như vậy? Thưa bởi vì họ cho rằng: “Làm thế nào một người đang
phơi phới làm công việc chung, biết bao người đang lệ thuộc vào người này cả
gia đình đang lệ thuộc vào… đùng một cái anh hoặc chị bị ung thư? Làm sao một em bé lại bị ung thư máu? Hay tại sao chúng ta lại phải chịu đau khổ vì một nam đại dịch Covir 19 xẫy
ra gần ba năm? Nó đã
gây ra không biết bào là thiệt thòi, từ tinh thần cũng như vật chất. Nó đã lấy
đi không biết nhiêu giọt nước mắt của con người… Vậy đau khổ từ đâu ra, phải
chăng là do tính ích kỷ của con người…
Làm sao để cắt nghĩa một em mới sinh ra đã mang dị tật, có những căn bệnh sống được
vài ba tháng. Vậy thì đau khổ này nó đến từ đâu?
Emguts cắt nghĩa như thế này:
nguyên nhân cái chuyện này xảy ra vì có một Thiên Chúa,
bởi vì Ngài toàn năng, Ngài làm được mọi sự, Ngài toàn thức, Ngài biết hết mọi sự, nhưng
Ngài không có toàn thiện, Ngài không nhân từ. Cho nên Ông mới để những việc xảy
ra cho con người, vì thế chúng ta phải chịu đau khổ một cách vô lý.
Một người cha, một
người mẹ còn yêu
thương con cái mình, thì làm sao một
Thiên Chúa lại muốn cho sự dữ xảy ra? Vì thế ông kết luận: “Thiên Chúa này toàn năng toàn
thức, nhưng ông ta không toàn thiện”. Cho nên đùng một cái chuyện này xảy ra
ông mới ân hận đoán trước được việc này. Những chuyển này có ý đồ của sự dữ, có
ý đồ của ma quỷ mà ông không thắng nổi cho nên ông toàn thức toàn thiện, nhưng
ông không toàn năng. Bởi lẽ nếu
Thiên Chúa toàn năng Ngài đã làm được mọi sự, xóa hết tất cả đau khổ. Ngài toàn thiện ngài không
muốn ai đau khổ, vậy tại sao lại có đau khổ ở trên đời?
Đây là kết luận của một triết lý, về lý luận của con người. Giáo lý Công giáo dạy cho
chúng ta biết rằng, nếu chúng ta đặt câu hỏi tại sao có sự đau khổ, thì Sách Giáo Lý Hội Thánh Công
giáo trả lời rằng: “Đau
khổ là một mầu nhiệm”.
Đau khổ theo cái nhìn Kitô Giáo[7]
Đau khổ
là vấn đề con người gặp phải ngay từ khi vừa mở mắt chào đời, và nó theo đuổi
con người cho đến hơi thở cuối cùng. Nhưng dưới cái nhìn của Kitô giáo, đau khổ
không do Thiên Chúa tạo ra cũng không phải là sự vắng bóng Thiên Chúa, mà là
dấu chỉ sự hiện diện của Ngài. Trong diễn từ về ngày tận thế, Đức Giêsu đã đồng
hóa Ngài với những kẻ đau khổ, Ngài nói: “Hỡi những kẻ được chúc phúc, xưa Ta
đói các ngươi đã cho Ta ăn, Ta khát các ngươi đã cho Ta uống, Ta mình trần các
ngươi đã cho áo mặc, Ta tù đày các ngươi đã viếng thăm” ( Mt 25, 34-37); “những
gì các ngươi làm cho một kẻ bé mọn nhất trong anh em các ngươi là các ngươi làm
cho chính Ta” ( Mt 25,40-41). Như thế Đức Giêsu đã đồng hóa mình với những kẻ
đau khổ. Ngài chính là những kẻ yếu đau, đói khát, tù tội… Chính điều này cho
ta thấy được rằng, trong đau khổ của con người vẫn luôn luôn có sự hiện diện
của Thiên Chúa.
Dưới cái
nhìn của Kitô giáo, đau khổ nào cũng là một lời mời gọi. Thái độ bình thản, can
đảm của nhiều Kitô hữu trước những đau khổ, gợi lên cho ta sự thán phục và
chứng tỏ con người cao cả hơn thân phận của mình (gương các Thánh Tử Đạo). Tuy
nhiên, Kitô giáo không bao giờ chủ trương tìm kiếm đau khổ, hoặc gây ra đau
khổ. Vì khi Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ đi theo Ngài, Ngài nói: “Hãy vác lấy
Thập Giá và đi theo Ta”
(Lc 9,23) chứ Ngài không nói “ hãy đi tìm Thập Giá”…
Đau khổ
luôn gắn chặt với thân phận con người, và không dung tha bất cứ ai, nó đến khi
con người không chờ đợi. Ngay cả trong hạnh phúc, người ta cũng thấy thấp
thoáng đau khổ. Tuy nhiên, chính những nỗi đau khổ ấy lại trở thành lời mời
gọi, một thôi thúc. Và trong nỗi trống vắng tưởng chừng như không có gì có thể
lấp đầy ấy, trong nỗi khao khát không có gì thỏa mãn được, con người không
ngừng được mời gọi hướng về Đấng Tuyệt Đối. Ta thử nhìn lại những mối quan hệ
thường ngày của ta với người khác, bao nhiêu đụng chạm là bấy nhiêu đau khổ.
Thế nhưng, một lời xin lỗi, một cử chỉ xám hối, một ánh mắt thông cảm, một lời
tha thứ… đó là những viên ngọc tiềm ẩn trong lòng người mà đau khổ như có sức
làm cho nó bừng sáng lên. Tất cả những vẻ đẹp của lòng người giữa biển khổ ấy
phải chăng là dấu chỉ sự hiện diện và là tác động của của Thiên Chúa tình yêu mà con người là hình
ảnh…
Như
vậy, vấn đề đau khổ dưới cái nhìn của Kitô giáo đưa chúng ta vào trọng tâm của
mầu nhiệm con người, con người là hữu thể không thể được định nghĩa bên ngoài
Thiên Chúa. Con người mang hình ảnh Thiên Chúa, cho nên chỉ qua con người,
chúng ta mới nhận ra được Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối.
Kết luận
Đau khổ
quả là một thực trạng bi thảm của con người, là “vấn đề muôn thuở”, là thách đố
của con người trong mọi thời đại; mặc dù người ta đã cố gắng lý giải những vẫn
không thể hiểu trọn vẹn vần đề nan giải này, đau khổ vẫn mãi là một huyền nhiệm.
Tuy nhiên, trong nổi đớn đau của phận người, Thiên Chúa luôn có đó để cảm
thông, Người không muốn cho con người gặp đau khổ, cũng như Người không bao giờ
tạo ra đau khổ. Nhưng để đón nhận những nỗi đau trong đời, chẳng dễ chút nào! Điều
quan trọng, hãy xác tín: “Không ai có
tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô” (Rm 8, 35-38). Và
chúng ta đừng quên rằng: “Thiên Chúa làm
mọi sự nên ích lợi cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28).
[1] Xc. ĐTC Gioan Phaolô II, Tông thư Salvifici Doloris, số
8.
[2] Đinh Thanh Bình, Lạy
Chúa, Tại Sao Ngài Im Lặng? 1995,
tr. 9.
[3] Xc. https://www.jw.org/vi/thu-vien/tap-chi/tinh-thuc-so2-2020-
thang7-thang8/niem-tin-ve-dau-kho/
[4] Xc. Thiên Phong Bửu Dưỡng, Vấn đề đau khổ , Đaminh Thiện Bản,
1969, tr. 9-10.
[5] Phạm
Quỳnh, Phật Giáo Đại Quan, tr. 47.
[6] Xc. Thiên Phong Bửu Dưỡng, Vấn đề đau khổ , tr. 54.
[7] X. Chu Văn, Khắc Khoải Kiếm Tìm, tr.
51- 54.
Đăng nhận xét