Nhân điện và ma quỷ

 

Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn

Một trong các phong trào có liên hệ đến ma quỷ dẫn đến nhiều hiểu lầm trong giới Công giáo là phong trào nhân điện. Nó có nguồn gốc ở Việt Nam, lan sang cả Hoa Kỳ và nhiều nước trên thế giới rồi đang biến tướng với những trên gọi khác nhau như “Năng lượng gốc”, “ Năng lượng vũ trụ”… với những khẩu hiệu rất hấp dẫn như “hợp nhất tình thương”, “kiến tạo hạnh phúc” đang lôi cuốn được nhiều người trên khắp đất nước. Chúng tôi muốn giới thiếu một vài kinh nghiệm của chúng tôi với phong trào này để các bạn có thể rút ra bài học cho mình đối với nhiều phong trào tương tự, và ngay cả các tôn giáo như “Hội Thánh Mẹ”, “Hội Thánh Chúa Cha” đang có mặt ở Việt Nam cũng như trên thế giới.


Vài dòng lịch sử về phong trào nhân điện

Các người theo nhân điện vẫn tôn tiến sĩ Dasira Narada[1] (1846-1924), người tích Lan, là tổ sư đầu tiên. Ngài là người đắc đạo nhân điện và truyền thụ cho hậu thế. Sau 18 năm tìm tòi, tu luyện trong dãy Himalaya, năm 1911, ngài mở được các luân xa, tiếp nhận năng lượng vô biên của vũ trụ vào mình để có thể chữa bệnh, cứu độ chúng sinh và truyền thụ phương pháp cho người khác.

Vị tổ sư thứ hai là Sumanapala[2] (1898-1983), người Sri Lanka. Ngài là một Kitô hữu học tại trường Công giáo của dòng La San ở Colombo. Sau khi chấp nhận nhiệm vụ từ Tiến sĩ Đasira Narađa, ngài đã thực hành tâm linh theo Phật giáo dưới pháp danh là Narada Maha Thera (Đại lão Hoà thượng Narađa). Ngài vào học tại Đại học Quốc gia Sri Lanka và đạt tới học vị Tiến sĩ Triết học, về sau được bổ nhiệm làm giáo sư Đạo đức học và Triết học tại trường đại học này. Từ đó cho đến cuối đời, ngài đã lặng lẽ thực hành và duy trì kỷ luật của pháp môn Trường Sinh học. Ngài có sang Việt Nam nhiều lần từ năm 1930-1950, lần cuối cùng năm 1972, ngài đã nhận hướng dẫn cho 5 người Việt Nam (4 người nam và 1 người nữ) để truyền lại bí quyết Trường Sinh học. Năm 1974, tiến sĩ Narada Maha Thera trở lại Sri Lanka.

Người khởi đầu nhân điện ở Việt Nam là ông Huỳnh Văn Trạng (mất năm 2005). Ông là công nhân của Công xưởng Hải quân Ba Son ở Quận 1 Sài Gòn, được tổ sư Narada Maha Thera truyền thụ nhân điện. Ông ẩn cư tại chân núi Thị Vải, Vũng Tàu. Ông dạy nhân điện cho các tu sĩ Thiên Chúa giáo tại Vũng Tàu và nhiều người khác, trong đó có các đệ tử như kỹ sư Hải, cô Thảo, ông Năm Tích.

Người ở trong miền Nam bắt đầu biết đến nhân điện khi báo Tuổi Trẻ viết một bài về chuyện kỹ sư Hải dùng nhân điện chữa cho người cháu của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Nhưng phong trào này lại khởi đầu từ Hoa Kỳ khi ông Lương Minh Đáng[3] mở khoá học cấp I đầu tiên cho 27 học viên tại tiểu bang California vào ngày 20/7/1989 và sau đó mở nhiều lớp cao cấp vào ngày 25/12/1990, lớp Cao cấp bổ túc ngày 28/12/1990. Ông cũng mở nhiều lớp khác ở Canada, Roma, Thái Lan, Úc châu và được nhiều người tin theo. Không ít linh mục Việt Nam từ các nước như Đức, Pháp, Ý đã đến dự lớp trong khoá học mở tại Roma. Người ta có thể xem những cuốn băng của ông để nghe những lời giảng dạy của ông và thấy nhiều lời không thật[4].

Ông Lương Minh Đáng có đến gặp ông Trạng 1 lần để xin truyền nhân điện trước khi sang định cư tại Hoa Kỳ năm 1987, nhưng hầu như không bao giờ ông Đáng nhắc đến thầy của mình. Ông ainh năm 1942 ổ Tiền Giang, sang định cư ở Hoa Kỳ rồi mất ở Úc châu năm 2007.

Phong trào xuất hiện cách đây khoảng 30 năm trước, tưởng đã tàn lụi, nhưng mới đây, ngày 18/5/2021, trên mạng Youtube, chúng tôi lại thấy đưa lên mấy chục băng video[5] về các khoá học của ông Lương Minh Đáng. Chúng tôi viết những điều này để mọi người biết và cẩn thận hơn về phong trào này.

Thực chất phong trào này chỉ được tăng cường phần lý thuyết và có sức cuốn hút, cả những người có học, đó là nhờ cuốn sách Hands of Light (Bàn tay Ánh sáng) của tiến sĩ Barbara Ann Brennan[6], xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1987. Bà (1939-2016) là một tiến sĩ nghiên cứu năng lượng con người để hướng dẫn chữa trị bệnh tật. Bà đã viết nhiều sách về năng lượng vũ trụ trong con người cũng như mở được học viện ở một vài nước như Hoa Kỳ, Áo, Đức, Nhật Bản. Năm 2011, bà được Watkins Review xếp vào danh sách người có ảnh hưởng về mặt tâm linh thứ 94 trên thế giới[7]. Những sách của bà nói đến những luân xa theo lý thuyết Á đông đã cuốn hút nhiều người ở Hoa Kỳ và một số nước tin theo. Những phong trào dựa vào “năng lương gốc” hiện nay đều bắt nguồn từ đây.

Ông Đinh Văn Khang cũng là một thành viên trong lớp của ông Lương Minh Đáng. Ông đã về Việt Nam vào năm 1991 và mở các lớp dạy nhân điện, chữa bệnh, khởi đầu trong vùng giáo dân ở giáo xứ Tân Phú, Quận Tân Bình và tạo nên một phong trào mạnh mẽ có cả ngàn người theo đuổi, luyện tập. Nhiều linh mục, dòng tu mời ông về dạy cho cộng đồng vì thấy nhân điện là một “phương pháp” đơn giản: chỉ cần khai mở các luân xa, thở hít linh khí, hoà hợp với năng lượng vũ trụ là mình sẽ có tâm thế an vui, khoẻ mạnh, chữa được các bệnh cho mình và cho người thân mà không tốn tiền thuốc men. Hơn nữa, đó cũng có thể là một phương tiện để thực hiện mệnh lệnh của Đức Giêsu: “Hãy đi khắp nơi loan báo Tin Mừng, đặt tay chữa lành bệnh nhân” [8]. Khi được tuyên truyền như thế, không ít linh mục và tu sĩ nam nữ ỏ thành phố HCM và các tỉnh lân cận như Biên Hoà-Đồng Nai, Bình Dương đã theo dự các khoá học về nhân điện.

Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình lúc đó đã sai tôi theo dõi phong trào để giúp đỡ và sửa chữa những điểm sai sót về giáo lý và thần học. Vì thế tôi thường có mặt trong một vài khoá huấn luyện của ông Khang, như ở giáo xứ thánh Antôn Cầu Muối, Quận 1, do các cha dòng thánh Phanxicô tổ chức, và ở dòng nữ thánh Phaolô số 4 Tôn Đức Thắng, Q.1, TP.HCM. Tôi đã giải thích cách thở theo Thần Khí và tác động chữa lành của Chúa Thánh Thần với khả năng mở rộng vô biên của tinh thần con người, nên ta có thể gặp gỡ được Chúa và hiệp thông với nhau bổ sung cho lý thuyết của nhân điện. Thời đó, những hướng mở ra cho tinh thần của con người, cách chữa bệnh từ xa của phong trào này quả thật là rất mới lạ nên thu hút được nhiều ngàn người tin theo. Sau này, cuốn Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo được Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hoà bình của Toà Thánh Vatican xuất bản năm 2004, sẽ xác nhận rõ ràng hơn ở số 130.

Tôi cũng đã mấy lần gặp ông Khang cùng với Linh mục Ngô Đức Thắng, lúc đó là chuyên viên ngành In của Liên hiệp Khoa học Sản xuất In (Liksin) để nghe ông giảng về nhân điện cho mấy linh mục, tu sĩ tại nhà số 1B Tôn Thất Tùng, Q.1, TPHCM nơi chúng tôi ở. Nhiều người thấy tôi tham dự các khoá học, được mời lên để nói chuyện về Thần Khí và chữa bệnh cùng với ông Khang thì gọi tôi là linh mục “Sơn nhân điện”, “Sơn Thần Khí”, nhưng thật ra tôi chỉ làm theo lệnh của Đức Tổng Phaolô mà thôi.

Cuối năm 1991, Lm. Ngô Đình Phán, là em ruột của cha Thắng, có liên lạc và tổ chức buổi gặp mặt với ông Huỳnh Văn Trạng (Huynh Hai) tại nhà của ông ở chân núi Thị Vải, Vũng Tàu. Tôi cũng có mặt trong đoàn. Mọi người nói chuyện với ông Trạng, trong đó có cả các đồ đệ lớn của ông. Riêng tôi chỉ ngồi yên lặng để quan sát và phân tích vì quả thực tôi vẫn thấy có những điểm nghi ngờ. Khi từ giã ra về, ông Trạng có chào tôi và khen tôi có cốt cách về Nhân điện và đưa tay nắm lấy cổ tôi. Tôi cảm thấy bàn tay ông rất nóng.

Không biết ông nói sao với các đồ đệ, nhưng sau này các anh chị trong nhóm Nhân điện rất quý tôi và muốn tôi đứng ra quy tụ các người học nhân điện thành một khối thống nhất, vì ông Lương Minh Đáng đã gây tai tiếng nhiều. Tôi đã trả lời là mình rất trân trọng đối với Nhân điện, nhưng không thể theo đuổi vì có nhiều điểm chưa rõ ràng.

Sau này tôi không gặp lại ông Khang, nhưng cha Thắng vẫn liên lạc với ông và chữa bệnh theo lối nhân điện. Tôi được cha Thắng báo tin ông đã chuyển sang định cư tại châu Úc. Ông có viết cho cha Thắng lời nhận định cuối cùng của mình về nhân điện của ông Lương Minh Đáng: “Tất cả chỉ là lừa bịp, cha ạ”.

Vài thí dụ điển hình về nhân điện

Từ năm 1997 đến nay, tôi không còn nghĩ về nhân điện, nhưng vẫn tiếp tục nghiên cứu về những cách chữa bệnh để hoạt động trong lĩnh vực bác ái xã hội, nhất là giúp những người khuyết tật, mồ côi. Tôi đã gặp một số trường hợp các bệnh nhân liên quan đến nhân điện và hiểu rằng có những người lạm dụng nhân điện khi phối hợp với những trò ma thuật để chữa bệnh.

Trường hợp điển hình là vào ngày 17 tháng 6 năm 2007, tôi gặp một nhóm gồm 8 anh chị tốt nghiệp đại học và 2 người trong nhóm đã đỗ thạc sĩ, cùng học nhân điện với một ông thầy tên là Mai Văn Nhự, ở giáo xứ Bùi Thái, Biên Hoà. Ông thầy nhân điện này cũng mở luân xa và dạy nhân điện cho vài linh mục, nữ tu khiến họ bị sai khiến, không còn sống thật tính người.

Nhóm người này rất ngạc nhiên khi thấy các bác sĩ phải học nhiều năm mới có khả năng chữa bệnh, còn mình chỉ cần học ít ngày, mở được mấy luân xa là có thể chữa bệnh cho người. Thật ra, ông này đã gửi âm hồn nhập vào các người trong nhóm. Những hồn ma này lôi kéo họ bằng cách cho họ khả năng chữa vài bệnh tật để họ đi theo chúng và bị lầm lạc. Họ đã phải trả giá sau một vài tháng theo Nhân điện. Hai người phụ nữ trong nhóm này bị quấy rối tình dục nên cả nhóm đến xin tôi giúp đỡ và tôi đã hiểu rằng một vài người học nhân điện có khả năng chữa bệnh nhờ liên lạc với hồn ma.

Người bị quấy rối tình dục tên là P.T.V.T., sinh năm 1962, tốt nghiệp kỹ sư Hoá và đang làm việc cho một công ty nước ngoài. Chị bị một vong hồn theo, tự xưng là Nguyễn Văn Ngòng, sinh năm 1951, ở Trà Vinh, sang Campuchia sinh sống. Năm 1975 cả gia đình anh bị lính Pôn Pốt bắn chết. Anh đã nhập vào chị T. xưng tên là 67. Anh nói rất yêu chị T., nhưng chị T. từ chối tình yêu của anh. Khi anh nhập vào thì chị T. không làm chủ được mình, la khóc. Anh có nhiều cử chỉ đòi hỏi tình dục với chị. Chị không đáp ứng thì bị anh hành hạ. Các bạn bè đã đưa chị đến chùa xin niệm kinh, nhưng không hết. Ngày 14/6/2007 nhóm dẫn chị vào thiền viện Vạn Hạnh ở đường Nguyễn Kiệm rồi sang Việt Nam Quốc tự, nhưng các sư ở đây cũng không chữa được, sau cùng cả nhóm dẫn chị đến tôi.

Hồn ma này trong tất cả các lần gặp gỡ với tôi đều không nói một câu nào nhưng lại xin một cuốn sổ và trao đổi với tôi bằng chữ viết, nhờ vậy tôi có tài liệu để chia sẻ với mọi người. Sau đây là những đoạn trao đổi:

- Ngày 19/6/2007: “T. ơi, anh muốn nói với Cha rằng anh muốn ra khỏi em, nhưng anh chưa thấy lối đi… Làm sao để thấy Đức Chúa Giêsu? Sao tôi không nhìn thấy gì cả?... T. ơi, anh không đồng ý với ý kiến của cha, anh không thấy bọn giết người đó đáng thương một chút nào… T. ơi, anh rất muốn tha thứ cho họ nhưng chưa thể được… Thưa cha, em không cao cả như Chúa được”...

- Ngày 2/7/2007: “Chào cha. Cha ơi, con muốn nói thật với cha rằng con rất yêu cô ấy nhưng cô ta cương quyết từ chối. Con muốn cô ấy phải khuất phục nên con dùng tất cả các biện pháp con có thể làm để cô ấy khiếp sợ và đồng ý làm vợ con. Con sẽ làm nữa vì con không thật tâm theo Đức Chúa như cha đã yêu cầu. Con biết con rất tội lỗi, nhưng con đã quyết lòng lấy người con gái này làm vợ. Cô ấy có tâm hồn thánh thiện, cuộc sống tốt đẹp và con muốn ở lại bên người như vậy. Cha có thể làm tất cả các biện pháp: đánh, đuổi, trục con ra khỏi cô T., còn con sẽ có các biện pháp đối phó để được ở lại. Con không muốn nói nhiều hơn vì đây là tất cả ý con cần nói rồi, thưa cha”.

“Ngọc, tên tôi là Nguyễn Văn Ngọc, không phải là Ngòng gì cả. Tôi đã nói hết cả các ý của tôi rồi. Cha có giận, các anh chị và cháu có giận, thì tôi xin chịu lỗi, chứ tôi không có bỏ em T. được đâu. Tôi yêu cô ấy lắm lắm… tôi rất yêu, rất yêu, rất yêu cô ấy. Xin em đừng khóc, em làm anh rất đau đớn. Anh rất đau đớn”…

“Có thể đây là một sự chiếm hữu, không phải tình yêu thật sự như cha nói, nhưng con thấy đau đớn lắm khi cô ấy nói không yêu con gì hết. Con giận dữ, phá phách, làm nhục cô ấy rất nhiều lần. Cô ấy đau đớn và chịu đựng để người nhà không đau như cô ấy đau. Con biết con rất ác độc nhưng con không có làm khác được điều mình mong muốn nhất. Con ác độc lắm và con rất đau đớn vì mình ác độc như thế này. Nhưng có một điều con nói thật là cha rất tốt. Nhưng cha ơi, con không nghe lời cha được vì con đã quyết lòng rồi”.

“Con là một con ma có quyền lực rất cao. Con có thể giết cô ấy từ lâu hay làm cô ấy đau đớn vô cùng và điên loạn trước mắt người trần. Nhưng con đã không làm như vậy chỉ vì con thật sự rất yêu cô T”.

“Con là một hồn ma lang thang ở Cambốt, ông Nhự là một thầy tà đạo, ông ấy cần vong hồn để luyện tập nhân điện. Ông ta muốn quyền lực thôi chứ không cần tiền bạc vì lý do: nếu ông kiếm tiền qua các sử dụng vong hồn thì họ sẽ quật ông ấy ngay. Cô T. đến học nhân điện lúc con đi qua lớp học. Thấy cô ấy là một người tốt. Mỗi người tốt có hào quang trên đầu, chỉ có linh hồn mới thấy được. Con nhờ vợ con là cô Nòng Nòng, tên thật là Như, chứ không phải là Nòng Nòng đâu, chị Thoa nhé. Cô ấy là vong được thầy Nhự truyền vào để tập nhân điện cho cô T. nhưng vì cô T. dễ thương nên con đã đẩy vợ con ra để vào người cô này. Con không định yêu cô, vì lúc đó cô cũng như những người khác thôi. Không có thấy gì đặc biệt, chỉ dễ thương hơn một chút. Nhưng vì lúc đó cô ấy gọi 67 nói chuyện nên con tìm cách liên lạc với cô T.,... Con có nhiều cách lắm: viết, nói vào đầu… nên cô ấy không muốn tiếp xúc cũng không được. Cô ấy bây giờ phải nói là con khống chế cô ấy toàn bộ rồi. Con ác độc thật đó, cha ơi, nhưng con chỉ nói đúng một điều con cần nói nhất, đó là con yêu cô T. vô cùng vô tận”…

Đây chỉ là những lời tâm sự của một hồn ma. Đoạn cuối đã chứng tỏ hồn ma thật sự tàn ác và lừa dối, chỉ muốn làm hại và chiếm đoạt con người. Nó cũng chẳng có quyền làm hại con người nếu con người quyết tâm gắn bó với Chúa trong những con thử thách của đời mình. Cô T. cho đến hôm nay, 6/8/2022, vẫn sống yên ổn ở nước ngoài và hoàn toàn bình phục nhờ tác động của ơn Chúa qua lời cầu nguyện của cộng đoàn tín hữu.

Chúng tôi đưa ra thí dụ điển hình này để những ai luyện tập nhân điện đừng lầm tưởng về sức mạnh chữa lành bệnh tật của mình. Ma quỷ có thể cho chúng ta một ít quyền lực nhưng lại đòi chúng ta phải trả giá đắt cho những ân huệ chúng ban. Sách Khải Huyền cũng đã nói đến những phép lạ ma quỷ có thể làm để lôi kéo nhiều người tin theo Chúa[9].

Thí dụ tiếp theo có liên quan đến nhân điện là trường hợp của một người mẹ cũng đi học nhân điện và chữa bệnh cho nhiều người, trong đó có cả linh mục và tu sĩ. Bà rất tự hào về quyền lực của mình nên khi đứa con gái bị quỷ dữ chiếm hữu, bà tìm mọi cách để chữa trị từ năm 2013 đến nay. Tôi đã xin phép gia đình họ công bố chuyện này.

Bệnh nhân tên là Têrêxa Trần Đông Nghi, 29 tuổi, tốt nghiệp Đại học, ở ấp 3, xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Vào năm 2014, cô bị đau đầu, nằm liệt một chỗ, không tự ăn uống và sinh hoạt. Khi lên cơn, bệnh nhân sùi bọt mép, gầm rú gào thét ban đêm, chửi rủa thô tục, tự xưng mình là Beelzebul. Bệnh nhân được đưa đến Bệnh viện Thánh Tâm, Hố Nai, Biên Hoà, Bệnh viện Hoàn Mỹ và Bệnh viện Tâm Thần ở TP.HCM. Các bác sĩ chẩn đoán đủ thứ bệnh, chữa trị đủ thứ thuốc, nhưng sức khoẻ càng ngày càng giảm. Gia đình cũng đưa cô đi cầu nguyện ở nhiều nơi, xin nhiều linh mục đến cầu nguyện tại nhà.

Chúng tôi đã giúp cô 4 lần, bắt đầu từ ngày 04/3/2018 đến 27/5/2018 bằng cách xoa bóp toàn thân để khai thông các dây thần kinh và mạch máu, dù khi làm, cô chửi rủa và nhổ nước bọt vào chúng tôi. Chúng tôi cũng làm phép xức dầu trừ tà cho cô, xin giáo dân giáo xứ Thánh Giuse ở Bàn Cờ, Q.3, TP.HCM cầu nguyện. Kết quả là sau lần chữa thứ III, ngày 29/4/2018, cô tự đi lại, tự ăn uống được. Hiện nay, cô còn một vài lần căng thẳng thần kinh, chưa chịu nổi tiếng động. Chúng tôi vẫn tiếp tục cầu nguyện cho cô.

Nhưng sự chiếm hữu của quỷ dữ nơi con gái của bà vẫn nặng nề. Vị linh mục trong giáo xứ của bà và một vài nữ tu đã khuyên nhủ bà phải tin cậy vào quyền năng của Chúa, nhưng bà nhất quyết không nghe. Bà nói rằng mình đã chữa lành cho nhiều người, vậy tại sao không thể chữa con mình khỏi. Bà vẫn khống chế con dưới quyền lực của ác thần và không tin vào quyền năng chữa lành của Chúa. Chúng tôi hy vọng có ngày bà nhận ra rằng chỉ có Chúa mới là Đấng chữa lành chứ không phải do tài năng của bà hay kỹ năng của nhân điện nơi bà.

Chúng tôi nói đến phong trào nhân điện vì có liên quan đến việc chữa bệnh và trừ tà, mà nhiều năm trước đây cho đến bây giờ, linh mục Đa Minh Nguyễn Chu Truyền thuộc nhóm Trừ quỷ Bảo Lộc, vẫn đang thực hiện. Chúng tôi cũng muốn lưu ý phong trào nhân điện này đang biến tướng dưới tên gọi Năng Lượng Gốc (Energy Source) và được nhiều người Việt Nam đang tin theo.

Vài nhận định và đề nghị

Nhờ những nghiên cứu gần đây chúng tôi cũng hiểu rằng một số người học nhân điện hay theo Năng lượng gốc có khả năng chữa bệnh cho mình khi họ tập thiền định, điều chỉnh hơi thở vì hơi thở rất quan trọng trong con người. Nhất là khi họ biết bỏ đi những tham sân si trong lòng mình, mở rộng tinh thần cho Đấng Tối Cao thì họ có khả năng tiếp xúc với muôn loài muôn vật. Vì thế, những nghiên cứu của bà Barbara Ann Brennan cũng như của hai tiến sĩ Dasira Narada và Narada Maha Thera đều đáng trân trọng và rất quý báu. Chúng giúp ta khám phá ra chiều sâu vô tận của tâm hồn và những khả năng vô biên của con người.

Nhưng qua kinh nghiệm giúp các bệnh nhân, chúng tôi cũng lưu ý rằng: không phải tất cả những gì các tác giả trên đây nói đều đúng và có nguy cơ bị tác động bởi tà thần, nhất là khi người ta bị lôi cuốn theo những tham vọng, dục vọng, tự mãn về thành công trong việc chữa bệnh.

Chúng tôi muốn nhấn mạnh tầm quan trọng của Thần Khí đối nghịch với tà khí để mời gọi các bạn khám phá ra những chiều kích mới mẻ của tinh thần con người, trong một đất nước còn bị chia rẽ vì những hệ tư tưởng đối nghịch nhau.

Năm 1996, Việt Nam đã thiết lập Viện Nghiên cứu và Ứng dụng Tiềm năng Con người[10], do viện sĩ Ts. Phạm Minh Hạc làm viện trưởng, với bộ môn Cận Tâm lý do thiếu tướng Ts. Nguyễn Chu Phác, làm chủ nhiệm. Bộ môn này tập hợp những nhà ngoại cảm Việt Nam để dùng tài năng đặc biệt tìm ra hơn 10.000 ngôi mộ liệt sĩ và một số danh nhân Việt Nam, thử ADN và cho kết quả chính xác 100%. Nhưng vẫn có đại tá Ts. Đỗ Kiên Cường cho rằng các hiện tượng ngoại cảm như thế là lừa dối.

Tất cả chỉ muốn nói rằng con người chúng ta là một mầu nhiệm và chỉ có thể khám phá về con người nếu có sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, khi chúng ta thở được thần khí của Đức Giêsu để phân định những điều tốt xấu, đúng sai trong một số lĩnh vực vượt quá khả năng của khoa học và hiểu biết tự nhiên của con người.

Vài năm gần đây, cụ thể từ năm 2020, nhiều người ở Hà Nội cũng như nhiều tỉnh thành ở Việt Nam bắt đầu biết đến phong trào gọi là “Năng Lượng Gốc”, nhất là khi họ tham dự trực tiếp những khoá học do một người gọi là ông Lê Phúc mở các khoá như khoá 3 Kim Tự Tháp tại hội trường Giảng Võ, Hà Nội, hay lớp 4 Năng Lượng Gốc Trống Đồng Việt Nam tại Khách sạn Công Đoàn, số 1 Yết Kiêu, Hà Nội, vào tháng 12 năm 2020.

Người học được truyền năng lượng, truyền cảm hứng để tăng năng lượng bản thân, để biết thay đổi bản thân hướng tới việc luôn thực hành các nguyên lý của năng lượng gốc với tâm an lành, không quá vui quá buồn, không nóng giận, sống tha thứ và bao dung với người thân, với cộng đồng. Trong suốt quá trình thực hành năng lượng gốc, mỗi học viên đều giữ gìn cao nhất sự kết nối của bản thân với nguồn năng lượng ngoài không gian. Để duy trì sự kết nối liên tục, mỗi học viên cần phải cải thiện tư duy của mình, thay đổi từ giận buồn, tiêu cực thành vui mừng, hạnh phúc. Nguồn năng lượng ngoài không gian đó sẽ hỗ trợ, giúp đỡ học viên giữ được sự bình tĩnh để từ đó có sự minh định và sự bình an khi nghịch cảnh đến với bản thân mình. Xuyên suốt các bài giảng của năng lượng gốc, học viên luôn được nhắc nhở rằng Đạo đức, Tình yêu thương là sợi dây chủ chốt để học viên liên tục có sự kết nối với năng lượng gốc…

Những lời giảng đầy tính nhân văn đó đã lôi cuốn rất nhiều người tìm học và thực hành. Nên khi họ vượt qua những kiểu sống chiều theo những tham vọng và dục vọng bất ổn và vô độ của mình thì nhiều học viên đã cải thiện được sức khoẻ thể lý, tâm thần, tâm lý và tâm linh. Nhiều học viên còn dùng năng lượng của mình để tác động vào người khác giúp cho họ được an vui, khoẻ mạnh và chữa trị cả một số bệnh nan y. Các học viên còn được gợi ý theo dõi trực tiếp những bài giảng trên mạng Youtube. Những bài giảng này rất gần với những bài giảng của tiến sĩ Barbara Ann Brennan trong các cuốn sách của bà.

Năng lượng gốc mà nhiều người đang tìm cách kết nối, đối với người tín hữu Công giáo, chính là tinh thần tuyệt đối, nguồn của mọi hiện hữu mà các tôn giáo gọi là Thiên Chúa, Trời, Đấng Tối Cao, Thượng Đế, Cao Đài, Đức Thánh Allah. Ngài cũng chính là nguồn của tình yêu, sự sống, hạnh phúc, quyền năng, chân thiện mỹ được ban cho con người vì từng giây phút mỗi người chúng ta đang đón nhận tất cả những giá trị ấy trong con người của mình. Nếu chúng ta kết hợp với Đức Giêsu và thở được Thần Khí của Người chính là chúng ta kết nối với năng lượng gốc để phát huy được những giá trị ấy không phải chỉ cho mình mà còn cho mọi người và mọi vật quanh mình trong vũ trụ. Vì thế, những phong trào như nhân điện, năng lượng gốc hay bất cứ những tôn giáo, đạo pháp nào không đi ngược với con đường sự thật và sự sống của Đức Giêsu đều đáng cho chúng ta trân trọng.

Chính vì thế, chúng tôi tha thiết mong các linh mục, tu sĩ hay giáo dân được thông tin nhiều hơn về những phong trào, những hệ tư tưởng, những biến cố để có sự phân định sáng suốt thay vì ngại ngùng che dấu chúng như hiện nay, hay vội vàng kết án là đi ngược với giáo lý của Công giáo.



[1] truongsinhhocds.com, Hàn Nhuệ Cương, Tiến sĩ Đasira Narađa – Người khai sáng môn Trường Sinh học.

[2] truongsinhhocds.com, Hàn Nhuệ Cương, Tiến sĩ Đasira Narađa – Người khai sáng môn Trường Sinh học.

[3] x. facebook.com, Tiểu sử ông Lương Minh Đáng với các tước hiệu do ông Bùi Quang Long đăng trên Facebook, ngày 7/10/2014.

[4] x. cand.com.vn, Thu Phương, Chữa bệnh bằng nhân điện: Thần dược hay trò lừa đảo?, internet, ngày 24/10/2006.

[5] Có thể truy cập tại địa chỉ youtube.com: v=WDkLaZ8jeV4 (cuốn 1); v=ixeIjX_Mjz4 (cuốn 2); v=ixeIjX_Mjz4 (cuốn 4); v=xFVa-1HaRHk (cuốn 5); v=uH5tB0E1sAU; v=M4_9WFpnqH4; v=05NXE_PLZ0Y…

[6] x. Wikipedia.org, Barbara Brennan. Sách này đã được ông Lê Trọng Bổng dịch và NXB Văn hoá Thông tin TPHCM xuất bản năm 1996. Sau đó được Lê Hà Lộc, Nguyễn Đình Phúc biên dịch và NXB Văn hoá Thông tin Hà Nội xuất bản năm 2006.

[7] x. Wikipedia, Barbara Brennan.

[8] x. Mc 16,15-20.

[9] x. Kh 13,13-17.

[10] x. Wikipedia.org, Viện nghiên cứu ứng dụng tiềm năng của con người.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn