Canh Tân Đời Sống Thánh Hiến Nhờ Đặc Sủng Của Thánh Linh

Đời sống thánh hiến
là một đặc sủng của Thánh Linh được ban cho Giáo Hội.
Vì thế, không thể hiểu rõ đời sống thánh hiến
nếu gạt đi hay phớt lờ vai trò của Thánh Linh
và nhận thức căn tính đời tu.
Chính khi sống phong phú và sung mãn
đời sống được Thánh Linh thúc đẩy này,
người tận hiến mới có khả năng làm chứng
cho sự hiện diện của Thiên Chúa giữa lòng thế giới hôm nay.

Đa Minh Đinh Trí Dũng, OP.



Dẫn nhập
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Hiến chế tín lý về Hội Thánh, Lumen Gentium (21-11-1964), cùng với Sắc lệnh về việc canh tân đời sống tu trì, Perfectae caritatis (28-10-1965) ra đời, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ra một Tông thư gửi tất cả những người tận hiến nhân dịp năm đời sống thánh hiến. Đây là một cơ hội quý báu để mỗi chúng ta nhìn lại một chặng đường lịch sử đã qua, những thách đố của thời đại hôm nay và những viễn tượng hy vọng trong tương lai liên quan đến đời sống tu trì. Trong thông điệp này, Đức Giáo Hoàng đã lấy lại ý tưởng chủ đạo của Tông huấn hậu thượng Hội đồng, Vita consecrata (25-3-1996) để làm nổi bật tính cách độc đáo của đời sống thánh hiến: “Các con không chỉ có một lịch sử huy hoàng để nhớ lại và tường thuật, mà còn có một lịch sử oai hùng cần viết lên! Hãy nhìn về tương lai, nơi mà Thánh Linh đã dự định thực hiện cùng với các con những điều trọng đại hơn nữa”[1].
Trong đoạn văn chủ đạo trên, Đức Giáo Hoàng nhắc đến ba khía cạnh quan trọng cần lưu tâm. Thứ nhất, vai trò của Thánh Linh trong đời sống thánh hiến. Thứ hai, đời sống thánh hiến trong lịch sử tính và sức năng động của đời sống này. Cuối cùng, dù không được diễn tả cách minh nhiên trong đoạn văn này nhưng ở ngay phần đầu “Những mục tiêu của năm Đời sống thánh hiến”, Đức Giáo Hoàng đã xác nhận đời sống thánh hiến của những người tận hiến là một đặc sủng.
Chủ đề của bài viết “Canh tân đời sống thánh hiến nhờ Đặc sủng của Thánh Linh” nói đến sự liên đới của ba khía cạnh quan trọng này. Đời sống thánh hiến là một đặc sủng của Thánh Linh được ban cho Giáo Hội. Vì thế, không thể hiểu rõ đời sống thánh hiến nếu gạt đi hay phớt lờ vai trò của Thánh Linh và nhận thức căn tính đời tu. Chính khi sống phong phú và sung mãn đời sống được Thánh Linh thúc đẩy này, người tận hiến mới có khả năng làm chứng cho sự hiện diện của Thiên Chúa giữa lòng thế giới hôm nay.
Chúng ta được mời gọi cảm nghiệm và chứng tỏ rằng Thiên Chúa có khả năng lấp đầy con tim của chúng ta và làm cho chúng ta được hạnh phúc, không cần phải đi tìm hạnh phúc ở đâu khác; chứng tỏ rằng tình huynh đệ chân chính sống trong các cộng đoàn của chúng ta nuôi dưỡng niềm tin; chứng tỏ rằng sự tận hiến để phục vụ Giáo Hội, các gia đình, các người trẻ, các người già, các người nghèo giúp chúng ta đạt được sự thành tựu bản thân và mang lại ý nghĩa trọn vẹn cho cuộc đời[2].
Vì vậy, việc canh tân đời sống thánh hiến cần chú ý lắng nghe điều mà Thần Khí nói với Hội Thánh ngày hôm nay.[3]
1. Tầm nguyên các từ ngữ

1.1. Đời sống thánh hiến[4]
Nguồn gốc của từ đời sống thánh hiến này là do sự chuyển dịch từ Vita Consecrata trong tiếng Latinh. Đây là từ ngữ chính thức của Bộ giáo luật được ban hành năm 1983, nhưng không được tất cả mọi người tán thành vì hai lý do chính. Thứ nhất, consecratio có thể được hiểu theo hai nghĩa: hành động về phía con người (tận hiến cho Thiên Chúa) hoặc hành động về phía Thiên Chúa (Ngài thánh hiến con người). Thứ hai, tất cả các Kitô hữu đều được thánh hiến (hoặc tận hiến) nhờ bí tích Thánh tẩy, chứ đâu riêng gì các tu sĩ mới được thánh hiến?
Trước tiên, về việc dịch thuật từ Vita consecrata (hay Consecratio) sang Việt ngữ, ta có thể thấy có hai từ: đời sống tận hiến hay thánh hiến. Từ “tận hiến xem ra thông dụng và dễ hiểu hơn: tận hiến có nghĩa là hiến dâng trọn vẹn; người tận hiến là người đã dâng trót cuộc đời cho Thiên Chúa. Từ “thánh hiến” xem ra mới lạ, nhưng hợp với thần học hơn, vì hai lý do: thứ nhất, bởi vì nó nêu bật vai trò chủ động của Thiên Chúa; thứ hai, nó cũng diễn tả rõ ràng hơn hậu quả của hành vi, đó là nên thánh (thánh hoá).
Thứ đến, tôi xin phân tích từ ngữ consecratio ở trong Kinh Thánh và truyền thống Giáo hội; kế đó, thử xem từ ngữ này được áp dụng như thế nào cho các tu sĩ.

Consecratio trong Kinh Thánh

Nếu dịch danh từ consecratio trong tiếng Latinh thành “thánh hiến” thì quả là sát với nguyên ngữ, bởi vì consecratio (gồm bởi cum và sacrum), có nghĩa là tách rời một người hay một vật nào đó ra khỏi phạm vi phàm tục, và dành vào việc thánh thiêng. Thí dụ thánh hiến một nhà thờ có nghĩa là dành nơi đó vào việc phụng tự (chứ không sử dụng làm hội trường giải trí). Ý nghĩa của từ thánh hiến (hay cung hiến) này cũng được gặp thấy nơi nhiều tôn giáo, bởi vì tôn giáo nào cũng có những nơi thánh (đền thờ, đình chùa, linh điạ), đồ vật thánh (dùng vào việc phụng tự), thời gian thánh (lễ lạy), và dĩ nhiên những người thánh.
*Cựu ước
Hiện tượng vừa rồi cũng xuất hiện trong Dothái giáo, nhưng với hai sự khác biệt đáng kể: thứ nhất, về chủ thể thánh hiến; và thứ hai, về hậu quả thánh hiến. Thứ nhất, xét về chủ thể của sự thánh hiến. Trong các tôn giáo khác, chủ thể của sự thánh hiến là con người. Con người dành riêng một đối tượng nào đó cho các thần linh (hay Thiên Chúa). Còn trong Kinh Thánh, vai trò chủ động được dành cho Thiên Chúa: sự thánh hiến là một tác động của Thiên Chúa, trước khi là của con người.
Kế đến, xét về hậu quả của sự thánh hiến. Trong các tôn giáo khác, hậu quả của sự thánh hiến là tách rời ra khỏi phạm vi phàm tục, và dành riêng cho việc phụng tự. Trong Kinh Thánh, hậu quả quan trọng nhất là đời sống luân lý. Nói khác đi, tuy Kinh Thánh ghi nhận những nơi thánh, đồ thánh trong tôn giáo Israel, nhưng tiên vàn nhấn mạnh đến người thánh. Thực vậy, Thiên Chúa được tuyên xưng là Đấng Thánh (Is 6,3), nguồn mọi sự thánh thiện. Ngài đã chọn Israel làm dân riêng, nghĩa là thông truyền cho họ sự thánh thiện của mình. Vì thế dân Israel được gọi dân thánh.[5] Đây không phải là một tước vị để hãnh diện, nhưng là một yêu sách : Israel có nghĩa vụ phải sống thánh thiện, bởi vì họ đã thuộc về Thiên Chúa là Đấng Thánh.[6]
* Tân ước nối dài và mở rộng những tư tưởng vừa nói
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa được tuyên xưng là Đấng Thánh. Tân ước cũng gán danh hiệu đó cho Đức Kitô: Ngài là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Mc 1,24; Lc 4,34 ; Ga 6,69 ; 1 Ga 2,20). Ngài được Chúa Cha thánh hiến và sai đến trần gian (Ga 10,36). Thánh Luca (4,18-21) áp dụng đoạn văn Isaia 61,11 cho Đức Giêsu: Ngài đúng là Đấng Mêsia được Thần Khí xức dầu tấn phong và sai đi giảng Tin Mừng.
Tân Ước mở đầu với sứ vụ của Đức Giêsu, Đấng được thánh hiến và phái đến trần gian. Ngài đã chu toàn sứ mạng với việc hiến dâng cuộc đời trong sự vâng phục Chúa Cha, đến mức độ dâng hiến chính mình trên thập giá (Ga 17,19). Chính nhờ đó mà Ngài đã thủ đắc cho Thiên Chúa một dân thánh (Xc. 1 Pr 2,9). Vì thế những phần tử của Hội thánh được thánh hoá trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô (1 Cr 1,2;Ga 15,4) : họ được rửa sạch khỏi tội lỗi (Xc. Ep 5,24), được thánh hoá nhờ ánh sáng của chân lý (Ga 15,3 ; 1 Ga 2,9). Ngoài ra, công trình thánh hoá cũng được gán cho Thánh Linh (2 Tx 2,13). Nói cho cùng, sự thánh hoá hệ ở chỗ thông hiệp với Chúa Cha và Chúa Con (Xc. 1 Ga 1,3), nhờ tác động của Thánh Linh, Đấng dẫn đưa tất cả đến chân lý viên mãn (Ga 16,13).
Những nhận xét vừa rồi cho thấy rằng, danh từ consecratio có thể dịch là thánh hiến (hiến thánh) hoặc thánh hoá, bởi vì nó vừa bao hàm cả tác động của Thiên Chúa và của con người, và nhất là vừa nó nêu bật được ý tưởng chủ chốt là thông dự vào sự thánh thiện của Thiên Chúa.
Việc thánh hoá liên quan tới toàn thể Dân Thiên Chúa. Điều này đã được nhấn mạnh ngay từ trong Cựu ước và được kéo dài sang Tân Ước: dân được Thiên Chúa tuyển chọn được gọi là Dân Thánh, và họ có bổn phận phải nên thánh (1 Pr 2,9; Xh 19,5-6), bằng đời sống đức hạnh. Việc nên thánh là một ơn gọi và bổn phận của toàn thể Dân Chúa. Mặt khác, Thiên Chúa cũng tuyển lựa giữa hàng ngũ Dân Thánh một vài người để uỷ thác một sứ mạng: họ được thánh hiến để phục vụ một sứ vụ. Điều này đã xảy ra trong Cựu ước: đừng kể những tư tế được cử ra để phụ trách việc tế tự, chúng ta thấy vài ngôn sứ được tuyển chọn và thánh hiến, chẳng hạn như ông Isaia (6,6-8), Giêrêmia (1,5). Trong Tân Ước, trường hợp điển hình là ông Phaolô (Cv 9,15 ; 9,13).

Consecratio trong truyền thống Giáo hội

Trong ngôn ngữ thần học, từ consecratio được áp dụng cho nhiều lãnh vực. Thứ nhất, consecratio hiểu về một nơi (thí dụ : thánh hiến nhà thờ, bàn thờ), về đồ vật (chén thánh, bánh thánh), và một người (dâng hiến, tận hiến). Kế đó, chủ động của consecratio có thể bao gồm Thiên Chúa (chẳng hạn trong Thánh lễ, chính Chúa Thánh Thần thánh hoá bánh và rượu để trở nên Mình và Máu thánh Đức Kitô); con người (khi dâng hiến bản thân hoặc đồ vật cho Thiên Chúa); Hội thánh (chẳng hạn khi cử hành phụng vụ cung hiến thánh đường). Cuối cùng, cách riêng khi nói về sự thánh hiến bản thân, chúng ta nên ghi nhận hai điều. Trước tiên, tất cả các Kitô hữu đều đã được thánh hiến nhờ bí tích Thánh tẩy : họ đã được thanh tẩy khỏi tội lỗi, và được trở thành phần tử của Hội thánh, thông dự vào sự thánh hiến của Đức Kitô là Thượng tế, Ngôn sứ và Vua[7]. Tiếp nữa, các giám mục và linh mục cũng được thánh hiến nhờ bí tích Truyền chức thánh, để trở thành các tư tế cử hành bí tích nhân danh Đức Kitô[8].

Consecratio áp dụng cho các tu sĩ

Từ khi ban hành Bộ giáo luật năm 1983, các tu sĩ được gọi là những “người tận hiến”, đời tu trì được đặt tên là đời sống thánh hiến. Tuy những thuật ngữ này đã được lưu dụng trong các văn kiện Toà thánh, nhưng không thiếu vấn nạn được nêu lên. Thứ nhất, nếu gọi các tu sĩ là người tận hiến, thì những người không phải là tu sĩ không được tận hiến hay sao? Quan điểm như vậy có trái nghịch với đạo lý căn bản của Tân ước nói đến việc thánh hiến của bí tích thánh tẩy không? Thứ hai, nếu tất cả các Kitô hữu đã được thánh hiến nhờ bí tích thánh tẩy, thì đâu là sự khác biệt của việc thánh hiến của các tu sĩ? Cuối cùng, có cơ sở thần học nào trong Kinh Thánh và Truyền thống nói đến sự thánh hiến tu trì không? Thiên Chúa hay con người là chủ động của sự thánh hiến đó?
Những lý giải nơi các văn kiện Toà thánh
* Lịch sử
Như vừa nói, từ ngữ thánh hiến (consecratio, vita consecrata) mới được chính thức áp dụng cho các tu sĩ kể từ khi ban hành Bộ giáo luật 1983. Trong lịch sử, danh từ consecratio chỉ được áp dụng cho lễ nghi thánh hiến các trinh nữ (consecratio virginum, virgines consecratae), còn sự tận hiến của các đan sĩ và tu sĩ được gọi bằng những từ khác : professio, traditio sui, mancipatio, oblatio, votum religionis.
Công đồng Vaticanô II áp dụng từ consecratio vào nhiều lãnh vực khác nhau, chẳng hạn sự thánh hiến nhờ bí tích thánh tẩy và truyền chức[9]. Chủ động của sự thánh hiến là Thiên Chúa. Nhưng rất ít khi từ ngữ này được Công đồng áp dụng cho các tu sĩ. Nói cách cụ thể hơn, có hai đoạn văn nói đến sự thánh hiến của các tu sĩ, với nội dung không được rõ rệt: đó là Hiến chế về Hội thánh số 44, và Sắc lệnh về Dòng tu số 5.
Hiến chế Lumen gentium số 44 viết như sau :
Người tín hữu tự buộc mình tuân giữ ba lời khuyên Phúc âm qua lời khấn hay qua những ràng buộc thánh khác tương tự như lời khấn dòng ; như thế là họ hiến thân hoàn toàn (totaliter mancipatur) cho Thiên Chúa chí ái để phụng sự và làm vinh danh Người với một danh hiệu mới mẻ và đặc biệt. Nhờ phép rửa tội, họ đã chết cho tội lỗi và được cung hiến (sacratus) cho Thiên Chúa. Nhưng để có thể thâu lượm dồi dào ơn ích của bí tích ấy, người Kitô hữu muốn nhờ việc tuân giữ ba lời khuyên Phúc âm trong Giáo hội, thoát ly khỏi những ngăn trở có thể trì hoãn nhiệt tâm đức ái và tôn thờ Thiên Chúa cách hoàn hảo và họ tận hiến để phụng sự Thiên Chúa cách thân tình hơn (divino obsequio intimius consecrantur).
Ở câu trên, sự tận hiến về phía tu sĩ thì được gọi là “mancipatio”, còn “consecratio” ở câu dưới có thể được hiểu về cả hai phía (theo một số học giả): hoặc là “tu sĩ tự hiến mình để phụng sự Thiên Chúa” (tu sĩ dâng mình), hoặc “tu sĩ được tận hiến” (thể thụ động : họ được Thiên Chúa thánh hiến).
Thứ đến, Sắc lệnh Perfectae caritatis, số 5:
Tu sĩ của bất cứ hội dòng nào cũng phải ghi tâm điều này: chính nhờ sự tuyên giữ các lời khuyên Phúc âm mà mình đã đáp ứng ơn thiên triệu, vì thế, chẳng những phải chết đi cho tội lỗi nhưng còn phải từ bỏ thế gian để sống cho một mình Thiên Chúa. Thực vậy, họ đã cung hiến toàn thể cuộc đời để làm tôi tớ Thiên Chúa (totam enim vitam sua Eius famulatui mancipaverunt) và sự cung hiến ấy đã thực sự tạo nên một sự thánh hiến đặc biệt, ăn rễ sâu trong sự thánh hiến của phép rửa tội, đồng thời biểu lộ nó một cách trọn hảo hơn (quod quidem constitutit peculiarem quamdam consecrationem, quae in baptismatis consecratione radicatur eamque plenius exprimit).
 Sự tận hiến về phía tu sĩ được gọi bằng từ “mancipatio”; vì thế “consecratio” có thể hiểu về phía Thiên Chúa, cũng tương tự như trong bí tích rửa tội. Điều khó khăn nằm ở chỗ là sự thánh hiến của các tu sĩ tuy được gọi là “đặc biệt” nhưng không hẳn là khác biệt với sự thánh hiến của bí tích rửa tội.
* Từ công đồng Vaticanô II đến Thượng hội đồng Giám mục 1994[10]
Khi duyệt lại Bộ giáo luật năm 1983, một số học giả đã đề nghị nhiều tựa đề cho phần bàn về các tu sĩ. Danh xưng cổ truyền De Religiosis không còn thích hợp nữa, bởi vì không kết nạp được các Tu hội đời. Đề nghị “đời sống trọn lành” (De institutis perfectionis) cũng bị bác bỏ, bởi vì tất cả mọi tín hữu đều được mời gọi nên trọn lành, chứ không riêng gì các tu sĩ. Sau cùng, người ta chấp nhận tựa đề “đời sống thánh hiến” (vita consecrata) mặc dù không thiếu vấn nạn.
Vài tháng sau khi ban hành Bộ giáo luật, một văn kiện mang tựa đề “Những yếu tố cốt yếu của đời tu” do bộ Tu sĩ soạn thảo (31/5/1983) đã dành nhiều đoạn (số 5-12) để giải thích khái niệm về sự thánh hiến, bao gồm nhiều khía cạnh: sáng khởi của Thiên Chúa, sự đáp trả về phía con người, cũng như mối liên hệ giữa thánh hiến và sứ mạng. Nhân dịp năm thánh mừng ơn Cứu chuộc (1983-84, kỷ niệm 1550 năm biến cố Thập giá và Phục sinh), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã viết một bức thư ngày 25-3-1984 cho các tu sĩ với tựa đề “Hồng ân cứu chuộc” (Redemptionis donum); trong đó ơn thánh hiến được nhìn như một “giao ước tình yêu”[11], sự đáp trả của con người vào lời Thiên Chúa mời gọi hợp tác vào công trình cứu độ nhân loại nhờ thông dự vào Thập giá Chúa Kitô.
Vào lúc chuẩn bị Thượng hội đồng Giám mục về đời thánh hiến, mặc dù Uỷ ban thần học của Liên hiệp các Bề trên Tổng quyền đề nghị nên dùng khái niệm “đặc sủng” (charisma) để định nghĩa đời tu sĩ, nhưng Tài liệu làm việc (Instrumentum laboris) muốn duy trì khái niệm “thánh hiến” (consecratio). Trong bản trường trình khai mạc khóa họp (Relatio ante disceptationem), Đức hồng y George Basil Hume cho biết rằng danh từ consecratio bao gồm bốn khía cạnh: a/ Thiên Chúa là Đấng kêu gọi và thánh hiến qua trung gian của Giáo hội; b/ Con người tận hiến cho Thiên Chúa, sau khi đã nhận ra ơn gọi; c/ Nếp sống tận hiến, như là hậu quả của lời cam kết; d) Sứ vụ kèm theo sự tận hiến.
Tuy vậy, vào lúc kết thúc phiên họp, các nghị phụ vẫn chưa nhất trí về việc xác định bản tính của sự thánh hiến tu trì: phải chăng đó là cũng chỉ sự thánh hiến của bí tích Thánh tẩy và được lặp lại về phía con người? hay là một sự thánh hiến mới, xét về phía Thiên Chúa? Tương quan giữa sự thánh hiến tu trì với các sự thánh hiến khác như thế nào? Trong kiến nghị (propositio) số 3D, các nghị phụ yêu cầu Đức Thánh Cha xác định trong tông huấn hậu Thượng hội đồng.
Tông huấn Vita consecrata trả lời cho những câu hỏi đó khi khẳng định rằng sự thánh hiến qua việc tuyên giữ ba lời khuyên Phúc Âm, tuy được bắt rễ từ sự thánh hiến của Bí tích rửa tội, nhưng mang tính cách “mới”, bởi vì hàm ngụ một ân huệ mới.
Tuy nhiên sự thánh hiến do việc tuyên khấn tu trì có một đặc điểm khác biệt so với sự thánh hiến do bí tích Thánh tẩy ban cho, bởi vì nó không hẳn là hậu quả thiết yếu. Thực vậy, phàm ai đã được tái sinh trong Đức Kitô thì đều được kêu gọi nhờ sức mạnh Thánh Thần ban, sống khiết tịnh tương ứng với bậc sống mình, vâng phục Thiên Chúa và Giáo Hội, dứt bỏ lòng quyến luyến của cải vật chất, bởi vì mọi người đều được mời gọi sống thánh hiến trong việc đạt tới mức hoàn hảo của đức ái. Nhưng bí tích Thánh tẩy tự nó không hàm chứa lời kêu gọi sống độc thân hoặc trinh khiết, từ bỏ sở hữu của cải, vâng phục một bề trên, dưới dạng cụ thể của các lời khuyên Phúc Âm. Vậy, việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm giả thiết một ân huệ đặc biệt mà Thiên Chúa không ban cho tất cả mọi người, như chính Đức Giêsu đã nêu bật trong trường hợp độc thân tự nguyện[12] (Xc. Mt 19,10-12).


Tóm lại
Tất cả các Kitô hữu đều được thánh hiến nhờ bí tích rửa tội, và được kêu gọi nên thánh[13]. Nhưng ơn kêu gọi phổ quát này không loại trừ những ơn kêu gọi đặc thù, nhằm phục vụ ơn kêu gọi phổ quát. Trong Cựu ước, toàn thể dân Israel đã được thánh hiến cho Thiên Chúa; nhưng đồng thời, vài ngôn sứ cũng được thánh hiến để giúp cho dân thánh được kiên trì trong ơn gọi của mình. Trong Tân ước cũng vậy: tất cả các Kitô hữu là thành phần của dân thánh, nhưng cũng có những người được thánh hiến (như thánh Phaolô) để thi hành sứ mạng giữa lòng Dân thánh của Chúa.
Cũng như mọi Kitô hữu, người tu sĩ đã được thánh hiến nhờ bí tích thánh tẩy, qua đó họ được rửa sạch tội lỗi và trở nên đền thánh của Thiên Chúa. Tuy nhiên điều này không loại trừ những ơn gọi vào những con đường nên thánh đặc biệt. Thực vậy, như Vita consecrata diễn tả: “ơn gọi thánh hiến của bí tích rửa tội không nhất thiết đòi hỏi phải sống độc thân, phải từ bỏ tài sản”[14]. Vì thế việc tuyên giữ ba lời khuyên Phúc Âm là một ơn gọi đặc biệt (singulari ex vocatione), một hồng ân riêng của Thánh Linh (Spiritus dono proprio)[15].

Khi nói rằng ơn gọi của các tu sĩ mang tính cách riêng, đặc biệt, thì có nghĩa là chỉ được ban cho một số ít người, chứ không cho hết mọi tín hữu. Tuy nhiên, không vì thế mà ai không được hồng ân này lại mang mặc cảm tự ti. Đối lại, ai đã nhận được tiếng gọi thì hãy cố gắng đáp trả. Điều quan trọng là mỗi người hãy cố gắng khám phá ra đường lối mà Chúa muốn dành cho mình. Các ơn gọi tuy được ban cho cá nhân nhưng nhắm đến ích lợi của cộng đoàn. Các ơn gọi được bổ túc cho nhau, để xây dựng lẫn cho nhau[16]. Các giáo dân có ơn gọi nên thánh ở giữa trần thế, họ cố gắng thâm nhập các giá trị của Tin mừng vào các thực tại gia đình, chính trị, kinh tế, xã hội. Các giáo sĩ được thánh hiến để tiếp nối sứ mạng các thánh tông đồ: giảng dạy Lời Chúa, phân phát bí tích, chăm sóc đoàn chiên Chúa. Các tu sĩ được gọi để hoạ lại nếp sống của Đức Kitô, cũng như để loan báo những thực tại của thế giới mai hậu.

Vì thế, từ ngữ đời sống thánh hiến hay đời tận hiến đôi chỗ được dùng với nghĩa tương đương nhau trong các văn bản của Giáo Hội. Ở đây, từ ngữ đời sống thánh hiến được áp dụng đến cho đời sống thánh hiến của các tu sĩ theo cách thức họ tuyên khấn và giữ ba lời khuyên Phúc Âm hơn là dành cho các Kitô hữu giáo dân theo nghĩa rộng.

1.2. Đặc sủng
Từ đoàn sủng, đặc sủng dịch từ chữ charisma trong tiếng Hy-lạp hay Latinh. Thực ra trong nguyên gốc Hy-lạp, charisma chỉ có nghĩa là món quà, tặng phẩm. Kinh Thánh và lịch sử Giáo Hội đã sử dụng từ này theo nhiều nghĩa khác nhau. Sau này từ charisma mới được hiểu để nói về đoàn sủng, đặc sủng.

Tân Ước

Từ “charisma” đã được thánh Phaolô sử dụng mười sáu lần trong các thư của ngài để nói về các hồng ân mà Thánh Linh ban cho các tín hữu nhằm xây dựng cộng đồng (Rm 1,11; 5,15.16; 6,23; 11,29; 12,6; 1Cr 1,7; 7,7; 12,4.4.28.30.31; 2 Cr 1,11; 1 Tm 4,14; 2 Tm 1,6). Như vậy, charisma có nghĩa là ơn ban nhằm đạt tới ích lợi của cộng đoàn chứ không nhằm tới ích lợi cá nhân. Giáo huấn của thánh Phaolô về các charisma (được quảng diễn từ chương 12 đến chương 14 trong 1 Cr và Rm 12,3-8) có thể tóm lại ở những điểm chính sau:
Các đoàn sủng tuy nhiền nhưng cùng xuất phát từ một nguồn gốc (tức là Thánh Linh) và cùng nhắm về một mục tiêu là để xây dựng Hội Thánh. Do đó, không có lý do gì mà những người đã lãnh nhận đoàn sủng lại ganh tị nhay nhưng đúng hơn họ cần bổ túc cho nhau để cho toàn thân được sống.
Hiểu như vậy, khong nên khinh rẻ lẫn nhau, coi ơn này cao hơn ơn nọ. Trong một thân thể, những cơ quan coi như thấp kém hơn cả lại là cần thiết. Tuy vạch ra một hệ trật các đặc sủng nhưng ngài nhấn mạnh và đề cao hơn cả là đức mến. Đó là đặc sủng cao quý nhất đáng cho mọi người khao khát nhất.
Thánh Phaolô nhắc nhở cần cảnh giác để phân biệt các đoàn sủng giả và thật. Thực vậy, tuy phải tinh tế kẻo dập tắt ơn Thánh Linh, nhưng không phải tất cả các hiện tượng kỳ lạ đều xuất phát từ Thánh Linh.
Trong danh sách các đoàn sủng, có đến 20 thứ khác nhau. Các học giả đã đề ra những lối phân loại khác nhau. Chẳng hạn như những đặc sủng ngoại thường (ơn nói tiếng lạ, ơn chữa bệnh) và thông thường (dạy dỗ, rao giảng, an ủi). Có thứ phân loại dựa theo hình thức hoạt động như tri thức (ngôn sứ, dạy dỗ, khuyên lơn) và thực hành (quản trị, hướng dẫn, phục dịch…).

Lịch sử Giáo Hội

Vào thời Trung Cổ, thánh Tôma Aquinô đã gọi charisma bằng tên là gratia gratis data (dịch sát chữ là “ơn được ban nhưng không”). Thánh nhân dùng từ này để phân biệt với từ gratia gratum faciens. Trong khi gratia gratis data là thứ ân huệ được ban nhằm công ích cho cộng đoàn chứ không nhằm thiện ích của bản thân người lãnh nhận thì gratia gratum faciens là ơn thánh sủng nhằm tới thiện ích bản thân của người lãnh nhận, giúp cho họ sống trong ơn nghĩa với Chúa[17].
Mãi đến Công đồng Vaticanô II, thần học mới lại chú ý đến charisma. Trong Hiến chế tín lý về Hội thánh Lumen gentium, số 12 và Sắc lệnh về giáo dân Apostolicam actuositatem, số 3d, Công đồng khẳng định rằng Thánh Linh tác động trong Giáo Hội không chỉ qua các bí tích và tác vụ mà còn qua các đoàn sủng. Các đoàn sủng ấy được trao ban nhằm giúp cho các tín hữu có khả năng đảm nhận những công tác khác nhau nhằm giúp ích cho Hội Thánh.

Charisma áp dụng vào đời tu trì[18]

Sau công đồng Vaticanô II, đề tài charisma được khai triển dưới nhiều phương diện:
Trong lãnh vực Giáo hội học, thần học muốn nêu bật rằng Hội thánh không chỉ gồm có khía cạnh cơ chế (phẩm trật, bí tích) nhưng còn có khía cạnh “đặc sủng”, nhờ những linh ân mà Thánh Thần không ngừng ban phát cho các tín hữu để họ làm chứng cho Tin mừng. Những ai đã nhận được các đặc sủng thì có quyền lợi và nghĩa vụ mang ra sử dụng để mưu cầu ích lợi cho cộng đoàn và xã hội.
Phong trào canh tân Thánh Linh (renouveau charis-matique) chú ý đến các linh ân của Chúa Thánh Thần ban trong các buổi hội họp cầu nguyện, cách riêng là ơn chữa bệnh và nói tiếng lạ.
Chính trong bối cảnh đó mà đề tài “charisma” được vài tác giả áp dụng cho lý tưởng tu trì, và được du nhập vào văn kiện Toà thánh kể từ tông huấn Evangelica testificatio của Đức Thánh Cha Phaolô VI (29/6/1971) ở các số 11 và 32. “Tài Liệu Làm việc” của Thượng Hội đồng Giám mục 1994, số 42, đã giải thích sơ lược những bước tiến như sau:
Trong Tân ước, từ charisma chưa được áp dụng cho hàng ngũ tu trì. Tuy vậy, có ít là hai đoạn văn nói đến việc độc thân vì Nước Trời là một đặc sủng chỉ được ban cho một số người chứ không cho tất cả (Xc. 1 Cr 7,7 ; Mt 19,11-12). Công đồng Vaticanô II cũng chưa dùng từ charisma khi bàn về đời tu trì, tuy nhìn nhận rằng việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm là một hồng ân mà Thánh Linh ban cho Giáo hội, nhằm bộc lộ sự thánh thiện và vẻ đẹp của Giáo hội. Cuộc canh tân các hội dòng sau Công đồng đã khám phá ra “đặc sủng” mà Thánh Linh đã ban cho các vị sáng lập nhằm đáp ứng một nhu cầu của Hội Thánh hay của xã hội. Hơn thế nữa, các đặc sủng khác nhau của các hội dòng cho thấy tính cách phong phú đa dạng mà Thánh Linh ban cho Giáo hội để góp phần vào việc tăng trưởng trong sự thánh thiện và công tác truyền bá Tin mừng.
Vì thế danh từ “charisma” được coi như một thuật ngữ hữu ích để định nghĩa lý tưởng đời tu trì, dưới nhiều khía cạnh. Thứ nhất, nó làm sáng tỏ tác động của Thánh Linh, Đấng không ngừng sáng tạo và canh tân Hội thánh, nhờ những sáng kiến thánh thiện và hoạt động ban cho các vị Sáng Lập. Kế đến, nó liên kết đời sống tu trì với Hội thánh, bởi vì đó là một hồng ân được ban để phục vụ Hội thánh. Cuối cùng, nó thúc đẩy mỗi hội dòng hãy khám phá ra căn cước của mình, bởi vì đó là nhân tố quy tụ các phần tử, cũng như hãy biết bảo vệ gia sản đó.
Trong tiếng Việt, charisma có thể được dịch là “đoàn sủng”, xét vì là hồng ân được ban nhằm ích lợi của cộng đoàn Hội Thánh; đôi khi cũng được dịch là “đặc sủng”, xét vì tính cách đặc biệt của nó theo nghĩa là không phải ai ai cũng nhận được nhưng chỉ dành cho một số người nào đó. Đời sống thánh hiến được coi là một dạng đặc sủng theo nghĩa này vì nó nói đến lời mời gọi để sống một bậc sống nào đó theo sự hướng dẫn của Thánh Linh chứ không phải dành cho hết tất cả mọi người.
Có thể phân biệt ba cấp độ charisma trong đời tận hiến như được đề cập trong tông huấn Vita Consecrata. Thứ nhất, đời sống tận hiến (hàng ngũ tu trì) là một hồng ân Chúa ban cho Giáo Hội. Thứ hai, lời mời gọi đi theo Đức Kitô qua việc tuân giữ ba lời khuyên Phúc Âm là một đặc sủng mà Thánh Linh ban cho một số tín hữu. Cuối cùng, mỗi vị sáng lập hội dòng nhận được đặc sủng hay đoàn sủng[19].
2. Việc canh tân đời sống thánh hiến nhờ các đặc sủng khác nhau của Thánh Linh

2.1. Thánh Linh, nguồn phát sinh các đặc sủng trong Giáo Hội
“Các đặc sủng trong Giáo hội không phải là một di vật được cất giữ an toàn và được ủy thác cho một nhóm nhỏ để cất giữ; đúng hơn, chúng là những ân huệ được Thánh Linh tháp nhập vào thân thể Hội Thánh, được kéo về trung tâm là Đức Kitô và rồi được truyền vào động lực truyền giáo”[20]. Chính Thánh Linh là nguồn phát sinh các đặc sủng trong Giáo Hội và qua các đặc sủng này, Thánh Linh làm phong phú và canh tân Giáo Hội.
Những tác động chính của Thánh Linh được bàn nhiều trong thần học tâm linh có thể tóm lại như sau: “Thánh Linh là tác nhân chính của các hoạt động đời sống tâm linh, cách riêng nhờ các ân ban dưới hai dạng thức là linh ân và đặc sủng”[21].
Thánh Linh là động lực chính làm triển nở đời sống tâm linh trong Giáo Hội. Chính Ngài thúc giục người sống đời thánh hiến tìm đến sự kết hợp với Thiên Chúa, qua việc gieo vào lòng ta sự khao khát đạt đến Chân-Thiện-Mỹ. Thánh Linh là nguyên ủy cảm thức tôn giáo nơi con người, và nhất là Ngài ban cho ta hồng ân đức tin, khởi điểm của đời sống tương quan với Chúa Ba Ngôi[22].  Thánh Linh ngự trong tâm hồn như trong đền thờ (1 Cr 3,16; 6,19). Ngài đến để biến đổi “thần trí” cho hoà hợp với “thần trí” của Thiên Chúa (1 Cr 2,10-15). Ngài là thầy dạy nội tâm: “Thánh Linh là vị thầy nội tâm về đời sống theo đức Kitô, người khách trọ dịu hiền và người bạn soi sáng, hướng dẫn, sửa chữa và củng cố đời sống này”[23].
Thánh Linh trở thành nguyên ủy đời sống mới. Ngài thúc đẩy con người làm việc lành (Rm 8,14; 1 Cr 12,6). Thánh Tôma Aquinô giải thích Thánh Linh như là “luật mới” (lex nova) ghi khắc trong tâm khảm con người (Summa Theologica I-II, q.106). Ngài được ví như nước hoặc lửa thanh tẩy chúng ta tội lỗi (Mt 3,11; Ga 3,5‑9; Tt 3,5‑7). Ngài thắp lên ánh sáng đức tin (1 Cr 2,10‑16). Ngài khêu lên niềm hy vọng trong tâm hồn (Rm 15,13). Ngài khơi dậy nơi con người lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân (Rm 5,5). Ngài là nguồn mạch của niềm vui nội tâm (Rm 14,17; Gl 5,22; 2 Tx 1,6). Ngài ban sức mạnh cho người tín hữu để làm chứng tá cho Đức Kitô (Cv 1,5). Cách riêng, Ngài dạy người tín hữu cách cầu nguyện (Rm 8,26-27; Ep 5,18-19).
Thánh Linh được ban cho người tín hữu qua phép rửa, nhờ đó họ được kết nạp vào sự chết và phục sinh của Đức Kitô. Thánh Linh cho họ thông dự vào tình nghĩa tử của đức Kitô, trở nên nguyên ủy của cuộc sống mới nơi họ, biến đổi họ nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, cho đến ngày được trở nên giống như Người qua sự phục sinh thân xác. Như vậy, một đặc trưng của đời sống tâm linh Kitô giáo ở chỗ chính Thánh Linh giữ vai trò chủ động: chính Ngài biến đổi chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa, sống tình con thảo với Ngài qua việc kết nạp vào thân thể Đức Kitô.
Trong thông điệp Dominum et vivificantem (18/5/ 1986, số 65), Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhìn nhận tác động của Thánh Linh nơi việc cầu nguyện của nhân loại: ở đâu có sự cầu nguyện chân thành thì ở đấy phải nhìn nhận sự hiện diện của Thánh Linh (dựa theo Rm 8,26). Thông điệp cũng bàn về tác động của Thánh Linh củng cố con người nội tâm ở các số 58-60. Thánh Linh cũng là nguyên ủy của những khát vọng tìm về Chân - Thiện – Mỹ.[24]
Thánh Linh là Ân ban và nguồn mạch mọi hồng ân[25]. Thần học về đời sống tâm linh trình bày tác động của Thánh Linh một cách cụ thể qua đạo lý về bảy linh ân và các đặc sủng.
Thánh Linh dùng các đặc sủng để thông truyền ân sủng và có mục đích phục vụ cho lợi ích chung của Giáo hội. Thánh Phaolô chỉ ra các đặc sủng khác nhau có trong Giáo Hội nhưng ngài liên kết các đặc sủng này với tâm điểm là đức mến. Đức mến, hoa trái của Thánh Linh, liên kết các đặc sủng khác nhau để xây dựng Giáo Hội[26].
Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người (1 Cr 12, 4-11).
 2.2. Đặc sủng của Thánh Linh áp dụng trong đời sống thánh hiến

Bộ Giáo Luật năm 1983 viết:


Đời sống thánh hiến qua việc tuyên khấn các lời khuyên Phúc Âm là một lối sống bền vững, qua đó, các tín hữu theo sát Đức Kitô hơn, dưới tác động của Thánh Linh, tự hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa mà họ yêu mến trên hết mọi sự…trở nên dấu chỉ rực rỡ trong Giáo Hội, họ tiên báo vinh quang thiên quốc[27].

Tông huấn Vita Consecrata viết:

Suốt dòng lịch sử, nhiều người được thánh tẩy đã được mời gọi sống cuộc đời giống hình ảnh Chúa Kitô. Nhưng điều này chỉ có thể thực hiện được nhờ một ơn gọi đặc biệt và nhờ một ân huệ đặc biệt của Thánh Linh triệt để khi bước theo Đức Kitô, sequela Christi, bằng việc thực thi các lời khuyên Phúc Âm[28].

Ân huệ này được hiểu là đặc sủng của Thánh Linh ban cho những người sống thánh hiến trong Giáo Hội để họ có khả năng gắn bó đời mình cách sâu đậm hơn với Đức Kitô.

Dựa theo các văn kiện gần đây của Giáo Hội, chúng ta có thể phân biệt ba lãnh vực “đặc sủng” của Thánh Linh khi áp dụng vào đời thánh hiến. Thứ nhất, đặc sủng của đời thánh hiến; thứ hai, đặc sủng của các hội dòng và cuối cùng, đặc sủng của mỗi hội dòng.
Đặc sủng của đời thánh hiến[29]
Đặc sủng đời thánh hiến có thể hiểu theo ba nghĩa :
a) Đời thánh hiến là hồng ân mà Thánh Linh ban cho Giáo hội. Tông huấn Vita consecrata mở đầu với những lời như sau : “Đời sống thánh hiến, bén rễ sâu trong gương sống và giáo huấn của Chúa Kitô, là một ân huệ Thiên Chúa Cha ban cho Giáo hội Người qua trung gian của Thánh Linh...Qua các thời đại, luôn có những người nam nữ sẵn sàng nghe theo tiếng gọi của Chúa Cha và sự thúc đẩy của Thánh Linh, đã chọn con đường đặc biệt để bước theo Đức Kitô để tự hiến cho Chúa với một con tim không chia sẻ... Như thế họ đã góp phần vào việc biểu lộ mầu nhiệm và sứ mạng của Giáo hội bằng muôn vàn đặc sủng thuộc đời sống tâm linh và tông đồ mà Thánh Linh đã ban cho họ, và nhờ đó, họ cũng góp phần vào việc canh tân xã hội”.
b) Thánh Linh không chỉ tác động vài lúc khai sinh đời sống thánh hiến trong Hội thánh, nhưng “Thánh Linh vẫn Người vẫn hoạt động không ngừng qua các thời đại, bung mở những hoa trái phong phú do việc thực thi các lời khuyên Tin Mừng nhờ các đặc sủng khác nhau”[30]. Như vậy, nhờ các đặc sủng của các dòng tu, ta có thể nhận ra hoạt động đa dạng của Thánh Linh, giúp cho Hội thánh luôn luôn trẻ trung để sống Tin mừng giữa những biến thiên của lịch sử nhân loại.
c) Ơn gọi thánh hiến được Thánh Linh ban cho Hội thánh để Hội thánh thể hiện ơn gọi của mình. Tuy nhiên, ta cũng có thể thêm rằng ơn gọi thánh hiến đồng thời cũng là ân huệ mà Thánh Linh ban cho những người được chọn để đi theo Chúa Kitô: đây là một đặc ân ban cho một số người chứ không phải cho tất cả mọi tín hữu[31].
Đặc sủng của các hội dòng thánh hiến
Đời thánh hiến là một thực thể đa dạng trong Hội thánh, với nhiều hình thức khác nhau trải qua lịch sử, được lược thuật ở các số 6-12 của Tông huấn Vita consecrata: nếp sống đan tu; hàng trinh nữ và ẩn sĩ; các dòng chiêm niệm, tông đồ; các tu hội đời; các tu đoàn tông đồ. Nói thế có nghĩa là đặc sủng thánh hiến có nhiều loại. Sự hiện hữu của nhiều hội dòng trong Hội thánh càng tô đậm thêm cho tính đa dạng của đặc sủng ấy.
Đặc sủng của mỗi hội dòng
Đây là lãnh vực thứ ba của thuật ngữ “đặc sủng” đời tu, và được sử dụng nhiều hơn cả. Thực vậy, từ Công đồng Vaticanô II, các hội dòng được khích lệ hãy “trở về nguồn” để khám phá ra “đặc sủng” của mình, tuy từ ngữ này chỉ mới được sử dụng cách chính thức kể từ Đức Phaolô VI với Tông huấn “Chứng tá Phúc âm” ban hành năm 1971.
Vài đoạn văn tiêu biểu có thể kể đến như số 2 của Sắc lệnh về Dòng tu của Công đồng Perfectae Caritatis (28-10-1965): Chính để mưu ích cho Giáo hội nên mỗi dòng có tính cách và phận vụ riêng. Do đó phải trung thành nhận thức và noi giữ tinh thần cùng ý hướng đặc biệt của các Đấng sáng lập cũng như tất cả các truyền thống lành mạnh, vì tất cả những yếu tố đó tạo nên di sản của mỗi hội dòng.
Điều này được lặp lại hầu như nguyên văn trong điều 578 của Bộ Giáo luật. “Tất cả mọi người phải trung thành duy trì chủ tâm và ý định của vị sáng lập (Fundatorum mens atque proposita) đã được nhà chức trách có thẩm quyền của Giáo Hội châu phê, về bản chất, mục đích, tinh thần và đặc tính của mỗi hội dòng (circa naturam, finem, spiritum et indolem instituti), cũng như về những truyền thống lanh mạnh và tất cả những gì cấu tạo nên gia sản (patrimonium) của hội dòng”.
Từ những điều trên đây, có thể rút ra nhận xét là Thánh Linh hoạt động phong phú và cách hữu hiệu không chỉ nơi cá nhân đấng sáng lập, người sống đời thánh hiến mà còn cả trong các hội dòng và nơi từng hội dòng. Chính đặc sủng khởi phát từ Thánh Linh là yếu tố giúp cho các phần tử gắn bó với nhau để theo đuổi một lý tưởng chung. Các phần tử phải duy trì đặc sủng của vị sáng lập, và đồng thời cũng phải bồi đắp thêm vào gia sản đó, kể cả qua việc thích ứng với những đòi hỏi của thời đại. Điều này được giải thích trong Huấn thị về việc huấn luyện trong các hội dòng Potissimum Institutioni.
Đặc sủng của đời sống tu trì trong một hội dòng là một ân huệ sống động, ân sủng này cần phải được đón nhận và sống trong những điều kiện, thường là mới mẻ... Tính cách đặc sủng riêng của mỗi hội dòng đòi hỏi vị sáng lập cũng như các môn đệ phải không ngừng chứng tỏ về lòng trung thành đối với Chúa; về sự sáng suốt chú ý đối với những hoàn cảnh và những dấu chỉ của thời đại; về ý chí muốn sống giữa lòng Giáo hội; về sự sẵn sàng tuân phục phẩm trật Giáo hội; về lòng can đảm trong những sáng kiến; về sự kiên trì trong đời hiến dâng; về sự khiêm tốn chịu đựng những nghịch cảnh... Thời đại chúng ta đặc biệt đòi hỏi các tu sĩ phải có tính trung thực theo đặc sủng, sống động và khôn ngoan trong các khám phá của thời đại, tính trung thực này đã nổi bật nơi các vị sáng lập[32].
Tóm lại, việc định nghĩa đời thánh hiến như “charisma mang theo nhiều hệ luận thực hành quan trọng:
Giáo hội cám ơn Thiên Chúa vì nhờ các đặc sủng của các dòng tu mà mình được canh tân liên lỉ về sự thánh thiện và hoạt động tông đồ.[33]
Giáo hội trân trọng bảo vệ đời sống thánh hiến bởi vì nhờ đó mà Tin mừng của Chúa Kitô được duy trì cách sống động[34]. Tin Mừng không chỉ là một mớ đạo lý trừu tượng nhưng được diễn đạt cụ thể của việc thực hành các lời khuyên Phúc âm và những mẫu gương hy sinh phục vụ.
Giáo hội kêu gọi mỗi dòng hãy cố gắng bảo vệ gia sản của mình[35], bởi vì đó là cách thức đáp trả lại sáng khởi của Thiên Chúa. Điều này đòi hỏi mỗi dòng phải ý thức về đặc sủng của mình, nhắm tới việc nên thánh qua việc thực hành sứ vụ trong Giáo hội[36].
Đặc sủng không chỉ chi phối đến cộng đoàn, nhưng cũng liên quan đến cá nhân nữa. Trước hết, mỗi tu sĩ cám ơn Chúa vì ơn gọi vào đời thánh hiến để làm chứng tá cho Tin mừng. Thứ đến, mỗi tu sĩ gắng canh tân không ngừng dựa theo đặc sủng của hội dòng mình, và cũng nhờ đó mà giúp cho cộng đoàn được tăng tiến[37].
- Sau cùng và quan trọng nhất, khái niệm “đặc sủng” đặt các tu sĩ dưới tác động của Thánh Linh, nguyên uỷ của việc thánh hoá, hợp nhất và sứ vụ trong Hội thánh. Thật vậy, “các tu sĩ được liệt vào hàng ngũ các đoàn sủng không những bởi vì biết bao nhiêu công tác họ thực hiện để phục vụ cộng đoàn, nhưng còn vì họ thôi thúc cộng đoàn nên thánh qua việc tận hiến cho Thiên Chúa- Đấng đáng mến trên hết mọi sự”[38]
Canh tân đời sống thánh hiến trong Giáo Hội nhờ Thánh Linh
Đời sống thánh hiến được ví như một vườn hoa muôn sắc với nhiều loại hoa là các đặc sủng khác nhau. Các đặc sủng này đều khởi phát từ Thánh Linh vì chính Thánh Linh tác động nơi mỗi đấng sáng lập và hướng dẫn họ trên đường đạt tới sự hoàn thiện Kitô giáo qua việc phục vụ Giáo Hội và tha nhân.
Trải qua dòng lịch sử thăng trầm của Giáo Hội, đời sống thánh hiến đã mang nhiều hình thức khác nhau, mang lại tính cách đa dạng cho “linh đạo đời tu”. Tông huấn Vita consecrata nói đến tác động của Thánh Linh trong đời sống thánh hiến nói chung, và qua các hình thức tu trì nói riêng, đưa đến các đặc sủng đa hình của vị sáng lập và các Dòng tu hầu phục vụ Giáo Hội cách hữu hiệu hơn.
Vì thế, việc canh tân đời sống thánh hiến phải khởi đi từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Quá khứ giúp khám phá lại gia sản cao quý của dòng và tinh thần của Đấng Sáng lập. Hiện tại là những thách đố và cơ hội mà người sống đời thánh hiến đang phải đối mặt. Và tương lai là một dự phóng cho cộng đoàn để đáp ứng những đòi hỏi khẩn cấp của thời đại và con người. Do đó, việc khám phá ra linh đạo đời tu cách chân thực là yếu tố cần thiết để có thể thực sự canh tân đời sống thánh hiến. Đoạn văn súc tích hơn cả về những ý nghĩa khác nhau của “linh đạo đời tu” có thể đọc thấy ở số 93, gợi lên khái niệm “sống theo Thánh Linh” và phục vụ Giáo hội theo đặc sủng riêng của mỗi hội dòng.
Chúng ta có thể nói rằng đời sống tâm linh, được hiểu như là sống với Đức Kitô và do Thánh Linh hướng dẫn, là một cuộc hành trình mỗi ngày một trung tín hơn, trong đó người tận hiến được Thánh Linh soi dẫn và biến đổi trở nên giống Đức Kitô, trọn niềm hiệp thông trong tình yêu và phục vụ trong Giáo hội.
Tất cả những yếu tố vừa nói, được hội nhập vào trong những hình thức khác nhau của đời thánh hiến, kết thành một linh đạo đặc thù, nghĩa là một dự phóng cụ thể sống tương quan với Thiên Chúa và với môi trường chung quanh, với những nét nhấn về mặt tinh thần hay về hình thức tông đồ, do đó mà một khía cạnh này hay khía cạnh khác trong mầu nhiệm duy nhất của Đức Kitô được biểu dương hay hoạ lại. Khi công nhận một hình thức đời thánh hiến hay một tu hội, Giáo hội công bố rằng trong đoàn sủng thiêng liêng và tông đồ đã hội đủ những điều kiện khách quan để đạt tới sự hoàn hảo theo Tin mừng cho mỗi người và cho cộng đoàn.
Đoạn văn này gợi lên hai nhận xét quan trọng sau về linh đạo đời tu. Thứ nhất, linh đạo này được đặt nền trên việc “sống theo Thánh Linh”. Thứ hai, linh đạo này hướng đến việc phục vụ Giáo Hội.
Thực vậy, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II khẳng định: “Những người tận hiến được kêu gọi trở thành chất men hiệp thông sứ vụ trong Giáo Hội phổ quát, vì các đoàn sủng khác nhau của các tu hội khác nhau được Chúa Thánh Thần ban cho là để mưu ích cho toàn Nhiệm Thể, nên họ phải phục vụ công việc xây dựng Nhiệm Thể”[39]. Như thế, đặc sủng trong đời sống thánh hiến gắn liền với sứ mạng của Giáo Hội và liên hệ chặt chẽ với ơn gọi của Giáo Hội. Thêm nữa, Công Đồng Vaticanô II cũng cho rằng “với những đoàn sủng phong phú, các người tận hiến giúp Giáo Hội thể hiện ngày một sâu xa hơn bản tính của mình là bí tích của ‘sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và sự hợp nhất toàn thể nhân loại’”[40]. Như vậy, đời sống thánh hiến giúp làm phong phú, củng cố và duy trì sự hiệp nhất trong Giáo Hội.
Nói về sức năng động của Thánh Linh trong Giáo Hội thể hiện nơi những người sống đời thánh hiến, Đức Giáo Hoàng Phanxicô viết: “Óc tưởng tượng của Thánh Linh đã sản sinh những lối sống và những công việc mà ta không thể nào phân loại và sắp xếp vào những khung đúc sẵn. Vì thế tôi không thể nào kể ra từng hình thái đặc sủng được”[41]. Điều này cho thấy sức năng động của Thánh Linh trong việc luôn làm tươi mới Giáo Hội. Vì thế, đời sống thánh hiến không thể tách rời khỏi việc sống theo sự hướng dẫn của Thánh Linh và sự thông hiệp với Giáo Hội. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói về điều này rất hay như sau: “Lòng quảng đại và hy sinh đã thúc đẩy các vị sáng lập cũng phải thúc đẩy các con, là những người con cái tinh thần của họ, hãy duy trì các đặc sủng cách sinh động để cho chúng được phong phú và thích nghi mà không giảm bớt tính độc đáo, với cũng một sức mạnh mà Thánh Linh đã gợi lên, để phục vụ Giáo Hội và góp phần vào việc thiết lập Nước Thiên Chúa”[42].
Cuối cùng, không nên hiểu đời sống thánh hiến như một đặc ân nào đó cao trọng hơn và đối chọi với đặc sủng của những người giáo dân hay đặc sủng theo phẩm trật trong Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng Bênêdictô XVI cho rằng “được chọn luôn có nghĩa là được chọn cho một việc gì đó. Về một khía cạnh nào đó, kẻ được chọn phải mang gánh nặng, vì phải nhận trách nhiệm cho kẻ khác”[43]. Tương tự, khi áp dụng vào đời sống thánh hiến, người được thánh hiến có ý nói đến một trách nhiệm hơn là đặc ân. Họ được mời gọi hiến thân hoàn toàn cho việc phụng sự Thiên Chúa và phục vụ Giáo Hội. Quả thế, đặc sủng của đời sống thánh hiến không hề đối chọi với các đặc sủng khác nhưng bổ túc và kiện cường nhằm làm sinh động Giáo Hội. Vì vậy, việc canh tân đời sống thánh hiến cần hướng về nội tâm và thực chất chứ không phải là những hình thức bên ngoài và chạy theo thời thượng.
Kết luận
Trong Giáo Hội, có nhiều đặc sủng khác nhau hầu diễn tả sự phong phú và sức năng động của Thánh Linh trong các tác động của Ngài. Các đặc sủng này tuy nhiều nhưng tất cả đều quy hướng về cùng một nguồn mạch là Thiên Chúa và hướng đến việc duy trì, củng cố và phát triển Giáo Hội. Theo nghĩa này, đời sống thánh hiến là một đặc sủng khởi phát từ Thánh Linh được ban cho Giáo Hội; để qua đời sống này, những người được thánh hiến theo sát Đức Kitô hơn, trở nên đồng hình đồng dạng với Người. Thêm nữa, vì các đặc sủng được kiện toàn trong đức ái (ơn huệ của Thánh Linh) nên đời sống thánh hiến càng phải thể hiện rõ nét tầm quan trọng của đức ái qua việc phục vụ và hiến thân vì người khác.
Đặc sủng của đời sống thánh hiến không có nghĩa tách biệt và cắt rời những người tuyên khấn và sống ba lời khuyên Phúc Âm ra khỏi môi trường sống thông thường của nhân loại hay liên quan đến một bậc sống trổi vượt hơn chỉ dành cho một số người. Đúng hơn, đặc sủng này liên kết với các đặc sủng khác trong Giáo Hội để làm nên một thân mình mầu nhiệm duy nhất của Đức Kitô. Thánh Linh là nguồn hiệp nhất, nối kết mọi người từ nhiều đặc sủng và bậc sống khác nhau lại để làm nên một Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. “Sự khác biệt phải được hòa giải bằng ơn trợ giúp của Thánh Linh; chỉ mình Ngài có thể khơi dậy sự đa dạng, đa nguyên và phong phú, đồng thời đem lại sự duy nhất”[44].
Cuối cùng, việc canh tân đời sống thánh hiến cần phải luôn đi kèm với việc khám phá ra sức sống của Thánh Linh, đặc sủng của hội dòng và nhu cầu của thời đại. Thêm nữa, việc canh tân này cần phải liên kết với đời sống Giáo Hội vì Giáo Hội là Hiền Thê của Đức Kitô. Do đó, việc canh tân này cần nhấn mạnh đặc biệt hơn tính cách nội tại của đời sống thánh hiến.



[1] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu thượng hội đồng giám mục về Đời sống Thánh hiến Vita Consecrata, số 110.
[2] ĐGH Phanxicô, Tông thư của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi tất cả các người tận hiến nhân dịp năm đời sống thánh hiến (21/11/2014), phần II, mục 1.
[3] Xc. Ibid, phần I, mục 2.
[4] Phan Tấn Thành, Đời sống tâm Linh, tập VI: Những hình thức tu trì Kitô Giáo, (Roma 2006), tr 211-222.
[5] Xc. Xh 19,5-6 ; Đnl 7,6 ; 14,2.21 ; 26,19 ; 28,9.
[6]  Xc.Lv 11,44.45 ; 19,2 ; 20,7-8.26.
[7] Xc. GLHTCG, số 783-786.
[8] Xc. Ibid, 1547-1553.
[9] CĐ Vaticanô II, Hiến chế Tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 28 và 34.
[10] Xc. Phan Tấn Thành, Đời sống tâm linh, tập VI: Những hình thức tu trì Kitô Giáo, (Roma 2006), trang 225-336.
[11] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Hồng ân Cứu Chuộc Redemptionis Donum, phần lời tựa trước số 8.
[12] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu thượng hội đồng giám mục về Đời sống Thánh hiến Vita Consecrata, số 30b.
[13] CĐ Vaticanô II, Hiến chế Tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 39-42.
[14] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu thượng hội đồng giám mục về Đời sống Thánh hiến Vita Consecrata, số 30.
[15] Xc. Ibid, số 14.
[16] Ibid, 31-33.
[17]  S.T. II-II, qq. 171-178.
[18] Xc. Phan Tấn Thành, Đời sống tâm linh, tập VI: Những hình thức tu trì Kitô Giáo, (Roma 2006), trang 226-228.
[19] Xc. Phan Tấn Thành, Đời sống tâm linh, tập VI: Những hình thức tu trì Kitô Giáo, (Roma 2006), trang 225-236.
[20] ĐGH Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng Evangelii Gaudium, số 130.
[21] Phan Tấn Thành, Đời sống tâm Linh, tập III: Thần học về Đời sống Tâm Linh Kitô Giáo, (Roma 2003), tr 64-65.
[22] GLHTCG, số 153.
[23] Ibid, số 1697.
[24] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp về Chúa Thánh Thần là Chúa và là Đấng ban sự sống Dominum et Vivificantem, số 58-65.
[25] GLHTCG, số 733.
[26] Ibid, số 2003.
[27] Bộ Giáo Luật 1983 (bản dịch của Hội đồng Giám Mục Việt Nam, NXB Tôn Giáo, Hà Nội, 2007), điều 573, 1.
[28] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu thượng hội đồng giám mục về Đời sống Thánh hiến Vita Consecrata, số 14.
[29] Xc. Phan Tấn Thành, Đời sống tâm linh, tập VI: Những hình thức tu trì Kitô Giáo, (Roma 2006), trang 229-233.
[30] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu thượng hội đồng giám mục về Đời sống Thánh hiến Vita Consecrata, số 5.
[31] Xc. Ibid, số 19; 30.
[32] Xc. Bộ các Tu hội tận hiến và tu đoàn Tông đồ, Huấn thị về việc huấn luyện trong các hội dòng Potissimum Institutioni, (2/2/1990), số 67,68 và 93.
[33] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu thượng hội đồng giám mục về Đời sống Thánh hiến Vita Consecrata, số 2.
[34] Ibid, số 3 và 5.
[35] Ibid, số 48b.
[36] Ibid, số 37.
[37] Ibid, số 71.
[38] Phan Tấn Thành, Mầu nhiệm Thiên Chúa, (Học Viện Đa Minh, 2012), trang 513.
[39] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu thượng hội đồng giám mục về Đời sống Thánh hiến Vita Consecrata, số 47.
[40] Vaticanô II, hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 1.
[41] ĐGH Phanxicô, Tông thư của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi tất cả các người tận hiến nhân dịp năm đời sống thánh hiến (21/11/2014), phần II, mục 5.
[42] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông thư Los caminos del Evangelio, gửi các tu sĩ nam nữ Mỹ châu Latinh nhân dịp 500 năm truyền giảng Tin Mừng tại thế giới mới (29/6/1990), số 26.
[43] Joseph Ratzinger, Thiên Chúa và Trần thế (người dịch: Phạm Hồng Lam), NXB Tôn Giáo, Hà Nội, 2011, trang 212.
[44] ĐGH Phanxicô, Tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng Evangelii Gaudium, số 131.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn