Hình như tại Việt Nam
không có giáo xứ nào dạy phương pháp truyền
giáo
cho học sinh giáo lý phổ thông và cho các em
thực tập truyền giáo.
Việc dạy giáo lý cho học sinh phổ thông
là cái nền của ngôi nhà Giáo hội để vươn lên
và vươn xa, nhưng ngôi nhà ấy làm sao vươn lên và vươn xa được
khi những người xây nhà (kiến trúc sư và thợ
xây)
không được học để biết cách làm cho Giáo hội
lớn lên
rồi vươn mình ra xa hơn.
Việc truyền giáo bị giảm thiểu, bị thu hẹp
lại rồi bị lãng quên.
FX. Trần Kim Ngọc, OP.
Dẫn nhập
Chúng ta đang sống trong một thời đại phát
triển không ngừng về mọi phương diện. Khi đối diện với vấn đề phát triển đó, có
nhiều hệ luỵ làm người ta phải đau đầu. Phát triển toàn diện xã hội loài người
cần phải có những nền tảng và nguyên tắc hoạt động, nếu không thì việc phát
triển chỉ làm cho ra tồi tệ hơn. Ngày nay, khi nói đến phát triển toàn diện và
bền vững, người ta thường nói đến những hạn từ như “định hướng”, “chiến lược”,
“kế sách”, “hoạch định”, “tổ chức”... Trong bài viết này, người viết không có
tham vọng như các nhà hoạch định chính sách chiến lược phát triển kinh tế hay
xã hội lâu dài, mà chỉ xin mạo muội nêu ra những suy nghĩ dựa trên những khái
niệm về phát triển được phổ biến gần đây để nói về vấn đề truyền giáo tại Việt
Nam. Truyền giáo tại Việt Nam cũng cần có một định hướng phát triển theo những
góc cạnh mà người viết tạm nêu lên để quý độc giả cùng suy nghĩ và trăn trở
trước sứ vụ cao cả này.
1.
Phổ cập phương pháp truyền giáo
Nếu ai đã từng tiếp xúc
với anh chị em Tin Lành thì người đó sẽ thấy được nhiệt huyết truyền giáo nơi
họ. Ngay từ khi dạy đạo, người ta đã truyền đạt cái lửa truyền giáo rồi. Và họ
giảng Lời Chúa bừng bừng nhiệt huyết, lòng như trào ra lửa! Trong khi đó, người
Công Giáo lại ngủ mê, lửa truyền giáo tắt ngúm! Hình như tại Việt Nam không có
giáo xứ nào dạy phương pháp truyền giáo cho học sinh giáo lý phổ thông và cho
các em thực tập truyền giáo. Việc dạy giáo lý cho học sinh phổ thông là cái nền
của ngôi nhà Giáo hội để vươn lên và vươn xa, nhưng ngôi nhà ấy làm sao vươn
lên và vươn xa được khi những người xây nhà (kiến trúc sư và thợ xây) không
được học để biết cách làm cho Giáo hội lớn lên rồi vươn mình ra xa hơn. Việc
truyền giáo bị giảm thiểu, bị thu hẹp lại rồi bị lãng quên. Người ta cứ nghĩ
việc truyền giáo là của các tu sĩ và giáo sĩ, chứ mình không có ơn gọi truyền
giáo; và vì thế cũng chẳng cần phải có sách dạy về truyền giáo mà cũng chẳng
cần học truyền giáo! Nếu nghĩ như thế, thì trọng tâm của ơn gọi làm môn đệ Đức
Giêsu nằm ở đâu? Ơn gọi làm môn đệ của Đức Giêsu không phải là làm cho người
khác thành môn đệ của Ngài sao? Chúa đã chọn các môn đệ, huấn luyện họ rồi mới
sai họ đi, chẳng lẽ các môn đệ của Chúa thời nay lại muốn làm khác là không cần
huấn luyện môn đệ? Chương trình giáo lý phổ thông cần dành một vị trí đặc biệt
cho sư phạm truyền giáo: người nhỏ tuổi làm tông đồ truyền giáo cho người nhỏ
tuổi, người lớn tuổi hơn thì làm tông đồ cho người lớn tuổi hơn. Ai cũng có thể
làm tông đồ truyền giáo, đó là sứ vụ chung của tất cả những ai đã lãnh nhận
Phép Rửa. Để có chương trình ứng dụng được cho các lứa tuổi phổ thông, cá nhân
nào hay đơn vị nào soạn chương trình đây? Uỷ ban Loan báo Tin mừng hay Uỷ ban
Giáo lý Đức tin trực thuộc HĐGMVN? Hay là cả hai? Chương trình ấy cần có sự thống nhất và sử dụng đồng bộ cho toàn quốc có nên
không?
2.
Kêu gọi cộng tác từ phía giáo dân
Đa số giáo dân tại Việt Nam rất có lòng sốt
mến, nhiệt tình. Cứ tiếp xúc với nhiều giáo dân thì thấy, họ không quản ngại
bất cứ việc gì được giao trong giáo xứ, họ nhiệt tình tham gia mọi hoạt động
trong giáo xứ. Nghệ thuật cộng tác là một việc khó thực hiện, nhưng lại là một
việc cần làm trong bối cảnh đa dạng và hội nhập ngày nay, điều này Công đồng
Vatican II đã dạy như sau:
Thời đại
chúng ta đòi hỏi người giáo dân phải nhiệt thành không kém, nhất là những hoàn
cảnh hiện tại càng đòi hỏi việc tông đồ của họ phải hoàn toàn mạnh mẽ và sâu
rộng hơn. Quả vậy, càng ngày dân số càng gia tăng, khoa học và kỹ thuật càng
tiến triển, những mối tương quan mật thiết hơn giữa con người không những mở
rộng môi trường hoạt động tông đồ giáo dân đến vô hạn, môi trường mà phần lớn
chỉ dành riêng cho họ, mà còn tạo nên nhiều vấn đề mới đòi họ phải đặc biệt lưu
tâm học hỏi. Việc tông đồ này lại càng trở nên khẩn trương hơn, vì sự biệt lập
trên nhiều phương diện của cuộc sống con người như thường thấy, càng gia tăng,
đôi khi gây nên một sự tách biệt với trật tự luân lý và tôn giáo, cũng như tạo
ra một sự nguy hiểm trầm trọng cho đời sống Kitô giáo. Hơn nữa, trong những
miền thiếu linh mục hay khi các ngài không được tự do thi hành chức vụ, thì Giáo
hội khó có thể hiện diện và hoạt động hữu hiệu nếu không nhờ giáo dân cộng tác.
Dấu hiệu
cho thấy nhu cầu muôn mặt và khẩn trương ấy chính là hoạt động tỏ tường của
Chúa Thánh Thần đang làm cho giáo dân hôm nay mỗi ngày một ý thức hơn phần
trách nhiệm riêng của mình và thúc bách giáo dân mọi nơi phục vụ Chúa Kitô và Giáo
hội.[1]
Trong lòng Giáo hội hình như vẫn còn phảng
phất sự cách biệt giữa giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân. Giáo dân được coi như là
công dân hạng hai hay hạng ba. Giáo dân bị đối xử một cách không công bằng
trong sứ vụ của Giáo hội. Có nơi họ không được học tập hay mở mang kiến thức,
vì sợ rằng họ sẽ hiểu biết rồi đâm ra khó bảo khó dạy, lại muốn làm thầy tu sĩ
và linh mục!!! Vì thế, họ được bảo là cứ dựa cột mà nghe công dân hạng nhất
phán dạy...!!! Theo quan điểm của các nghị phụ Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế
Giới qua Đức giáo hoàng Phaolô II được thể hiện trong Tông huấn “Người Kitô hữu
giáo”, các các thành phần trong gia đình Hội Thánh đều có quyền bình đẳng và
phẩm giá trước mặt Thiên Chúa, người giáo dân cũng được mời gọi vào làm vườn
nho của Chúa. Hơn nữa, theo tinh thần của Công Đồng Vatican II, người giáo dân
đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống và sứ vụ của Giáo hội, và Công Đồng
mời gọi tha thiết giáo dân dấn thân vào việc tông đồ:
Thánh
Công đồng muốn phát động mạnh mẽ hơn việc tông đồ của dân Thiên Chúa, nên chú
tâm hướng về các Kitô hữu giáo dân, những người có phần riêng biệt và cần thiết
trong sứ mệnh của Giáo hội, như đã được nhắc đến trong những văn kiện khác.[2]
Bởi vì, vốn phát sinh từ ơn gọi làm Kitô hữu, việc tông đồ giáo dân không bao
giờ có thể khiếm khuyết trong Giáo hội. Trong những buổi đầu Giáo hội, việc
tông đồ này thật là hăng say và kết quả biết bao! Chính Thánh Kinh chứng minh
cách phong phú điều đó (x. CvTđ 11,19-21; 18,26; Rm 16,1-16; Ph 4,3).[3]
Điều đáng mừng là trong những năm gần đây,
tại Việt Nam người giáo dân được mời gọi tham gia vào nhiều sinh hoạt trong
giáo xứ... Thế nhưng, những sinh hoạt đó cũng chỉ quanh quẩn trong khuôn viên
nhà xứ như dạy giáo lý, quét sân nhà thờ, trông xe, trực văn phòng... Thiết
nghĩ cần mở rộng phạm vi và nhiều hơn nữa sang một lãnh vực quan trọng nhất
trong sứ vụ của Hội Thánh là đến với muôn dân: việc truyền giáo sẽ chẳng đi tới
đâu nếu không có sự cộng tác của người giáo dân. Nếu người giáo dân tích cực
cộng tác với hàng giáo phẩm, giáo sĩ và tu sĩ thì chắc chắn mùa gặt trong cánh
đồng truyền giáo sẽ bội thu.
3.
Đào tạo giáo dân làm tông đồ truyền giáo
Hiện nay người ta rất
ít thấy tổ chức những khoá học đào tạo tinh thần và phương pháp cho người giáo
dân truyền giáo. Một vài giáo phận đã tổ chức những khoá học về truyền giáo,
nhưng cũng chỉ là bước khởi đầu giúp người giáo dân tiếp cận với Kinh Thánh.
Các hội đoàn công giáo tiến hành ở Việt Nam cũng không thiếu, thế nhưng người
giáo dân để làm việc truyền giáo lại hiếm hoi, nếu không muốn nói là không có.
Xây một cái nhà mà cứ loay hoay làm cái mái, cái nóc mà không lo gia cố cái nền
cho chắc, thì việc trang trí ở trên mái trên nóc nhà có ích chi, sụp đổ tan
tành khi gặp gió nhỏ chứ chưa nói là bão to mưa lớn. Cái nền mà không chắc thì
nhà làm sao đứng vững được?! Việc truyền giáo là cái nền, vì đó là sứ vụ cơ bản
và ưu tiên nhất của Giáo hội. Việc cơ bản không lo làm mà lại cứ làm ba cái
việc lặt vặt đâu đâu như quét vôi, tô sơn lên tường, thử hỏi ngôi nhà Giáo hội
có vững được không? Cứ lo củng cố nội bộ trong Giáo hội, thì càng củng cố bao
nhiêu thì càng lục đục bấy nhiêu! Nội bộ lục đục thì cứ lục đục, nhưng vẫn phải
ra đi truyền giáo, khi ra đi truyền giáo rồi thì ắt mình tự tốt lên, nội bộ sẽ
được củng cố. Điều này được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II dạy, nhất là trong
thông điệp “Sứ vụ Đấng Cứu Thế”.
Chúng tôi đang thực hiện chương trình huấn
luyện tinh thần và phương pháp cho người giáo dân để họ đi truyền giáo cho anh
chị em di dân, bước đầu cho thấy là rất nhiều người hưởng ứng. Hy vọng là trong
tương lai, sẽ có nhiều tông đồ giáo dân nhiệt tình đối với sứ vụ cao trọng này
là đến với muôn dân để đem Tin mừng cứu độ cho họ.
Việc tông đồ chỉ đạt tới kết quả mỹ mãn nhờ việc huấn luyện đầy đủ và
chuyên biệt. Sở dĩ đòi hỏi phải được huấn luyện chu đáo như thế không những vì
người giáo dân phải tiến bộ liên tục về đời sống thiêng liêng và về giáo lý, mà
họ còn phải thích nghi trong khi hoạt động với những hoàn cảnh khác biệt tùy
theo thực tại, nhân sự cũng như tùy theo nhiệm vụ. Việc huấn luyện này phải dựa
trên những nền tảng đã được Thánh Công đồng đề xướng và công bố trong nhiều văn
kiện khác. Ngoài việc huấn luyện chung cho mọi tín hữu, còn phải có thêm lớp
huấn luyện chuyên biệt cho một vài đoàn thể tông đồ có nhiều đoàn viên và hoàn
cảnh khác nhau.[4]
Không chỉ dừng lại ở việc đào tạo họ làm
tông đồ nhưng Hàng Giáo Phẩm còn có bổn phận là:
Phải hỗ trợ cho hoạt
động tông đồ của giáo dân: đề ra những nguyên tắc và giúp các phương tiện
thiêng liêng. Phải phối hợp việc tông đồ của họ để sinh ích chung cho cả Giáo
hội. Hàng Giáo Phẩm cũng phải lo cho giáo thuyết và những chỉ thị của Giáo hội
được tuân hành. Có nhiều thể thức liên lạc giữa việc tông đồ giáo dân với Hàng
Giáo Phẩm tùy theo hình thức và mục tiêu của mỗi hoạt động tông đồ.[5]
4.
Thành lập những nhóm nhỏ
Không thể cỡi ngựa xem hoa hay làm khơi khơi
cho có chuyện. Cần có một hệ thống tổ chức từ cấp trên trở xuống, từ Uỷ ban
Loan báo Tin mừng trực thuộc Hội đồng Giám mục cho đến từng địa phận, dòng tu.
Nếu chỉ có chủ trương mà không có hành động thì chẳng đi đến đâu. Đức Giêsu
chọn mười hai Tông đồ, nhưng Người sai cứ hai người làm một nhóm ra đi rao
giảng. Có lẽ nên cụ thể hoá việc truyền giáo bằng những nhóm nhỏ, để thực hiện
kế hoạch và mục tiêu đã đề ra. Những nhóm nhỏ phải được hướng dẫn bởi hàng giáo
sĩ và tu sĩ. Những cộng đồng cơ bản đã xuất hiện trong thời Giáo hội sơ khai,
thì ngày nay cần được khuyến khích để những nhóm này phát huy hết những năng
lực của họ. Đức giáo hoàng Phaolô VI trong tông huấn “Loan báo Tin mừng” nêu
lên những mặt mạnh của những cộng đoàn cơ bản này; đồng thời ngài cũng mời gọi
những người hữu trách có bổn phận hỗ trợ và hướng dẫn để những nhóm nhỏ ấy
không đi lạc hướng. Giáo hội Hàn Quốc nhân rộng mô hình này để thực hiện những
mục tiêu: mỗi gia đình công giáo kết bạn với một gia đình không công giáo, mỗi
người công giáo kết thân với một người không công giáo... Kết quả cho thấy là
công cuộc truyền giáo do người giáo dân khởi xướng bằng những nhóm cơ bản rất
phát triển nơi Giáo hội tại Hàn Quốc.
5.
Phát huy những giá trị văn hoá dân tộc
Người Việt chúng ta có
truyền thống tôn trọng các giá trị gia đình, đó là nét rất gần gũi với Tin mừng;
ngoài ra còn có những đức tính khác nữa như cởi mở, chất phác, mộ đạo… đó là
những cái lợi cho việc khai tâm Kitô giáo.
Dân tộc Việt có tính liên kết rất cao, đó là
tính làng xã. Ngay tại nhiều giáo họ, giáo xứ hầu như toàn tòng có một số người
chưa biết Chúa, thế mà qua bao nhiêu năm các giáo họ, giáo xứ đó không làm cho
người ta theo đạo được lấy một người! Tính xã hội và làng xã sẽ liên kết người
ta lại với nhau trong các sinh hoạt thường ngày của làng, của xã, của giáo họ
và của giáo xứ. Các giáo xứ nên phát huy những đặc trưng văn hoá này để áp dụng
vào việc truyền giáo. Ví dụ cụ thể, mỗi một dịp lễ lớn của giáo họ hay của giáo
xứ nên mời những người ngoại đạo đó tới dự, mời tha thiết rồi đón tiếp nồng
nhiệt thì chắc chắn sẽ gây nhiều ấn tượng nơi người ta.
Chúng tôi xin trích đoạn tạm kết của tác giả
Nguyễn Văn Nội trong bài viết Truyền giáo
tại Việt Nam – Những đặc trưng của việc truyền giáo tại Việt Nam xưa và nay
để suy xét thêm:
Nếu chúng ta quan tâm đến việc duy trì và phát huy
truyền thống tốt đẹp của cha ông tổ tiên thì chúng ta sẽ quan tâm học hỏi, đào
sâu, nghiên cứu thêm về những nét đặc trưng trên để phát huy chúng trong lịch
sử hiện đại. Nếu chúng ta quan tâm đến duy trì và phát huy truyền thống tốt đẹp
của Kitô giáo các thế kỷ đầu thì chúng ta sẽ quan tâm học hỏi, đào sâu, nghiên
cứu thêm về những nét đặc trưng của các Cộng đoàn trong Công vụ Tông Đồ để phát
huy trong đời sống Giáo hội Việt Nam thế kỷ XXI. Nếu chúng ta quan tâm
đến việc thực thi Công đồng Vatican II thì chúng ta cũng sẽ quan tâm đến việc
học hỏi, đào sâu, nghiên cứu thêm về Giáo huấn của Công đồng để áp dụng chúng
vào cơ cấu và đời sống của Giáo hội Việt Nam.
Người ta có cảm tưởng là Giáo hội Công Giáo Việt Nam
không mấy quan tâm đến việc đọc lại lịch sử (ôn cố tri tân = ôn cũ biết mới) và
cũng chẳng coi trọng việc nghiên cứu hiện tại để có thể định hướng tương
lai và lên kế hoạch. Đó có thể là hệ lụy của những thập niên chiến tranh, đất
nước và lòng người phân ly. Cũng có thể là kết quả của những chính sách và biện
pháp hà khắc của nhà cầm quyền kể từ tháng 8.1945 đến nay. Đã có một linh mục
{Vì là điều tế nhị chúng tôi xin không nêu tên vị linh mục này. Nhưng ngài là
một linh mục vừa đạo đức vừa thông thái, có uy tín rất lớn trong Giáo hội} phát
biểu trong một buổi họp thu nhỏ, do Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Giám Mục Nha
Trang chủ trì (lúc đó chưa làm Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam) tại Trung
Tâm Công Giáo rằng: "Người ta có cảm tưởng là Giáo hội Việt Nam
không có tư tưởng, vì bên cạnh Hội Đồng Giám Mục không có một nhóm, một ban
nghiên cứu nào!" Vì thế mà đời sống Đạo và hoạt động Truyền Giáo hay
Loan Báo Tin mừng của Giáo hội Việt Nam không đem lại những kết quả đáng ra
phải có. Dân số Việt Nam đã vượt trên con số 80 triệu và chẳng bao xa sẽ đạt
tới con số 100 triệu! Hiện nay tỷ lệ người Công giáo trong nước mới chỉ ở
mức 6-7 %, còn xa với mức 10 % mà nhiều người ảo tưởng là đã đạt được từ mấy
năm trước đây.[6]
6.
Phối hợp và tổ chức truyền giáo
Hiện nay, để công cuộc
truyền giáo khởi sắc, thiết tưởng không thể thiếu chất men. Chỉ cần một tí men
cũng có thể làm cho cả khối bột dậy men. Giáo sĩ và tu sĩ được ví như là men để
làm cho khối bột dậy men. Họ là linh hồn của công cuộc truyền giáo. Một mục vụ
phối hợp là điều cần thiết cho Giáo hội tại Việt Nam trong thời hiện đại này.
Hiện nay hình thức phối hợp làm mục vụ thì có thấy một vài nơi, nhưng không
thường xuyên, mà chỉ tập trung một vài mảng nhỏ. Nên chăng không chỉ dừng lại ở
khía cạnh mục vụ, mà cần chuyển sang các mảng khác, nhất là lãnh vực truyền giáo.
“Một cây làm chẳng nên non...” nếu các giáo sĩ và tu sĩ mà biết phối hợp mục vụ
và truyền giáo với nhau thì hoa quả đem lại sẽ dồi dào biết
bao!
Trong mỗi giáo phận, phải hết sức
liệu sao cho có những hội đồng cố vấn gồm các giáo sĩ, tu sĩ cùng cộng tác
thích hợp với giáo dân để giúp cho hoạt động tông đồ của Giáo hội hoặc trong
việc rao truyền Phúc Âm và thánh hóa, hoặc trong các công cuộc từ thiện bác ái,
xã hội hay các hoạt động khác. Những hội đồng cố vấn này có thể giúp phối hợp
hoạt động của các hội đoàn cũng như của các công cuộc tông đồ của giáo dân đang
khi vẫn tôn trọng bản chất riêng và quyền tự trị của mỗi hội đoàn. Nếu có thể,
cũng nên thiết lập những hội đồng cố vấn như thế ở cấp độ giáo xứ, liên giáo
xứ, liên giáo phận và ngay cả trên bình diện quốc gia hay quốc tế.[7]
Việc loan báo Tin mừng cho đồng bào chưa
được đề cao, điều này được chứng minh cách cụ thể là chưa có một văn phòng
thường trực làm việc thường xuyên để phối hợp các thành phần lại với nhau trên
phạm vi toàn quốc. Văn phòng ở đây phải hiểu là văn phòng chuyên: nhân viên
chuyên nghiệp và có thẩm quyền để phối kết. Không có văn phòng này thì không
thể cân đối giữa cung và cầu trong vấn đề bác ái với việc truyền giáo... Một
cái trường cấp 1, 2 hoặc 3 nhỏ nhỏ đang còn có văn phòng làm việc thường xuyên;
còn ở đây, truyền giáo là nhiệm vụ khẩn thiết và hàng đầu trong sứ vụ của Giáo
hội mà chưa có lấy một văn phòng điều hợp làm việc thường trực, thì phải đánh
giá như thế nào đây về ý thức và cách tổ chức truyền giáo tại Việt Nam?
Tổ chức truyền giáo là một việc cần làm,
nhưng ai tổ chức đây? Chẳng lẽ mạnh ai nấy làm? Hay làm cho qua chuyện? Một sự
kiện nhỏ diễn ra, người ta đã phải họp lần này lượt khác, lên kế hoạch này kế
hoạch kia, lập tiểu ban này tiểu ban nọ; cứ thử xem cách tổ chức Lễ Khai Mạc
Năm Thánh 2010 ở Sở Kiện mà xem, có cần phải chuẩn bị không? không chuẩn bị và
không tổ chức thì lễ có diễn ra tốt đẹp được không? Sắp tới đây là Đại Hội Dân
Chúa rồi Bế Mạc Năm Thánh? còn việc truyền giáo là việc sống còn của Giáo hội
mà chẳng được tổ chức cho có thứ tự lớp lang và hệ thống thì lấy gì mà tốt
được? Truyền giáo cần được tổ chức từ vi mô đến vĩ mô, từ gia đình cho đến giáo
xứ, từ giáo xứ tới giáo hạt...
7. Định hướng truyền giáo: nên chăng?
Người ta vẫn thường nói “biết người biết
ta, trăm trận trăm thắng”. Trong tất cả các ngành nghề, làm cái gì cũng cần một
định hướng rõ rệt; học sinh phổ thông chuẩn bị bước vào đời cũng cần phải hướng
nghiệp nữa là!; những việc khác lại còn cần phải định hướng. Nếu không có một
định hướng hay kế sách lâu dài và mạch lạc, cứ vừa làm vừa sửa, vừa làm vừa rút
kinh nghiệm và vừa làm vừa phá, thì chỉ có tốn công tốn của rồi tiền mất tật
lại mang!!! Công cuộc truyền giáo cũng cần định hình về mục tiêu và chiến lược,
nếu không thì chẳng đi tới đâu! Người lo đi gieo, kẻ kia lo đi gặt, nhưng người
thu lúa không đưa lúa vào kho mà lại đổ xuống hồ xuống ao, mất tiêu hết công
sức của người gieo và người gặt. Quá trình sản xuất lúa phải đi từng bước nhịp
nhàng từ khâu xuống giống, gieo giống, chăm bón rồi thu hoạch; nếu không thì sẽ
chẳng có lúa gạo mà dùng.
Một người muốn xây nhà thì cũng phải trải
qua từng bước từ khâu chuẩn bị xa, chuẩn bị gần cho đến khâu thực hiện dự án.
Công cuộc truyền giáo cũng cần phải có một định hướng rõ ràng, như thế mới mong
có hiệu quả. Tác nhân chính trong công cuộc mở mang Nước Chúa là Chúa Thánh
Thần, nhưng không vì thế mà loại trừ sự cộng tác của con người. Vậy thì truyền
giáo tại Việt Nam có cần định hướng không? Và định hướng như thế nào? Ai là
người vạch ra định hướng, rồi ai là người thực hiện định hướng ấy?
Thay lời kết
Xin mượn lời phát biểu
của ĐHY Roger Etchegaray trong Lễ Khai Mạc Năm Thánh tại Sở Kiện để khơi gợi
lửa truyền giáo và nhắc nhở mỗi người tín hữu chúng ta ý thức về sứ mạng cao cả
đối với Dân Tộc và Giáo hội tại Việt Nam:
Trên
chính mảnh đất này, chính tại nơi đây, chúng ta phải hành động để đem lại niềm
hy vọng, như chứng tá mà Đức Giêsu đã trình bày. Hy vọng và con đường dẫn tới
hy vọng, chúng ta đã từng nói tới, từng đọc, từng viết với biết bao sức mạnh.
Không có một thiên đàng dọn sẵn ở trên Trời chờ đợi chúng ta đâu. Một xã hội
huynh đệ phải được thực hiện từng ngày với những con người tự do, những con
người khát khao công lý và tình liên đới. Đất nước Việt Nam chúng ta đã và đang
mở ra với toàn thế giới. Hôm qua, chúng ta đã cùng tham dự buổi canh thức, tôi
xin hoan nghênh và khen ngợi tất cả mọi người, nhất là các bạn trẻ đã tham dự
vào buổi canh thức đó. Xin chúc mừng, chúc mừng và vỗ tay để hoan hô chúc mừng!
Các bạn đã tỏ ra cho chúng tôi thấy rằng các bạn không muốn lớn lên như những
con người thụ động thừa hưởng, mà như những người mở rộng đôi mắt nhìn về tương
lai và mở rộng bàn tay ra để nhận trách nhiệm đối với đất nước Việt Nam và Giáo
hội Việt Nam này. Con người mà sống một mình thì thuộc thành phần bất hảo – một
nhà văn đã viết như vậy. Các bạn hãy dang rộng cánh tay, tất cả hãy mở rộng
vòng tay của mình, trong suốt Năm Thánh này, không chỉ với những tín hữu hiện
diện nơi đây nhưng với tất cả các Tu Sĩ nam nữ, các Linh Mục và tất cả các Giám
Mục nữa, tất cả phải cùng hành động trong Năm Thánh này, để Giáo hội Việt Nam
trở thành Giáo hội gần gũi với Thiên Chúa hơn, và gần gũi với mọi người hơn,
không để một ai bị loại trừ. Chúng ta có thể khác biệt về tôn giáo, về ý kiến,
về quan niệm, nhưng tất cả chúng ta đều là anh chị em với nhau và là con của
một Cha trên Trời![8]
Thiết
tưởng lời phát biểu của ĐHY Roger là một lời thôi thúc cộng đoàn Kitô hữu tại
Việt Nam suy nghĩ về hiện trạng truyền giáo tại Việt Nam, để có một định hướng
truyền giáo cho những năm sau Năm Thánh này. Hơn bao giờ hết, có lẽ sẽ khó có
dịp nào tốt hơn, Năm Thánh 2010 này là dịp để nói đến định hướng truyền giáo.
Sau khi đã có định hướng thì cần bắt tay hành động ngay để có một mùa xuân sáng
lên ánh hy vọng cho Đất Nước và con người dân Việt được rạng rỡ niềm tin vào ơn
cứu độ, một mùa gặt thu lúa về đầy kho lẫm cho Giáo hội tại quê hương này thêm
rực màu hiệp nhất và yêu thương.
[1] Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân, 9.
[2] Xc.
Vatican II, Hiến Chế tín lý về Giáo Hội,
số 33tt: AAS 57 (1965), trg 39tt. - Xem thêm Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh, số 26-40: AAS 56 (1964), trg 107-111;
xc. Sắc Lệnh về Các Phương Tiện Truyền
Thông Xã Hội: ASS 56 (1964), trg 145-153; xc. Sắc Lệnh về Hiệp Nhất: AAS 57 (1965), trg 90-107; xc. Sắc Lệnh về Nhiệm Vụ Mục Vụ của các Giám Mục
trong Giáo Hội, số 16, 17, 18; xc. Tuyên
Ngôn về Giáo Dục Kitô Giáo, số 3, 5, 7.
[2]
Vatican II, Apostatem Actuotatem, 1.
[3] Vatican
II, Apostatem Actuotatem, 1.
[4] Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân, 28.
[5] Ibid., 24.
[6] Giêrônimô
Nguyễn Văn Nội, Truyền giáo tại Việt Nam
– Những đặc trưng của việc truyền giáo tại Việt Nam xưa và nay; truy cập
ngày 15.12.2009, http://xuanbichvietnam.wordpress.com
/2008/ 11/20/truyen-giao-tai-
viet-nam/.
[7] Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân, 26.
[8] Bài phát biểu của ĐHY Roger Etchegaray trong Lễ Khai Mạc Năm Thánh tại Sở
Kiện 24.11.2009; truy cập ngày 15.12.2009, http://huongvedai
hoidanchua.net/tiengnoimuctu/3416.html.
Đăng nhận xét