Chúng ta có thể trở nên người có lòng thương xót
như Cha chúng ta trên trời, học yêu thương
như Chúa yêu thương chúng ta và biến cuộc sống chúng ta
trở thành một món quà nhưng không,
dấu chỉ lòng nhân lành của Người.[1]
như Cha chúng ta trên trời, học yêu thương
như Chúa yêu thương chúng ta và biến cuộc sống chúng ta
trở thành một món quà nhưng không,
dấu chỉ lòng nhân lành của Người.[1]
Pet.
Võ Tá Đương, OP.
Trong bầu khí thánh thiêng Giáo hội
chuẩn bị mừng đại lễ Giáng sinh, chúng ta cùng suy gẫm và chiêm ngắm mầu nhiệm
Con Thiên Chúa làm người, mầu nhiệm phản ảnh rõ nét nhất về tình yêu bao la và
lòng thương xót vô biên Thiên Chúa dành cho nhân loại. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của
Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.”[2]
Thiên Chúa muốn trao ban cho trần gian chính Người Con duy nhất của Người. Vì
yêu tình yêu cao cả, Con Thiên Chúa đã “hoàn
toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người
trần thế.”[3] Vì
lòng thương xót vô biên, Con Thiên Chúa đã làm người và đi vào giữa lòng nhân
loại, để thông ban sự sống thần linh cho con
người, để làm nhịp cầu nối kết con người với Thiên Chúa, và con người với nhau.
Thật
vậy, Thiên Chúa muốn bày tỏ tình yêu diệu kỳ và lòng thương xót đến cùng của
Người cho con người qua mầu nhiệm Nhập thể và nhập thế của Ngôi Hai Thiên Chúa.
Lòng
thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ một cách cao cả và trọn vẹn nhất nơi Ngôi
Lời Nhập Thể. Đức Giêsu mặc khải khuôn mặt của Chúa Cha, Đấng giàu lòng thương
xót; Người “dùng các kiểu so sánh và các dụ ngôn để nói và cắt nghĩa về lòng
thương xót, nhưng trên hết chính Người làm cho lòng thương xót trở thành nhập
thể và nhân cách hoá.”[4]
Trước
tình yêu nhiệm mầu mà Thiên Chúa dành cho nhân loại, chúng ta được mời gọi
chiêm ngắm và sống mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập thể trong đời sống chúng ta; để rồi
cùng với Ngôi Lời Thiên Chúa, chúng ta cùng “nhập thế” vào giữa lòng đời, trở
nên chứng nhân Tin Mừng cứu độ, trở thành sứ giả Lòng Thương Xót của Thiên Chúa
trong môi trường sống của mình.
Chiêm Ngắm Ngôi Lời Nhập Thể
Trong
lời tựa của Tin Mừng thứ tư, thánh sử Gioan khẳng định thật rõ ràng về mầu
nhiệm Nhập Thể: “Ngôi Lời đã trở nên người
phàm và cư ngụ giữa chúng ta.”[5] Ngôi
Lời Thiên Chúa đã mặc lấy thân xác con người, chung chia trọn vẹn kiếp người
như chúng ta với tất cả mọi yếu đuối nơi bản tính
nhân loại, ngoại trừ tội lỗi. Người đã nếm trải thử thách, thương đau trong
cuộc sống nhân sinh, để có thể cứu giúp những ai đang chịu thử thách, truân
chuyên của cuộc đời.[6]
Ngôi Lời
Thiên Chúa Nhập Thể làm người không phải là một con người trừu tượng như định
nghĩa của triết gia Blaise Pascal: “Con
người là cây sậy biết suy nghĩ”, nhưng là một con người cụ thể, liên đới
với mọi thực tại của cuộc sống trên bình diện cá nhân, gia đình và xã hội;
không một thực tại nào trong cuộc sống mà lại xa lạ đối với Người, và chính
Người nhận lấy nó như thành phần của mình. Điều này Thánh Công đồng quả quyết:
Con
Thiên Chúa liên kết với tất cả mọi người. Người đã làm việc bằng đôi tay con người,
đã nghĩ ngợi bằng khối óc con người, đã hành động bằng ý chí con người, đã yêu
bằng trái tim con người. Người được hạ sinh bởi Đức Nữ Trinh Maria, Người đã là
một người thực sự giữa chúng ta, Người đã giống chúng ta mọi đàng chỉ trừ tội lỗi.[7]
Chiêm
ngắm mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể là chiêm ngắm tình yêu bao la Thiên Chúa dành
cho ta qua Con yêu dấu của Người, Đấng Emmanuel, Đấng đến để giải thoát loài
người khỏi tội lỗi và sự chết, hầu dẫn đưa ta đến sự sống viên mãn của Thiên
Chúa. Nhờ mầu nhiệm Nhập thể, con người được giao hoà với Thiên Chúa, và mọi
người trong thế giới được giao hoà với nhau trong tình huynh đệ chân thành. Đó
là hồng ân lớn lao, là lòng thương xót hải hà mà Thiên Chúa trao ban cho con
người.
Chiêm
ngắm Ngôi Lời Nhập Thể, chúng ta cảm nhận sâu xa hơn về tình yêu và lòng thương
xót mà Thiên Chúa dành cho ta. Một tình yêu cao siêu, vượt trên mọi tình yêu.
Tình yêu đó đã khiến một vị Thiên Chúa quyền uy, cao sang, đã chấp nhận bước
vào cuộc đời này trong thân phận một con người bé nhỏ, khó nghèo, đến nỗi không
thể thấp bé, khó nghèo hơn được nữa,[8] để
cảm thông, chia sẻ với tất cả mọi người trong mọi thời đại. Đặc biệt, Người
đứng về phía những người “thấp cổ, bé miệng”, những kẻ cô thế, cô thân, những
con người bị gạt ra bên lề xã hội, những ai đang khổ đau vì tình yêu bị phản
bội, khổ đau vì bị con cái hắt hủi… Tất cả họ là đối tượng của Lòng Thương Xót,
tất cả đều được mời gọi đến với Ngôi Lời Nhập Thể, để được vỗ về an ủi, để được
bổ dương và tiếp thêm sức mạnh.[9]
Quả thế,
Nơi
Đức Giêsu Nagiarét, lòng thương xót đã trở nên sống động, hữu hình, và đạt đến
tột đỉnh…. Khi mọi sự đã được sắp xếp đúng theo dự định cứu độ, Thiên Chúa sai Người Con duy nhất của Người đến thế
gian, được sinh ra bởi Trinh Nữ Maria, để mặc khải cho chúng ta biết trọn vẹn
tình yêu của Người. Ai thấy Đức Giêsu là thấy Cha (x. Ga 14,9). Đức Giêsu
Nagiarét đã mặc khải lòng thương xót của Thiên Chúa bằng lời nói, hành động và
bằng cả bản thân Người.[10]
Chiêm
ngắm Ngôi Lời Nhập Thể, chúng ta được mời gọi tái khám phá niềm vui được làm
Con Chúa trong lòng Giáo hội, niềm vui bước theo Chúa Kitô trong hành trình đức
tin, cách riêng trong đời sống Thánh hiến. Vì chưng, biến cố Nhập Thể và nhập thế
của Ngôi Lời là dấu chỉ bình an và niềm vui cho toàn thế giới;[11]
thì cũng đem lại sự bình an, niềm vui, niềm hy vọng và ơn cứu độ cho tất cả
những ai tin vào Thiên Chúa, đặc biệt cho những ai dấn bước theo Người trong
đời sống Thánh hiến. Bởi lẽ,
Việc
tái chiêm ngưỡng mầu nhiệm Lòng Thương Xót này vẫn luôn là điều có giá trị. Mầu
nhiệm này chính là nguồn cội của niềm vui, của sự thanh thản và bình an. Đây là
suối nguồn tươi vui, tĩnh lặng và an bình. Đây là điều kiện để chúng ta lãnh
nhận ơn cứu độ.[12]
Chiêm
ngắm Ngôi Lời Nhập Thể trong thân phận một trẻ thơ bé nhỏ, trong sự vâng phục
Thiên Ý, chúng ta tái khám phá niềm vui của đời sống Thánh hiến qua lời khấn
“Vâng phục”, nhiệt thành sống theo ý Chúa, can đảm từ bỏ ý riêng, với những ích
kỷ nhỏ nhoi trong cuộc sống thường ngày, để làm nên của lễ sống động dâng tiến
Thiên Chúa.
Chiêm
ngắm Ngôi Lời Nhập Thể trong hình hài một trẻ đặt nằm trong máng cỏ, khó nghèo,
các tu sĩ chúng ta tái khám phá niềm vui bước theo Chúa Kitô qua lời khấn
“Thanh bần” theo gương Đấng Cứu Thế, sống phận nghèo đến nỗi “không có chỗ tựa
đầu”,[13] để
yêu thương, đồng cảm và sẻ chia với những người nghèo, để bảo vệ công lý và hòa
bình; để xây dựng nền văn minh tình thương và sự sống, để giúp mọi người sống
xứng với phẩm giá con người và con Thiên Chúa.
Chiêm
ngắm Ngôi Lời Nhập Thể với hình hài một trẻ thơ trong trắng, xinh xắn, chúng ta
tái khám phá niềm vui bước theo Chúa Kitô qua lời khấn “Thanh khiết”, để trở
nên của lễ sống động, thánh thiện, tinh tuyền và đẹp lòng Thiên Chúa và để phụng
sự Người.[14]
Như thế,
khi chiêm ngắm Ngôi Lời Nhập Thể, chúng ta sẽ cảm nhận được tình yêu bao la và
lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Vả lại, chiêm ngắm
“Dung mạo Lòng Thương xót của Thiên Chúa, chúng ta được gọi mời sống và thực
thi lòng thương xót trong cuộc sống thường ngày. Hơn nữa, khi chiêm ngắm Ngôi
Lời Nhập Thể, các tu sĩ sẽ được thu hút bởi vẻ đẹp của tình yêu Thiên Chúa; họ
mê say chiêm ngưỡng Chúa, để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Người,[15]
và đồng thời cố gắng tu bổ hình ảnh Thiên Chúa đã méo mó trên khuôn mặt của anh
chị em đồng loại.[16]
Sống Mầu Nhiệm Nhập Thể Giữa Dòng
Đời
Qua mầu
nhiệm Nhập Thể và nhập thế, Thiên Chúa đã đi vào giữa lòng nhân loại, sống giữa
dòng đời trong thân phận một con người. Người nhận lấy tất cả mọi ưu tư, muộn
phiền, cùng với bao niềm vui, nỗi buồn của kiếp người,[17]
để tỏ bày tình yêu và lòng thương xót
của Thiên Chúa cho con người, để cảm thông, chia sẻ, cứu độ và giải thoát con
người khỏi mọi hệ lụy của tội lỗi, nhằm dẫn đưa con người đến cùng Thiên Chúa
trong hạnh phúc viên mãn. Theo cách diễn giải của thánh Irênê thì, “Thiên Chúa đã làm người để con người được
trở thành Thiên Chúa.”
Thật
vậy, Con Thiên Chúa làm người và sống trọn kiếp người, đã làm cho cuộc đời con
người có ý nghĩa. Vả lại, mầu nhiệm Nhập thể và nhập thế của Ngôi Lời, đã trở
nên khuôn mẫu cho ta về ơn gọi làm người và làm con Thiên Chúa. Mầu nhiệm đó
mời gọi chúng ta “đi vào giữa lòng thế giới” với tất cả nỗi niềm của con người
thời đại:
Vui
mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người
nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của
các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo
âm hưởng trong lòng họ.[18]
Hai ngàn
năm trước, Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể và nhập thế để cho con người được
sống và sống dồi dào.[19]
Người đã chạnh lòng trắc ẩn trước mọi khổ đau của con người, đã thi ân giáng
phúc, cứu giúp mọi người, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền cho dân chúng.[20]
Trong suốt hai ngàn năm nay, Ngôi Lời Thiên Chúa vẫn tiếp tục “nhập thể” trong
trần gian để thi ân giáng phúc cho trần gian. Ngày hôm nay, mỗi chúng ta cũng
được mời gọi trở những thành “cánh tay nối dài” của Chúa Giêsu, để có thể chăm
sóc, chữa lành, xoa dịu phần nào nỗi khổ đau thể xác lẫn tinh thần của nhân
thế, của anh chị em đồng loại.
Tất cả chúng ta được mời gọi ‘đi ra’ như những môn đệ
truyền giáo, mỗi người quảng đại cống hiến tài năng, tính sáng tạo, sự khôn
ngoan và kinh nghiệm của mình để đem sứ điệp tình thương dịu hiền của Thiên
Chúa đến cho toàn thể gia đình nhân loại… Điều này lại càng cần thiết khi chúng
ta nghĩ đến biết bao cảnh bất công, chiến tranh và khủng hoảng nhân đạo vẫn còn
đang cần được giải quyết. Từ kinh nghiệm, các nhà truyền giáo biết rằng Tin
Mừng của sự tha thứ và lòng thương xót có thể đem lại niềm vui và sự hoà giải,
công lý và hoà bình.[21]
Vì lẽ
đó, mỗi chúng ta, dù ở vai trò, địa vị nào, tất cả đều được mời gọi “lên đường”
vâng theo tiếng gọi của Chúa, đi ra khỏi vùng đất tiện nghi của mình để đến với
mọi vùng “ngoại vi” đang cần ánh sáng Tin Mừng.[22]
Theo lời mời gọi của Chúa qua sự hướng dẫn và thúc bách của vị Cha Chung của Giáo
hội, mỗi Kitô hữu, cách riêng là mỗi tu sĩ chúng ta hãy hăng hái “lên đường”,
đến với mọi môi trường chúng ta “được sai
đi” thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng, theo linh đạo và đặc sủng của mỗi Hội
dòng; để ánh sáng Tin Mừng và Lòng Chúa
Thương Xót được chiếu tỏa vào mọi ngõ ngách của cuộc sống, trên mọi miền đất
nước và trên khắp thế giới.
Sống
Mầu Nhiệm Nhập Thể
Trong Lòng Dân Tộc Việt Nam
Trong Lòng Dân Tộc Việt Nam
Ngôi Lời
Thiên Chúa đã Nhập thể và nhập thế trong một đất nước, một dân tộc, một gia
đình có dòng họ cụ thể với những phong tục,
tập quán của quê hương dân tộc Người đã chọn.[23]
Qua cuộc sống, Ngôi Lời Thiên Chúa đã đồng hóa với người dân làng Nagiarét, để
chia sẻ phận người với họ, để giảng dạy và thông truyền ơn cứu độ cho họ.
Mỗi
chúng ta cũng được sinh và lớn lên trên mảnh đất quê hương mình. Với việc trở
nên “đồng hình đồng dạng” với Chúa Kitô, chúng ta được mời gọi phải gắn bó với
vận mạng quê hương, noi theo truyền thống dân tộc, hoà mình vào cuộc sống hiện
tại của đất nước, cùng chia sẻ một sinh mạng với dân tộc mình, vì quê hương này
là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời gọi để sống làm con của Người, đất nước này
là lòng mẹ cưu mang chúng ta trong quá trình thực hiện ơn gọi làm con Thiên
Chúa, dân tộc này là cộng đồng mà Thiên Chúa đã trao cho chúng ta để phục vụ
với tính cách vừa là công dân vừa là thành phần Dân Chúa.[24]
Là những
người con sống trong dãi đất mang hình chữ S, trước những dao động của đất nước
ngày nay, chúng ta được mời gọi dấn thân phục vụ, cảm thông, chia sẻ “vui mừng
và hi vọng, ưu sầu và lo lắng” với người dân Việt Nam chúng ta trong bối cảnh
xã hội hiện tại. Nhìn vào tình hình đất nước hiện nay, bên cạnh những thành tựu
đã đạt được, chúng ta không thể không có những băn khoăn, lo lắng trước những
biến động xã hội của nước nhà. Ấy là tình hình đạo đức xuống cấp nghiêm trọng;
các giá trị luân lý bị coi thường; tội ác gia tăng không những về số lượng mà
cả về mức độ dã man, phá thai và nghiện ngập tràn lan, nhất là nơi giới trẻ…
Không
những thế, sự hoành hành của tệ nạn tham nhũng lan tràn, vốn từ lâu đã được coi
là quốc nạn nhưng đến nay vẫn không hề suy giảm! Hơn nữa, tình trạng ngập mặn ở
đồng bằng sông Cửu Long, hạn hán tại các tỉnh Tây nguyên đã đến mức báo động
khẩn thiết; thảm hoạ môi trường biển tại miền Trung, thiên tai, lũ lụt đã và
đang gây ra biết bao tang thương, khổ đau mà đồng bào miền Trung chúng ta đang
phải oằn mình gánh chịu.
Bên cạnh
đó là mối đe doạ hằng ngày từ các thực phẩm bẩn và độc hại, có thể có ngay
trong các quầy hàng và trên bàn ăn của mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn chúng ta.[25]
Phải chăng, đó là tình trạng thảm thê của đất nước mà chúng ta đang chung sống.
Có lẽ chưa bao giờ bức tranh toàn cảnh của đất nước và con người Việt Nam chúng
ta có quá gam màu tối xám đến thế!
Trước
bối cảnh xã hội Việt Nam như thế, chúng ta được mời gọi “nhập thế” vào trong
lòng dân tộc Việt Nam, góp phần vào việc lành mạnh hoá xã hội bằng những chọn lựa
và hành động nhỏ bé trong công việc và trách nhiệm hằng ngày của mình, cá nhân
cũng như gia đình và cộng đoàn. Trong tình yêu của Chúa, chúng ta được mời gọi
hãy can đảm sống theo lương tâm ngay thẳng giữa những cám dỗ và thách đố thời đại;
trở thành khí cụ bình an của Chúa trong mọi hoàn cảnh sống, trở nên men muối ướp
mặn xã hôi Việt Nam, làm cho nền văn minh
tình thương và văn hoá sự sống thay cho lối sống mang nặng hận thù và chết
chóc; hầu góp xây dựng xã hội Việt Nam công bằng, dân chủ trong công lý và hòa
bình, trên nền tảng văn minh và tình thương.[26]
Đó
cũng là cách cụ thể để chúng ta kéo dài tinh thần của Năm Thánh Lòng Chúa
Thương xót, và thực thi lời gọi mời của Đức Thánh Cha Phanxicô “can đảm đi đến tất cả những vùng ngoại vi,
là những người cần ánh sáng của Tin Mừng của Lòng Chúa Thương xót.”[27]
Kết
luận
Để kết thúc, người viết xin trích
lại lời giáo huấn của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, viết về Lòng Thương Xót
của Thiên Chúa:
Trong Đức Kitô và
nhờ Đức Kitô, Thiên Chúa trở nên hữu hình trong lòng thương xót của Ngài, nghĩa
là làm nổi bật ưu phẩm của Ngài, ưu phẩm mà trong Cựu Ước qua nhiều hạn từ và
khái niệm khác nhau đã từng xác định như ‘lòng thương xót’. Đức Kitô trao ý
nghĩa chung cuộc cho toàn thể truyền thống Cựu Ước về lòng thương xót của Thiên
chúa. Chẳng những Người nói và giảng giải về lòng thương xót bằng những hình
ảnh và những dụ ngôn, mà còn làm cho lòng thương xót này nhập thể và nhân cách
hoá nó. Theo một nghĩa nào đó, Người chính là lòng thương xót. Đối với những ai
thấy và tìm ra được lòng thương xót đó nơi Người, Thiên Chúa trở nên ‘hữu hình’
như là Chúa Cha ‘giàu lòng thương xót.’[28]
Đã bao mùa Giáng sinh đến rồi đi,
đã bao lần chúng ta long trọng cử hành đại lễ Giáng sinh, nhưng đã khi nào
chúng ta để cho mầu nhiệm Giáng sinh, mầu nhiệm của Lòng Thương Xót “nhập thể”
một cách trọn vẹn và đích thực trong tâm hồn, trong cuộc sống chúng ta ? Chúng
ta đã chiếu tỏa và làm cho mầu nhiệm Giáng sinh của Ngôi Lời lan tỏa trong tâm
hồn người thế, giữa dòng đời, trong môi trường sống của chúng ta. Hơn bao giờ
hết, Giáng sinh năm nay, là thời gian thuận tiện để mỗi người, mỗi cộng đoàn và
toàn thể chúng ta suy gẫm và chiêm ngắm mầu nhiệm Lòng Thương Xót một cách sâu
xa và sống mầu nhiệm Nhập Thể một cách cụ thể trong đời sống chúng ta. Để qua
đó, chúng ta trở nên dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, trở nên sứ giả lòng
thương xót của Chúa cho con người thời đại, để niềm vui, sự bình an và ơn cứu
độ của Thiên Chúa được lan tỏa tới mọi người, trên toàn thế giới. Như thế,
Chúng ta có thể trở nên người có lòng thương xót như Cha chúng ta trên
trời, học yêu thương như Chúa yêu thương chúng ta và biến cuộc sống chúng ta
trở thành một món quà nhưng không, dấu chỉ lòng nhân lành của Người.[29]
[1] Th.
Gioan Phaolô II, Thông Điệp Thiên Chúa
Giàu Lòng Xót Thương, I,2.
[2] Ga 3, 16.
[3] Pl 2, 7.
[4] Th. Gioan Phaolô II,
Thông Điệp Thiên Chúa Giàu Lòng Xót
Thương, số 2.
[5] Ga 1, 14.
[6] Xc. Hr 2, 17
-18.
[7] Vat. II, Hiến
chế Gaudium et spes, số 22.
[8] Xc. 2 Cr 8,
9.
[9] Xc. Mt 11, 28
-30.
[10] ĐTC Phanxicô,
Tông sắc Misericordiae Vultus, số 01.
[11] Xc. Lc 2, 10-
12.
[12] ĐTC Phanxicô,
Tông sắc Misericordiae Vultus, số 02.
[13] Xc. Mt 8, 20.
[14] Xc. Rm 12,
1-2.
[15] Xc. Thánh
Gioan Phaolô II, Tông Huấn Vita
Consecrata Số 27.
[16] Xc. Ibid., Số
75.
[17] Xc. Hr 2, 17;
Pl 2, 6- 8.
[18] Vat. II, Hiến
chế Gaudium et spes, số 01.
[19] Xc. Ga 10,
10.
[20] Xc. Mt 14,
14; Mc 3, 10; Lc 6, 18-19; …
[21] ĐTC Phanxicô,
Sứ điệp Truyền Giáo năm 2016.
[22] Xc. ĐTC Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium, số 20.
[23] Xc. Mt , 1-
25; Mc 3, 20-22; Lc 4, 16 -30.
[24] Xc. Thư Chung 1980 của Hội đồng Giám mục Việt
Nam, gửi toàn thể linh mục, tu sĩ và giáo dân cả nước, số 09.
[25] Xc. Thư Chung của Hội đồng Giám mục Việt Nam gửi
Cộng đoàn Dân Chúa, tháng 10/2016, số 02.
[26] Xc.
Ibid., số 03.
[27] Đức Thánh Cha
Phanxicô, Tông Huấn Evangelii Gaudium , số
20.
[28] Th. Gioan Phaolô II, Thông Điệp Thiên Chúa Giàu Lòng Xót Thương, I,2.
Đăng nhận xét