Thiên Chúa, Đấng Xót Thương
đã đến ở với con nguời, phục vụ con người
và cứu rỗi toàn cõi nhân sinh.
Ngôi Hai Thiên Chúa vẫn đang nhập thể và nhập thế mỗi ngày không chỉ nơi bàn tiệc Thánh Thể
mà còn nơi những những người nghèo đói,
đau khổ, bị hắt hủi, bị bỏ rơi.
đã đến ở với con nguời, phục vụ con người
và cứu rỗi toàn cõi nhân sinh.
Ngôi Hai Thiên Chúa vẫn đang nhập thể và nhập thế mỗi ngày không chỉ nơi bàn tiệc Thánh Thể
mà còn nơi những những người nghèo đói,
đau khổ, bị hắt hủi, bị bỏ rơi.
Trúc Bạch, OP.
Sách Sáng Thế kể lại việc Thiên Chúa
sáng tạo vũ trụ, rồi tạo ra con người, cho sống trong tình nghĩa thiết với
Ngài, lại còn đặt con người làm bá chủ muôn loài. Mặc dầu vậy, con người đã
nghe theo lời ma quỷ xúi giục, dùng chính tự do mà Thiên Chúa ban để làm mất ân
sủng và bị trừng phạt. Tuy nhiên, Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót đã
không bỏ rơi con người trong đau khổ tội lỗi mà vẫn yêu thương và thực hiện
chương trình cứu rỗi con người. Để thực hiện điều đó, Ngài đã chọn Apraham để
tạo ra một dân riêng – dân Israel. Mặc dù dân Israel đã nhiều lần bội phản làm
mất lòng Chúa, nhưng Ngài vẫn xót thương, sai các ngôn sứ đến kêu gọi dân trở
về. Lòng thương xót của Thiên Chúa không chỉ
dừng lại ở đó, nhưng khi lịch sử cứu độ đến thời viên mãn “Thiên Chúa đã sai
Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà”(x.Gl 4,4), làm người như mọi
người, học cách làm người để dạy cho con người bài học làm con Thiên Chúa.
1. Đấng Xót Thương đã đến và hiện diện giữa chúng ta
Thiên Chúa đã đến ở với ta. Thánh
sử Matthêu viết: “Tất cả những sự việc này xẩy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán
qua miệng ngôn sứ: Này đây Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người
ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-el, nghĩa là ‘Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta’”
(Mt 1, 23). Có lẽ, chúng ta sẽ không bao giờ biết thật sự Thiên Chúa là một vị
Thiên Chúa Xót Thương khi ta không cảm được rằng Ngài đã “trở nên người phàm và
cư ngụ giữa chúng ta” (x. Ga 1,14). Theo văn phong của người Do Thái, cụm từ
“xác phàm” ám chỉ đến con người cách trọn vẹn, nghĩa là con người toàn thể,
đúng với thân phận nghèo hèn và chóng qua. Trong đêm cực thánh, Ngôi Hai
Thiên Chúa đã mặc lấy “xác phàm” nghèo hèn, và ngự đến không phải trong một lâu
đài mà trong một chuồng súc vật và sống giữa chúng ta. Lòng Thương Xót chấp
nhận bước vào cuộc đời này trong một thân phận không thể thấp hèn hơn được nữa,
để những ai trong dù nghèo khó đến mức không có một mái nhà, dù khổ đau vì bị
hắt hủi, thì nhìn vào hang đá vẫn cảm thấy trong cuộc đời này có ai đó cũng như
mình; có ai đó cũng đồng cảm và thông cảm được với mình… Qua Chúa Giêsu, ta
thấy được ý nghĩa của lòng thương xót: không phải là từ kẻ trên cúi xuống kẻ
dưới, không phải là thái độ thương hại của kẻ giàu sang đối với những kẻ thấp
hèn, nhưng là đi thẳng đến chỗ những người đang đau khổ thê thảm nhất và hiện
diện giữa họ.
Ngày nay, những sách tâm lý thực
hành đang thu hút đông đảo độc giả, đặc biệt là giới trẻ. Theo đó, người ta có
nhiều phương pháp tâm lý, nhiều kỹ thuật để tác động lên thái độ con người,
giúp con người vượt qua những khoảnh khắc khó khăn và đau khổ trong cuộc sống.
Tuy nhiên, dường như người ta lại lãng quên một điều đơn giản để giúp đỡ người
đang đau khổ đó là “hiện diện với họ” - hiện diện như một sự khích lệ, như một
sự chia sẻ niềm vui và động viên lúc gian nan khốn khó. Ta thử đặt câu hỏi: khi
nào một người đang đau khổ nhận được một sự an ủi thật sự? Có phải là ai đó cho
họ một lời an ủi, một lời dạy dỗ, một lời hứa nào đó cho một hy vọng, hay một
phương pháp tâm lý nào đó…. Có thể là thế nhưng chưa đủ. Có lẽ khi con người
đang ở trong đau khổ tột cùng, lúc cô đơn, thì có một ai đó ở với người đó có
lẽ mới thật là ý nghĩa. Ngày nay ở xã hội Việt Nam, đặc biệt là ở đô thị, nhiều
gia đình đổ vỡ bởi vì vợ chồng quá chú tâm vào công việc mà ít dành thời gian
cho nhau; nhiều trẻ vị thành niên bị trầm cảm, tự tử hoặc đi vào con đường lầm
lỡ, tội phạm chỉ vì cha mẹ không dành nhiều thời gian để ở bên và đồng hành
cùng chúng. Trường hợp trong cộng đoàn tu trì cũng vậy. Khi có những anh chị em
trong Dòng tu gặp khủng hoảng, hay khó khăn nào đó, và lương tâm đánh động
chúng ta phải tìm gặp người anh chị em đó, thế nhưng ta lại thường tự hỏi: “Tôi
biết gì làm để giúp anh/ chị ấy bây giờ? Tôi sợ sẽ làm người ta rối hơn!”.
Trong khi đó, ta lại quên mất rằng chỉ cần hiện diện cách khiêm tốn thôi, thì
người anh chị em của chúng ta cũng đã cảm thấy được ủi an, nâng đỡ…
Chúa Giêsu đã khước từ địa vị uy
quyền, mặc lấy sự lệ thuộc hoàn toàn và phải gánh chịu những sợ hãi, những sự
bất ổn của kiếp người để hiện diện với con người. Thiên Chúa đến ở với con
người, điều đó không có nghĩa là Chúa lấy đi những đau khổ, nhưng là muốn sẻ
chia những khốn khó của cõi nhân sinh. Thiên Chúa không thay con người giải
quyết hết các vấn đề, nhưng chỉ cho chúng ta con đường thoát khỏi khó khăn;
Ngài cùng đi với chúng ta, cùng gánh vác những vấn nạn của ta. Và, lòng thương
xót của Thiên Chúa mang lại cho ta một lời nhắc nhở và mời gọi: hãy hiện diện
với nhau, hãy xích lại gần nhau như Thiên Chúa đã gần gũi con người.
2. Đấng
Xót Thương đến để phục vụ con người
Trong khi người ta thì luôn cố gắng
vươn lên để thành đạt, thậm chí có thể dùng thủ đoạn, hãm hại nhau, giết chết
nhau để có một cuộc sống tốt hơn, nhiều tiền hơn, địa vị cao hơn, thì Chúa
Giêsu lại làm ngược lại, như nhà thần học Karl Barth nói: “đi từ cao xuống
thấp, từ chiến thắng đến thất bại, từ giàu đến nghèo, từ huy hoàng đến khổ đau,
từ sống đến chết”[1]. Một vị
Thiên Chúa đã tự nguyện huỷ mình ra không, mang thân phận tôi đòi, chấp nhận
trở thành một tôi tớ: “Đức Giê-su Ki-tô
vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng
với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở
nên giống phàm nhân, sống như người trần thế”
(Pl 2, 6-7).
(Pl 2, 6-7).
Và nếu như thánh Phaolô mô tả cách
chung chung, thì thánh Gioan vẽ lại Đấng Xót Thương bằng những hình ảnh và cử
chỉ rất cụ thể: Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, Ðấng được Chúa Cha trao ban mọi sự,
đã cởi áo mình ra, thắt dây lưng, rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13, 1 -11).
Rửa chân là một cách thâu tóm tất cả ý nghĩa cuộc đời của Chúa: từ đầu đến cuối
là một sự rửa chân, một cuộc đời phục vụ con người; một cuộc đời dâng hiến, sẵn
sàng chịu thiệt thòi về phần mình, đánh mất chính mình vì hạnh phúc của kẻ
khác; một cuộc đời trở thành như “tấm bánh” bẻ ra cho muôn người được no lòng.
Một đề tài được diễn tả xuyên suốt các sách Tin mừng là: “Ðức Giêsu là Chúa, là thầy và cũng là tôi tớ của Thiên Chúa và của con
người”. Ngài đã nhận lấy sứ mạng của người Tôi Tớ Giavê làm sứ mạng của
mình. Ngài đã tự mình trở thành một “nô lệ” để kéo con người lên khỏi kiếp nô
lệ.
Ngày nay, hai chữ “phục vụ”cũng
thường được người ta hay nhắc đến. Một người bán hàng vẫn thường cho là mình
phục vụ khách hàng và coi “khách hàng như thượng đế”. Một anh công an giao
thông cũng có thể vỗ ngực nói rằng mình đang “phục vụ nhân dân”, mặc dù người
dân lưu thông trên đường mà nhác thấy bóng dáng của anh cũng đã cảm thấy bất an
lo lắng. Một cách chung chung, ngày nay, phục vụ thường được như là việc người
ta thực hiện chức năng nghề nghiệp của mình cho xã hội. Như vậy, “phục vụ” có ý
nghĩa tự thân không tốt cũng không xấu; đôi khi, nó còn có thể là một hành vi
tiêu cực nếu phải phục vụ vì sợ hãi, vì bị ép buộc. Từ “phục vụ” theo Tin mừng
mang ý nghĩa rất khác, khác ở những lý do đưa đến phục vụ và tâm tình, thái độ
phục vụ. Mở đầu trình thuật về việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ, thánh
Gioan đã viết về tâm tình của Chúa: “Người
vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ
đến cùng” (x. Ga 13,1). Phục vụ không phải là một nhân đức, nhưng bắt nguồn
từ nhân đức - Đức mến. Phục vụ là yêu không phải nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng
là yêu thương cách chân thành và thể hiện ra bằng việc làm (x.1Ga 3,18), một
cách diễn tả cụ thể của lòng thương xót. Trong Tin mừng Luca, chúng ta còn được
nghe Chúa Giêsu răn dạy các môn đệ: “Giữa
người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà
Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22,27). Theo
trình thuật, Chúa nói câu này lúc các môn đệ đang tranh luận với nhau xem ai là
người lớn nhất trong nhóm, và ắt hẳn là Chúa đã rửa chân cho các công để dạy
cho các ông một bài học về yêu thương: yêu thương là khiêm tốn, trở nên người rốt
hết để phục vụ mọi người.
Như vậy, Chúa Giêsu đã coi sự phục
vụ như một luật nền tảng, một gương mẫu cho mọi mối tương giao, khi dạy các môn
đệ làm như mình đã làm: “Nếu thầy là
Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho
nhau” (Ga 13,14). Người môn đệ theo
Chúa luôn được mời gọi phục vụ Chúa, phục vụ anh chị em mình, bằng chính tinh
thần và tâm tình đã thúc đẩy Chúa phục vụ: "Anh em hãy có những tâm tình như
chính Ðức Kitô Giêsu" (Pl
2,5); “Anh em hãy lấy đức khiêm
nhường mà đối xử với nhau”
(1 Pr 5,5).
(1 Pr 5,5).
3. Đấng
Xót Thương đến để cứu rỗi con người
Khi nhắc đến
tình yêu, người ta có nhiều định nghĩa và có nhiều cách hiểu khác nhau. Nhưng,
có một hệ quả chung của tình yêu mà người ta dễ nhận thấy đó là: ta vui khi
người ta yêu được hạnh phúc, ta phiền muộn khi người ta quý mến đau khổ, hay
gặp điều chẳng lành; và ta luôn muốn làm điều tốt nhất cho người mình yêu để họ
được hạnh phúc.
Như người cha mẹ thương xót con
mình, đã cúi xuống ôm lấy đứa con bị ngã, xức thuốc vào vết thương của nó, rồi
giúp nó trỗi dậy, Thiên Chúa đã trở nên người phàm trong Đức Giêsu để cứu rỗi
con người, làm điều mà con người tự mình không thể làm được vì mang đầy tội
lỗi. Lòng thương xót đã thôi thúc Ngôi Hai Thiên Chúa cởi bỏ vinh quang vốn có,
để sinh ra sống giữa thế gian và chịu chết vì con người. Ngài đã không cứu độ
con người bằng quyền lực trấn áp sự dữ, nhưng Ngài chọn con đường “Thập giá”,
để chia sẻ thân phận yếu hèn của con người, để đưa con người lên địa vị làm con
Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Ngài đến thế gian không như một quan tòa
đáng sợ nhưng là một người cha nhân từ, hay động lòng trắc ẩn với những khổ đau
của con cái. Hạn từ “chạnh lòng thương” được các tác giả sử dụng 12 lần trong
Tin mừng nói rõ điều đó. Khi Đức Giêsu “chạnh lòng thương” thì nguồn mạch sự
sống được tuôn trào, và mầu nhiệm Lòng Thương Xót của Thiên Chúa được tỏ lộ.
Ngài đã cảm thấy lòng bồi hồi xúc động khi người ta đem đến cho người những
người bệnh tật từ mọi nơi và rồi ra tay chữa lành họ (x. Mt 14, 4). Ngài đã
thốt lên: “Thầy chạnh lòng thương đám
đông này” (x. Mc 8,2) khi thấy hàng ngàn người đi theo Ngài đã nhiều ngày,
và rồi cho họ được no thỏa. Ngài đã cảm được nỗi đau của bà góa thành Naim khi
đưa xác đứa con trai duy nhất (x. Lc 7,13) và đã cho cậu ta sống lại. Ngài đã
trở thành “vui với người vui, khóc với người khóc”. Ngài đã tự do chọn lấy trọn
vẹn nỗi thống khổ của con người, đã sống thân phận đổ vỡi của loài người không
phải như sự nguyền rủa (St 3,14 -19), nhưng như một sự chúc phúc. Ngài đã ôm
trọn lấy con người với một sự yêu thương vô hạn của lòng thương xót.
Và hành động trung tâm, lớn lao
nhất thể hiện lòng thương xót là sự chết và sự sống lại của Người. Thánh Phaolô
trong thư gửi tín hữu Rôma đã viết: “Chúa
Giêsu chính là Đấng đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta và đã được Thiên Chúa
làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính”(Rm 4,25). Chúa Giêsu đã
chia sẻ với con người tất cả, từ nỗi đớn đau của kẻ hèn mạt bị tra tấn dã man
đến việc phải trải nghiệm một cái chết kinh hoàng và nhục nhã, trong tình trạng
thất vọng và bị bỏ rơi. Vì yêu thương, Ngài đã đồng hóa bản thân với con người
và đã chết vì lầm lỗi của nhân sinh, mặc dù bản thân vô tội: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình
thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”(Ga 15,13). Và
hơn thế nữa, Ngài đã chết cho chúng ta, là những kẻ bất toàn tội lỗi, chẳng
xứng đáng để lãnh nhận hồng ân quá lớn: “Hầu
như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì người lương
thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là
những người tội lỗi”(Rm 5,7-9). Khi con người
phạm tội là đã trở nên thù địch với Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn hy sinh
mạng sống để biến con người thành bạn hữu nghĩa thiết. Qua cái chết Chúa Giêsu
đã tiêu diệt sức mạnh của tội lỗi, giải thoát ánh nô lệ do tội đè nặng lên con
người. Và qua sự phục sinh, Ngài đã mang lại cho con người một sự sống mới (x.
Rm 6,4-5). Đó là sự sống được thông phần chia sẻ với sự sống thần linh của
Thiên Chúa, trong mối tương quan mật thiết với Người.
Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta
được mời gọi theo Chúa trên con đường Thập giá: “Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi,thì không thể làm môn đệ tôi
được”(Lc 14,27). Một vấn nạn mà người ta hay đặt ra đó là: tại sao Thiên
Chúa, Đấng Toàn Năng, Đấng Xót Thương mà lại để những điều đau khổ xẩy đến cho
con người? Quả thật, đau khổ là một mầu nhiệm mà lý trí con người khó mà lý
giải được. Tuy nhiên, chúng ta có thể giả thiết rằng nếu ta luôn hạnh phúc, có
mọi thứ ở thế gian này thì nguy cơ rất lớn là dẫn đến thái độ kiêu ngạo, tự
mãn, không còn thiết tha gì đến với Thiên Chúa và sự sống đời sau, vốn dĩ là
cùng đích thật sự của con người. Và, một điều mà chúng ta có thể xác tín là
Ngôi Hai Thiên Chúa, đã làm người như ta và cũng đã gặp phải những đau khổ của
kiếp người. Ngài đã không xóa sạch những khổ đau mà con người phải đối diện,
nhưng đã nhận lãnh lấy tất cả để chỉ ra rằng: từ những đau khổ ấy có thể nảy
sinh ra những hoa trái tốt lành. Do đó, chúng ta được mời gọi vui nhận những
khó khăn, điều không như ý muốn xẩy đến trong sự vâng phục thánh ý Chúa; đồng
thời không ngừng loan báo về Thiên Chúa tình thương qua việc xây dựng thế giới
này thành “trời mới,đất mới”, nơi tình yêu và công lý ngự trị (x. 2Pr
3,13).
Tạm
Kết
Mầu nhiệm Ngôi
Hai giáng trần là một sự biểu lộ cách cụ thể và trọn vẹn huyền nhiệm tình yêu
và lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho con người. Lòng thương xót ấy là
niềm hy vọng cho một thế giới hỗn loạn và mất phương hướng như ngày nay; một
thế giới đang đẩy xa Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của mình; một thế giới đang
gặp khủng hoảng về “tình phụ tử” và không cảm nhận được Lòng thương xót của
Chúa; một thế giới sợ hãi lo âu trước những sự dữ, tội lỗi mà chẳng dám nại vào Lòng Chúa xót
thương[2].
Thiên Chúa, Đấng Xót Thương đã đến ở với con nguời,
phục vụ con người và cứu rỗi toàn cõi nhân sinh. Ngôi Hai Thiên Chúa vẫn đang
nhập thể và nhập thế mỗi ngày không chỉ nơi bàn tiệc Thánh Thể mà còn nơi những
những người nghèo đói, đau khổ, bị hắt hủi, bị bỏ rơi.[3]
Mừng lễ Giáng sinh, mừng Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, là dịp để mỗi Kitô hữu
bày tỏ lòng kính phục suy tôn trước tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa
dành cho ta; đồng thời cũng là dịp nhắc nhở ta sống lời mời gọi yêu thương và
đón nhận anh em đồng loại, như khẩu hiệu của Năm Thánh Lòng Thường Xót: “Hãy
thương xót như Chúa”. Yêu thương người anh em không chỉ là bố thí, không chỉ là
giúp đỡ việc này việc nọ, nhưng là có sự “hiện diện, đồng hành” với người đang
gặp khổ đau; phục vụ hết thảy mọi người trong tâm tình khiêm tốn; và trên hết
rao giảng, làm chứng cho họ về một Thiên Chúa giàu lòng xót thương.
[1] Barth Karl. Church Dogmatic, IV/I (Edinburg: T&T. Clark, Sons, 1956) tr.
190
[2] Ricio Fiqueroa Alvear đã liệt kê 3 thái độ
phổ biến ngày nay: (1) dửng dưng, loại trừ Thiên Chúa, (2) cho rằng tội lỗi lớn
hơn ân sủng, nên không dám nại vào lòng thương xót của Chúa, (3) khủng hoảng
gia đình dẫn tới khủng hoảng “tình phụ tử” nên người ta không cảm nhận được
tình thương hiền phụ của Thiên Chúa. (xem: Ricio
Fiqueroa Alvear/ La misericordia:cammino di riconciliazione con Dio, con noi stessi e con gli altri in Santa Faustina/ www.laici.va/content/laici/it/donna.html truy
cập 20/9/2016)
[3] Trong
Mt 25, 34-40 , Chúa Giêsu đã đồng hóa mình với những người nghèo, đói khát,
trần truồng, tù tội…
Đăng nhận xét