Lời Yêu Thương,
Lời trước đây đã làm cho con người
và muôn loài thọ tạo bước vào hiện hữu,
nay vẫn tiếp tục đồng hành với sự hiện hữu của con người. Thiên Chúa phán: Hãy có.
Thiên Chúa gọi: Ngươi ở đâu?
Thiên Chúa hứa cho Đấng Mêsia đến giải thoát con người.
Lời trước đây đã làm cho con người
và muôn loài thọ tạo bước vào hiện hữu,
nay vẫn tiếp tục đồng hành với sự hiện hữu của con người. Thiên Chúa phán: Hãy có.
Thiên Chúa gọi: Ngươi ở đâu?
Thiên Chúa hứa cho Đấng Mêsia đến giải thoát con người.
Ts.
Nguyễn Duy Linh, OP.
Mùa Giáng Sinh đang tới. Không khí
lễ hội cũng đang tràn ngập khắp phố phường, quán xá, và ngõ ngách. Người Kitô
hữu hẳn không dừng lại ở không khí thương mại bên ngoài đó, nhưng được mời gọi
đi sâu vào mầu nhiệm yêu thương cao vời của Thiên Chúa: vì chúng ta mà Con Chúa
đã xuống thế làm người. “Ngôi Lời đã trở
nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Lời xác tín này của
thánh Gioan giúp ta liên hệ đến cả một chiều dài lịch sử yêu thương của Thiên
Chúa, khởi đi từ công trình tạo dựng: “Lúc
khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên
Chúa” (Ga 1,1).
Lịch sử yêu thương đó khởi đi từ
Lời tạo dựng và đỉnh cao ở Lời Nhập Thể. Lời sáng tạo, Ngôi Lời, Logos, những
hạn từ đơn sơ đó ẩn chứa cả một chuyện tình yêu thương tiệm tiến và triệt để mà
Thiên Chúa dành cho nhân loại. Hạn từ logos,
word (lời, chữ) là một từ rất giản dị
trong mọi ngôn ngữ, chúng ta dùng từ đó trong khi nói chuyện hàng ngày. Quả
thực, Logos, tiếng Hy Lạp viết là
λόγος, đến từ λέγω (lego) có nghĩ là “I say”, “tôi nói.” Hầu như trong mọi ngôn
ngữ, nghĩa nguyên thủy của logos (word)
là từ, chữ, lời nói, ý kiến, cầu khẩn, mệnh lệnh, lý lẽ… Nhưng trong lịch sử
tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại, Lời (nói) đó là quyền năng sức mạnh
mà Thiên Chúa gọi muôn loài đi vào hiện hữu; rồi Lời đó lại trở thành Ngôi Lời
(xác phàm) đến ở giữa nhân loại. Lời nói trở thành hành động. Lời siêu việt trở
thành cụ thể. Đó chính là tình yêu nhiệm mầu mà Thiên Chúa mời gọi con người
bước vào, hưởng nếm, học đòi và sẻ chia.
1. Lời
Sáng tạo và Lời Giao ước
Lịch sử yêu thương của Thiên Chúa
dành cho con người được bắt đầu nơi công trình sáng tạo. Sáng tạo bằng lời.
Trong công trình này, con người được Thiên Chúa đặt ở vị trí trung tâm của công
trình yêu thương; một công trình mà Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả
là rất tốt đẹp (x. St 1,31). Thế nhưng con người không muốn đứng ở vị trí tốt
đẹp của mình như Thiên Chúa sắp đặt, mà đòi bước vào chỗ của Thiên Chúa, chống
lại ý Chúa. Họ mang sự chết vào mình. Công trình yêu thương của Thiên Chúa vẫn
không dừng lại ở đó. Người mang đến cho con người niềm hy vọng. Hy vọng nhờ Lời
hứa.
a. Lời tạo dựng
Trình thuật sáng tạo về nguồn gốc
vũ trụ và nhân loại (St 1,1-31) trình bày hành động sáng tạo của Thiên Chúa
bằng cụm từ “Thiên Chúa phán”. Thiên Chúa tạo dựng bằng lời. Thiên Chúa đưa
muôn loài thọ tạo từ hư không ra hiện hữu bằng lời của Người. Bởi lẽ, “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và
sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi” (Hr 4,12), và Lời Thiên Chúa cũng là lời yêu
thương.
Thiên
Chúa tác tạo bằng lời của Người, lời kiện toàn tất cả những gì được nói ra: “Chúa
truyền lệnh khiến bùng lên bão táp, lớp sóng xô cuồn cuộn dập dồn” (Tv 107, 25). Lời Chúa là Thần
Khí và sự sống. Lời đó chính là hơi thở từ phát xuất từ miệng
Thiên Chúa, chuyển đạt chính sự sống của Người.
Một
lời Chúa phán làm ra chín tầng trời,
một
hơi Chúa thở tạo thành muôn tinh tú [...]
Vì
Người đã phán, và muôn loài xuất hiện,
Người
ra lệnh truyền, tất cả được dựng nên.
(Tv 33, 6-9)
Chúa
phán một lời là băng giải tuyết tan,
thổi
gió lên nước liền tuôn chảy (Tv 147, 18).
Thiên Chúa dùng
lời của Người để “gọi” vạn vật từ hư vô đến hiện hữu. Không những chỉ “gọi” đến
hiện hữu, Thiên Chúa còn dùng lời của Người để chọn lựa, phân tách, đặt tên,
chúc lành và khen ngợi sự tốt đẹp của muôn loài thọ tạo.
Đối với con người, không phải Thiên
Chúa tạo dựng nên như một thứ trang trí, nhưng rộng lòng chia sẻ quyền quản cai
của Người và mời gọi họ bước vào cuộc sống hạnh phúc. Thánh Gregorio Nysse diễn
tả điều này bằng những lời thật đẹp:
Sau khi Đấng Sáng
tạo đã sửa soạn như một thứ hoàng cung cho vị vua tương lai và đã đặt vào cung
điện đó muôn vàn của cải, Người mới cho con người ra đời, để con người vừa được
làm chứng vừa được vui hưởng các công trình kỳ vĩ đó. [...] Chủ tiệc lịch lãm
không mời khách đến trước khi dọn xong bàn tiệc, mà chỉ đưa khách vào nhà sau khi
đã chu đáo sửa soạn mọi sự, tô điểm quét dọn nhà cửa, xếp đặt bàn ghế và làm
xong các món ăn.[1]
Như thế, với tấm lòng xót thương,
Thiên Chúa đã kéo con người ra từ cõi hỗn mang, bùng nhùng để con người được
hiện hữu, được đi vào tương quan sự sống với Người. Nói cách khác, trong việc
sáng tạo, Thiên Chúa lôi kéo con người từ cõi hỗn mang chẳng có gì là sự sống
để đi vào cõi sống viên mãn trong tương quan mật thiết với Người.
Thiên Chúa sáng tạo vạn vật trong
vũ trụ này không phải vì Người cần đến chúng, nhưng, như các Giáo phụ minh
chứng, để “đổ tràn ân huệ” trên chúng
(thánh Irenê). Còn giáo phụ Origen thì cho rằng: “Vào khởi thủy, khi Thiên Chúa sáng tạo những gì Người muốn, có nghĩa là
các hữu thể có lý trí, Người không có một
động lực nào khác hơn là chính mình, có nghĩa là sự tốt lành của Người”. Với thánh Augustinô: “Chỉ vì Người tốt lành nên chúng ta mới được
hiện hữu”. Thánh Tôma Aquinô thì cho rằng: “Thiên Chúa hoạt động không phải vì sự cần dùng của Người, nhưng duy chỉ
vì lý do lòng tốt lành của Người.”[2]
Như vậy, Lời sáng tạo, Lời quyền
năng là Lời thương xót, Lời yêu thương.
Không gì quý giá bằng sự hiện hữu mà Thiên Chúa ban cho muôn loài thọ tạo, và
cũng không thọ tạo nào hạnh phúc hơn con người khi họ được Thiên Chúa mời gọi
bước vào tương quan với Đấng Tạo Hóa. Tất cả những điều đó được Thiên Chúa thực
hiện qua lời của Người.
b. Lời hứa cứu độ
Sự quan phòng của Thiên Chúa, như
thánh Tôma Aquinô quả quyết, chính là sự tạo dựng kéo dài.[3]
Thiên Chúa không phải ban sự sống cho mọi loài rồi để mặc, nhưng tiếp tục săn
sóc duy trì những gì Người đã làm nên. Thiên Chúa không coi chúng ta như những
con cờ, cũng chẳng coi chúng ta như đối thủ. Người ban cho con người lý trí và
tự do để cùng tham gia vào công cuộc tạo dựng, bắt đầu bằng chính việc điều khiển
cuộc đời của mỗi người với lương tâm và trách nhiệm.
Thiên Chúa
dựng nên muôn vật muôn loài và đặt con người vào vị trí trung tâm, để con người
quản cai, để con người vui sống. Thế nhưng con người đã bội phản. Và hậu quả là
họ đánh mất tình trạng thánh thiện nguyên thủy. Sự hài hòa với công trình tạo
dựng bị phá vỡ. Con người từ tro bụi trở về bụi tro. Sự chết đã xâm nhập vào
lịch sử nhân loại.[4]
Nếu như khi còn trong cảnh hỗn
mang, Lời sáng tạo đã gọi con người đi vào hiện hữu, thì sau khi con người sa ngã,
Lời đó vẫn tiếp tục bên cạnh con người. Thiên Chúa gọi con người (St 3,9: “Ngươi
ở đâu?”) và một cách bí nhiệm, loan báo cho con người cuộc chiến thắng trên
sự dữ và nâng con người sa ngã chỗi dậy.[5]
Thiên Chúa
phán với con rắn, kẻ đã lôi kéo con người chống lại Thiên Chúa: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người đàn bà,
giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và
mi sẽ cắt vào gót nó” (St 3,15). Quả thật, Lời hứa này của Thiên Chúa có
sức mạnh như Lời sáng tạo “Hãy có”.
Lời mang lại niềm hy vọng. Cái thế đứng của đối phương ở thế thượng phong chống
lại con rắn cho thấy trước kết cục của cuộc giao tranh không thuận lợi cho con
rắn, và do đó tiên báo cuộc chiến thắng cuối cùng của dòng giống người đàn bà.
Lời này của Thiên Chúa mạc khải một ánh sáng đầu tiên về ơn cứu độ dành cho con
người.[6]
Vì thế, Công đồng Vaticano II minh
định rằng:
Thiên Chúa, Đấng
tạo dựng và bảo tồn mọi sự nhờ Ngôi Lời, không ngừng minh chứng về chính mình
cho loài người qua các thọ tạo, hơn nữa, vì muốn mở ra con đường cứu độ cao
vời, ngay từ khởi thủy, Người đã tỏ mình ra cho nguyên tổ loài người. Sau khi
tổ tông sa ngã, bằng việc hứa ban ơn cứu chuộc, Người đã nâng con người chỗi
dậy, hướng tới niềm hy vọng cứu độ.[7]
Như vậy, Lời Yêu Thương, Lời trước
đây đã làm cho con người và muôn loài thọ tạo bước vào hiện hữu, nay vẫn tiếp
tục đồng hành với sự hiện hữu của con người. Thiên Chúa phán: Hãy có. Thiên
Chúa gọi: Ngươi ở đâu? Thiên Chúa hứa cho Đấng Mêsia đến giải thoát con người.
2. Lời
cứu chuộc
Lời Sáng tạo và Lời hứa ban Đấng
Cứu chuộc quả thật là những Lời đầy quyền năng, siêu việt. Vì thế đối với người
Dothái, họ xem tiếng Chúa như tiếng sấm: “Hãy lắng nghe tiếng Người gầm thét và tiếng Người mở miệng
thì thầm [...] Thiên Chúa cho nổi sấm mà loan báo những kỳ công, Người thực
hiện những việc lớn lao ta không hiểu thấu. Người ra lệnh cho tuyết: “Sa xuống
đất đi!”Rồi bảo với mưa rào: “Rơi cho nặng hạt!” (G 37, 2-13). Thiên Chúa, như lời đã hứa, tiếp
tục đi thêm một bước nữa để đến gần hơn với con người. Vì Lời của Thiên Chúa là
Lời yêu thương ngỏ với con người, mà yêu thương thì phải hiểu được, nghe được,
thấy được, sờ được, và cảm nghiệm được. Lời yêu thương ấy đã đi đến tận cùng
vai trò ngỏ lời của mình. Vì yêu thương, Lời của Thiên Chúa đã trở thành xác
phàm nhân loại.
a. Lời mặc lấy xác phàm
Người ta thường nói: con đường xa
nhất là con đường từ lời nói đến việc làm. Lời nói thì vô hình, còn việc làm
thì hiển hiện. Lời Sáng tạo, Lời hứa cứu độ, tự bản chất là những lời quyền
năng, và “là lời sống động, hữu hiệu và
sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi” (Hr 4,12); nhưng những Lời đó, đối với khả
năng con người khó mà nắm bắt, thấu hiểu được. Vì thế, Lời Yêu Thương đã đi đến
tận cùng với một bước trổi vượt, Lời mặc lấy xác phàm và dựng lều giữa con
người (Ga 1,14). “Lời Thiên Chúa, Lời mà
nhờ đó muôn vật được tạo thành, đã mặc lấy xác phàm và đến sống trên trái đất
của con người. [...] Chính Người mặc khải cho chúng ta Thiên Chúa là tình yêu.”[8]
Và thánh Gioan, tác giả của Tin
mừng về Ngôi Lời, để tuyên xưng rằng Lời sáng tạo cũng là Ngôi Lời Nhập Thể,
trong lời tựa của Tin mừng, đã viết:
Lúc khởi đầu đã có
Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. [...]
Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được
tạo thành. [...] Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng
tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người
(Ga 1,1-14).
Như vậy, Lời (Ngôi Lời) không bao
giờ là một thuộc tính hay một quyền lực được nhân hóa, nhưng là một Ngôi Vị
thiên linh. Những từ ngữ mà thánh Gioan đã sử dụng: “Người đã đến nhà mình” (Ga 1,11) hay “Ngôi Lời đã trở nên người phàm” (Ga 1,14) chỉ có thể gán cho một
ngôi vị, chứ không phải là một thuộc tính thiên linh nào hết. Thiên tính đích
thực của Ngôi Lời được rút từ thuộc tính thiên linh của Đấng Sáng Tạo, được áp
dụng cho Ngôi Lời; Nhờ Ngôi Lời mà muôn
vật được tạo thành (Ga 1,3).[9]
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Xác phàm (trong tiếng Hylạp là sarx) mà thánh Gioan sử dụng ở đây chỉ
toàn diện con người, cả xác lẫn hồn, yếu đuối, mỏng giòn, hay hư nát. Vì thế,
Ngôi Lời – xác phàm, Lời sáng tạo – thọ tạo yếu hèn, diễn tả sự tương phản giữa
Lời vĩnh cửu và xác phàm cỏ cây; hai bên quá khác biệt lại được phối hợp trong
một bản vị. Điều này làm sáng tỏ sự chiếu cố tột độ của Ngôi Lời xuống thế đảm
nhận thân phận yếu hèn của nhân loại.[10]
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm”, lời tuyên tín này của thánh Gioan
quả thật đã bày tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho con người đến cực
điểm. Một Thiên Chúa cao vời đã trở nên bé nhỏ, yếu đuối, nghèo hèn vì muốn cho
con người, trong khả năng có hạn của họ, cảm nếm được Thiên Chúa Yêu Thương. Ngôi Lời có chức năng khai mở cho toàn bộ mọi người, vì
Ngôi Lời đã hiện diện với con người từ khi tạo thiên lập địa. Ngôi Lời tiếp tục
tỏ mình ra trong Cựu Ước như là việc Đức Giêsu Kitô tự mạc khải trước khi đến
trong xác phàm. Tuy nhiên, việc Đức Kitô tỏ mình ra trong và qua thân xác con
người, trong không gian và thời gian, là một bảo chứng về sự mới lạ của Kitô
giáo trong lịch sử nhân loại. Qua biến cố Nhập Thể, Ngôi Lời mạc khải của Chúa
Cha từ đời đời, đã trở thành “Bí tích
gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người”. Từ nay, Người “thực sự trở thành khả kiến và khả tri cho
người trần mắt thịt.”[11]
b. Lời bày tỏ Thiên Chúa Yêu Thương
Tại sao Thiên Chúa lại phải đi đến
tận cùng sâu thẳm như vậy mới bày tỏ được tình yêu dành cho con người? Sao
người không đến trong thân phận một vị vua giàu sang, hay một tướng lãnh oai
hùng, như nhiều tôn giáo khác vẫn diễn tả về các vị thần của họ? Chẳng lẽ thân
phận cao sang hơn không mang lại hiệu quả to lớn hơn thân phận thấp bé sao?
Quả thực, Chúa Kitô đã nhận lấy
trọn vẹn nhân tính của con người là những kẻ khốn khổ và nghèo hèn, ngoại trừ
tội lỗi, để yêu thương và cứu chuộc con người. Vì thế, thánh Hipolytô trả lời
như thế này:
Để cho ta thấy rõ Người không khác chúng ta, Người cũng đã cam chịu vất
vả, đói khát; Người đã ngủ nghỉ, đã không từ chối chịu đau khổ, đã chịu chết
rồi sống lại cách tỏ tường. Trong tất cả những điều đó, Người đã cống hiến nhân
tính của Người như của lễ đầu mùa, để khi gặp đau khổ, bạn không ngã lòng,
nhưng nhìn nhận mình chỉ là người phàm, và trông đợi Thiên Chúa ban ơn cho bạn
như đã ban cho Con của Người.[12]
Nói cách khác, Lời Yêu thương, Lời
Tạo dựng trở thành Lời Nhập thể để ngay cả loài mang xác phàm, là con người
chúng ta, cũng nhìn thấy, và để khi Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu thì phàm nhân
nhận ra lượng từ bi cao cả của Người. Nhờ đó, khi Thiên Chúa bày tỏ lòng nhân
hậu, thì lượng từ bi của Người không còn bí ẩn nữa. Điều này được thánh Bênađô
bộc bạch bằng những lời tâm tình này:
Có chi tỏ rõ lòng
thương xót của Thiên Chúa cho bằng việc Người nhận lấy chính sự khốn cùng của
ta? Có chi tỏ rõ lòng nhân hậu tràn trề cho bằng việc Ngôi Lời Thiên Chúa đã vì
ta mà nên rơm nên cỏ? Lạy Chúa, con người có là chi mà Chúa cần biết đến? Phàm
nhân đáng là gì mà Chúa phải lưu tâm? [...] Thật vậy, Người càng tỏ ra yếu hèn
trong nhân tính, thì lại càng tỏ ra lớn lao về lòng nhân lành. Người càng tỏ ra
hèn hạ vì tôi, lại càng đáng tôi quý mến.[13]
Quả thật, để ôm trọn hết nhân loại,
không trừ một ai, Người đã cúi xuống và chia sẻ mọi cảnh thấp hèn và mỏng dòn
nhất của phận người. Theo cách diễn tả của Công đồng Vaticano II:
Chúa Giêsu Kitô
được sai đến trần gian làm vị trung gian đích thực giữa Thiên Chúa và nhân loại.
[...] Bằng con đường nhập thể đích thực, Con Thiên Chúa đã đến để làm cho loài
người được thông phần vào bản tính Thiên Chúa, vốn giàu sang, Người đã trở nên
nghèo khó vì chúng ta, để lấy sự nghèo khó của Người làm cho chúng ta nên giàu
có. Con người đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến mạng sống
làm giá chuộc cho nhiều người, nghĩa là mọi người. Cách thánh Giáo phụ luôn quả
quyết rằng, sự gì không được Chúa Kitô tiếp nhận vào Người thì không được chữa
lành.[14]
Như vậy, ngay trong Mầu nhiệm Nhập
thể, Thiên Chúa đã mạc khải lòng thương xót của Người. Và nói theo cảm nghiệm
của thánh Gioan:
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của
Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con
của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ (Ga 4,16-17).
Khi giáng sinh, Đức Giêsu được gọi
là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Mt 1,23). Vị Thiên Chúa ở
cùng chúng ta là vị Thiên Chúa gần gũi, là nơi chúng ta nương ẩn, là sức mạnh,
là tình yêu và là ơn cứu độ của chúng ta.
Vậy ra con đường của Thiên Chúa là
con đường triệt để, yêu hết mình. Lời Tạo Dựng Yêu Thương nay trở thành Ngôi
Lời Yêu Thương. Tình yêu đó không theo kiểu từ trên ban xuống nhưng Tình yêu đó
đi xuống tận cùng khổ đau, khốn cùng của con người để có thể nâng hết mọi người
lên.
3. Lời
mời gọi: từ lời nói đến hành động
Từ thuở bình minh của công trình
sáng tạo, Thiên Chúa đã dùng Lời Sáng tạo của Người để phân rẽ ánh sáng khỏi
bóng tối, phân rẽ nước phía dưới vòm trời và nước phía trên vòm trời, gọi muôn
loài thọ tạo đi vào hiện hữu. Rồi cũng Lời Sáng tạo đó trở thành Lời Nhập thể.
Lời quyền năng siêu việt trở thành Lời mang xác phàm nhân loại, đến sống với
con người, chung chia phận người với nhân loại. Hôm nay chính Đức Giêsu Kitô,
Lời Thiên Chúa Nhập Thể, đang thúc giục mời gọi chúng ta hãy cộng tác với Người
để ánh sáng của ân sủng, của tình yêu ngời sáng trong cuộc đời, đẩy lui bóng
tối của tội lỗi, của ghen tương và ích kỷ. Như tâm tình của thánh Irênê khi suy niệm về Mầu Nhiệm Nhập Thể: “Thiên Chúa làm người để con người được trở
nên Thiên Chúa”; thì chúng ta cũng có thể nói rằng : “Lời Yêu Thương đã nhập thể làm người để con
người trở nên khí cụ của Lời Yêu Thương ấy”. Con người chúng ta cũng được
mời gọi để chuyển hóa tâm tình yêu thương, lời nói ủi an thành hành động cụ
thể, hành vi bác ái.
a. Nói lời xây dựng
Lời nói tự nó mang sức mạnh, như
lời phát biểu của triết gia Pythagore: Nói
là gieo, nghe là gặt. Thiết nghĩ, để diễn tả lòng bác ái đối người khác,
nói tốt, nói lời xây dựng, là bước khởi đầu. Thế nhưng, mỗi người mỗi quan
điểm, mỗi người mỗi hiểu biết, phải nói thế nào đây?
Đức Giêsu có lần dạy các môn đệ của
Người:
Các kinh sư và các
người Pharisêu ngồi trên toà ông Môsê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ
nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì
họ nói mà không làm” (Mt 23,2-3).
Như vậy, ta có thể hiểu, Đức Giêsu
không đồng tình với việc làm của các người Pharisêu, nhưng lời nói của họ thì
Người khuyến khích các môn đệ hãy làm. Bởi vì những lời họ nói, những điều họ
giảng dạy là những đạo lý chân truyền của ông Môsê, được rút ra từ Sách Thánh,
từ Lời Thiên Chúa. Vậy, nói tốt là nói Lời Thiên Chúa, là rao giảng Tin mừng.
Như đã đề cập, Lời Tạo dựng là Lời
Yêu thương; Lời Tạo dựng cũng là Lời Nhập thể; và lời xây dựng cộng đoàn, cũng
theo đó, phải đến từ Lời Thiên Chúa. Thần học gia W. Kasper nhận xét: “Tình yêu mến triệt để đối với đồng loại mà
Đức Giêsu đòi buộc sẽ không thực hiện được nếu không xuất phát từ sức mạnh của
tình yêu Thiên Chúa.”[15]
Như vậy, Lời Chúa, Sách Thánh, những gì Đức Giêsu đã dạy và các thánh sử chép
lại, đó là nguồn mạch cho chúng ta nói lời yêu thương, lời xây dựng.
Lòng bác ái đích thực chúng ta dành
cho tha nhân phải là tình yêu thương chúng ta nhận từ Thiên Chúa. Lời nói mà ta
trao cho tha nhân phải là lời mà Thiên Chúa đã nói với ta, lời ta thân thưa với
Chúa. Điều này được Công đồng Vaticano II khẳng định:
Thánh Kinh truyền
đạt Lời của chính Thiên Chúa cách bất di bất dịch, và làm vang vọng tiếng Chúa
Thánh Thần trong lời của các Ngôn sứ và các Tông đồ. Vì vậy, toàn thể việc rao
giảng trong Giáo hội cũng như chính nếp sống đạo của người Kitô hữu phải được
Thánh Kinh nuôi dưỡng và hướng dẫn. Quả thật, trong các Sách Thánh, Cha trên
trời âu yếm đến gặp gỡ và trò chuyện với con cái của Người, vì trong Lời Thiên
Chúa có uy lực và quyền năng lớn lao để mang lại sự nâng đỡ và sức sống cho
Giáo hội.[16]
Muốn vậy, người con cái Chúa được
khuyến khích chuyên chăm học hỏi Kinh Thánh và thánh khoa, yêu mến và trân
trọng Lời Chúa. Một điều chắc chắn là không tiếp xúc với Thánh Kinh thì khó mà
chúng ta có thể nói là mình thấm nhuần và
hiểu được thánh ý của Thiên Chúa. Thánh Giêrônimô mạnh mẽ biểu lộ điều này
khi nói: Không biết Kinh Thánh là không
biết Chúa Kitô. Như vậy để lời ta nói là lời yêu thương, thì lời đó phải
đến từ Thiên Chúa, chứa đựng trong Sách Thánh. Đó cũng chính là Lời Nhập thể
mặc lấy xác phàm và Lời Tạo dựng mà Thiên Chúa sáng tạo muôn loài.
b. Hành động cụ thể
Nếu như Lời tạo dựng, Lời hứa cứu
độ được cụ thể hóa nơi Ngôi Lời Nhập Thể, nơi xác phàm nhân loại của Đức Giêsu,
thì Lời Chúa mà chúng ta suy gẫm, rao giảng cũng phải được thể hiện nơi hành
động cụ thể của mỗi người. Lòng bác ái Kitô giáo không chỉ dừng lại ở lời nói,
nhưng là cụ thể qua việc làm: “Đức tin
không việc làm là đức tin chết” (Gc 2,26). Chính Đức Giêsu cũng rất không
bằng lòng về sự bất nhất giữa lời nói và việc làm của những người Pharisêu: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người
Pharisêu giả hình” (x. Mt 23,13-32). Hay nói theo cách của thánh Gioan là
đừng yêu bằng đầu môi chót lưỡi: “Hỡi anh
em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi,
nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1Ga 3,18).
Là những người đi loan giảng Lời
Thiên Chúa, chúng ta càng được mời gọi phải thấm nhuần Lời vào trong cuộc sống
của mình. Trong nghi thức phong chức phó tế, khi Giám mục trao sách Phúc Âm cho
các tân phó tế, ngài nhắn nhủ: “Con hãy
nhận lấy Phúc Âm Đức Kitô mà con đã trở thành người rao giảng, và con hãy biết
là phải tin điều con đọc, dạy điều con tin và thi hành điều con dạy”; đây
quả thực là những lời rất đẹp, rất mạnh mẽ khuyến khích những ngôn sứ của Thiên
Chúa phải cố gắng trở thành chứng nhân
song song với nghĩa vụ thầy dạy của
mình.
Đức Giêsu Kitô là Ngôi Lời Thiên
Chúa; Người không bao giờ ngừng biểu lộ tình yêu Thiên Chúa dành cho con người:
“Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì
tôi cũng làm việc” (Ga 5,17). Đối với Đức Giêsu, những điều Người nói và
những việc Người làm đều biểu lộ tình thương của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Giờ đây Người cũng mời gọi chúng ta: “Hãy
đi và làm như vậy” (Lc 10,37). Đây là lời của Đức Giêsu dành cho nhà thông
luật khi xưa, cũng là lời mời gọi dành cho mỗi chúng ta hôm nay. Cuộc đời của
Đức Giêsu, từ Nadarét, qua Galilê, lên Giêrusalem và kết thúc ở Gongotha chính
là mẫu mực cho cuộc đời của người ngôn sứ.
Như vậy, xưa
Đức Giêsu hứa với các tông đồ: “Ai thấy
Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14,9), bởi vì Ngôi Lời Nhập Thể đã thể hiện
trung thực Tình Yêu của Lời Tạo dựng lúc khởi đầu; thì hôm nay, người môn đệ
Đức Kitô được mời gọi sống trung thực với Lời mình rao giảng để mọi người khi
nhìn vào việc làm của người ngôn sứ họ thấy được Ngôi Lời Yêu Thương.
Kết luận
Lược qua chiều
dài của dòng lịch sử cứu độ, hay lịch sử yêu thương của Thiên Chúa, ta có thể
nhận ra những bước đồng hành tiệm tiến và triệt để Thiên Chúa dành cho con
người. Thiên Chúa sáng tạo cũng là Thiên Chúa quan phòng, Người không bỏ mặc
con người sau “ngày thứ bảy nghỉ ngơi”, nhưng luôn dõi theo nhịp sống của con
người. Lời Sáng tạo của Thiên Chúa cũng là Lời Nhập Thể, Người không để con
người một mình chèo chống trên con đường quay về với Cội Nguồn, nhưng Người cho
Ngôi Lời mang xác phàm xuống ở với con người để nâng con người lên, và dẫn con
người về với Cội Nguồn Yêu Thương. Lời Siêu việt, Lời quyền năng, Lời sáng tạo
đã trở thành Lời Nhập thể, thành Ngôi Lời, thành xác phàm hiển hiện rõ nét
trước mắt con người.
Đây không phải là một bài giáo lý,
một lý thuyết suông dành cho người Kitô hữu; nhưng là một bài học cụ thể mời
gọi mỗi người thực hành: biến lời nói thành hành động. Lời đó trước hết là Lời
Chúa, lời chúng ta rao giảng, và sau đó là những lời tốt lành của mỗi chúng ta
dành cho tha nhân. Sẽ là vô nghĩa nếu những lời đó không được chuyển hóa thành
hành động bác ái cụ thể. Và chính khi hành động yêu thương của chúng ta dành
cho tha nhân được phát xuất từ Lời Chúa; lúc đó chúng ta đang bước vào nhiệm
mầu sáng tạo, quan phòng, cứu chuộc của Thiên Chúa. Công trình đó được khởi đi
từ Lời Sáng tạo, Lời Hứa cứu độ, và tận cùng ở Ngôi Lời Nhập Thể.
[1] Georg
Kraus, Sáng thế luận qua các tác giả, dẫn
nhập và tuyển chọn trong bộ Texte zur
Theologie Dogmatik, Styria Verlag, Graz Wien Koln, trang 175-176.
[3] X. Summa
Theologiea, I, q.104, a.1.
[4] X. GLHT, số 400.
[5] X. GLHT, số 410.
[6] X. Chú giải St 3,15 của Nhóm CGKPV: Kinh thánh Cựu Ước – Ngũ Thư (bản dịch
để học hỏi), Tôn giáo 2010.
[7]
Vaticano II, Dei Verbum, số 3.
[8]
Vaticano II, Gaudium et Spes, số 38.
[9] X.
Ludwig Ott, Tín lý, tập I, bản dịch của Lm. Nguyễn Văn Trinh,
trang 116-117.
[10] X. Chú
giải Ga 1,14 của nhóm CGKPV: Kinh Thánh
ấn bản 2011, Tôn giáo 2011.
[11] Nguyễn
Thái Hợp, Đường vào thần học tôn giáo,
Dấn Thân, Houston, 2004, tr. 188.
[12] Trích
khảo luận Chống lạc thuyết của thánh
Hipôlytô (Bài đọc Kinh Sách ngày 30 tháng 12).
[13] Trích
Bài giảng của thánh Bênađô viện phụ (Bài đọc Kinh Sách ngày 29 tháng 12).
[14] Vaticano II, Ad Gentes, số 3.
[15] Walter, Kasper, Mercy: The Essence of the Gospel and the Key
to Christian Life (Quezon: Claretion Communications, 2015), 134.
Đăng nhận xét