Đức Kitô là quà tặng lòng thương xót
của Thiên Chúa dành cho con người,
vì thế việc Nhập thể là sự biểu lộ tuyệt hảo
của tình yêu Thiên Chúa,
một sự biểu lộ tuyệt mức kết thành ân huệ tặng không.
Giuse Sỹ Thảo, OP.
Mầu nhiệm Nhập thể, một biến cố trung tâm của lịch sử
nhân loại là kết quả và chung kết tình yêu sung mãn của Thiên Chúa dành cho con
người, là cứu cánh của lịch sử, Hiến chế Gaudium
et spes diễn tả trong mầu nhiệm này:
Con Thiên Chúa […]
đã làm việc bằng đôi tay con người, đã nghĩ ngợi bằng khối óc con người, đã
hành động bằng ý chí con người, đã yêu bằng trái tim con người. Người được hạ
sinh bởi Đức Nữ Trinh Maria, Người đã là một người thực sự giữa chúng ta, Người
đã giống chúng ta mọi đàng chỉ trừ tội lỗi.[1]
Thật vậy, Đức Giêsu Kitô chính là
vị Thiên Chúa làm người, nói cách khác, Ngôi Lời Thiên Chúa đã khiêm hạ đến mức
từ bỏ chính mình, nhận lấy một bản tính nhân loại như một con người trần thế và
sống giữa họ, mục đích tối hậu để cứu độ nhân loại.
Trong bài viết này, các chủ đề
chính sẽ được triển khai: (1) Đức Giêsu Ngôi Lời Nhập thể; (2) Giao ước và sấm ngôn
tiên báo Ngôi Lời Nhập Thể;
(3) Lòng thương xót của Thiên Chúa qua mầu nhiệm Nhập Thể.
1. Đức
Giêsu Ngôi Lời Nhập Thể
1.1.
Giải
thích từ ngữ “Nhập thể”
Mầu nhiệm Nhập thể là một chân lý nền tảng của Kitô giáo, được tuyên xưng
cách trọng thể trong các tín điều của Hội Thánh. Hạn từ “Nhập thể” bắt nguồn từ
“incarnatio” trong tiếng Latin. Các Giáo Phụ Latin như thánh
Gierome, Ambrose, Hilary… từ thế kỷ XIV, đã sử dụng phổ biến từ ngữ này.
Tiếng Latin “incarnatio” (caro:
xác phàm) tương ứng với tiếng
Hylạp“sarkosis”, hay “ensarkosis”, những từ này theo Tin
Mừng Gioan (1,14): “kai
ho Logos sarx egeneto”, nghĩa là “Ngôi Lời đã trở thành xác phàm”.
Động từ “sarkousthai”, trở thành xác phàm, xuất hiện trong kinh
Tin Kính của Công Đồng Nicaea.[2] Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, xác phàm
có nghĩa là nhân tính hay con người (Lc
3,6; Rm 3,20). Như vậy, khi Ngôi Lời Nhập thể, trở thành xác phàm, thì
sự tốt lành của Thiên Chúa được diễn tả rõ nhất qua việc Thiên Chúa “đã
trút bỏ chính mình và nên giống như người trần thế” (Pl 2,7); Người không chỉ mang lấy bản tính con người,
một bản tính có khả năng đau khổ, yếu đuối và hữu hạn, mà Người còn trở nên
giống như một con người trọn vẹn, ngoại trừ tội lỗi.[3]
Một cách diễn tả khác trong Tin Mừng Gioan, Ngôi Lời Nhập thể mang một danh
xưng “Logos”, có nghĩa là Lời ở cùng
Thiên Chúa, Lời là chính Thiên Chúa (Ga 1,1-2) đã “trở nên người phàm”, điều
này không phải vì thiên tính biến đổi thành nhân tính, nhưng bởi vì nhân tính
ấy trở thành nhân tính của Ngôi Lời; vì thế thiên tính và nhân tính thuộc về
cùng một ngôi vị duy nhất, tức Ngôi Lời Nhập thể. Nói cách khác, Đức
Giêsu Kitô vốn là Ngôi Lời hằng hữu mà Thiên Chúa đã sáng tạo mọi sự trong
Ngài, Ngài là Đấng nói
lời Thiên Chúa, Đấng mặc khải ý định cứu độ của Thiên Chúa cho nhân loại (Ga
1,18; 3,16). Chính Ngôi Lời hằng hữu
như nguyên lý phổ quát của mọi sự được tạo thành lại được gói trong con người
của Đức Giêsu Nazaret.[4]
Như vậy, mầu nhiệm Nhập thể chính là việc Thiên Chúa
trao tặng chính Con Một của Người cho nhân loại vì lòng thương xót, qua mầu
nhiệm này Đức Giêsu đã đón nhận nhân tính của con người rồi trao cho con người
thần tính của Ngài. Ngài đã tặng chính mình Ngài cho loài người, từ đây khai mở
một kỷ nguyên mới của hồng ân cứu độ, nhờ đó,
con người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể trong Chúa
Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thiên Chúa (x. Ep 2,18; 2Pl 1,4).[5]
Qua đó, con người có thể khám phá ra lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa
dành cho họ từ ngàn đời. Như vậy, Thiên Chúa Cha toàn năng đã sai Con Ngài là
Ngôi Lời vĩnh cửu đến ở với loài người, sống giữa loài người và nói cho họ nghe
những điều kín nhiệm nơi Thiên Chúa (x.Ga 1,1-18), và hoàn thành công trình cứu
rỗi của Chúa Cha đã giao phó cho Ngài thực hiện (Ga 5,36; 17,4). Vì thế, chính
Ngài, Ðấng mà ai thấy Ngài tức là thấy Chúa Cha (Ga 14, 9), đã đến bổ túc và
hoàn tất mạc khải, bằng tất cả sự hiện diện và tỏ mình qua lời nói cũng như
việc làm, dấu chỉ và phép lạ, nhất là qua cái chết và sự sống lại vinh quang,
Ngài xác nhận Thiên Chúa hằng ở với chúng ta để giải thoát chúng ta khỏi bóng
tối tội lỗi và sự chết, rồi phục sinh chúng ta để được sống đời đời.[6]
1.2. Tội lỗi con người và Tin Mừng tiên khởi
Con người đầu tiên được Thiên Chúa
tạo dựng trong tình trạng công chính thuần khiết, thế nhưng con người đã phản
phúc, đã lạm dụng sự tự do của mình để chống lại Thiên Chúa, thánh Phaolô diễn
tả:
Tuy biết Thiên Chúa, con người đã không tôn
vinh hay cảm tạ người cho phải đạo. Trái lại, đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê
muội. Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng đã trở nên điên rồ… Thay vì Thiên Chúa
thật, họ đã theo những thần giả; họ đã tôn thờ những loài thọ tạo, thay vì
chính Đấng Tạo Hoá (x. Rm
1,21-25).
Xét theo khía cạnh này thì, tội nguyên tổ đã khiến
cho con người mất đi hình ảnh siêu nhiên của Thiên Chúa nơi mình, phá vỡ mối
tương quan hài hoà với Đấng Tạo Hóa trên bình diện tự nhiên, nghĩa là con người muốn
thoát ra giới hạn thụ
tạo của mình để chiếm đoạt quyền của Thiên Chúa. Với tội lỗi, con người đánh mất cái hạnh phúc
nguyên thủy và thấy mình trần truồng, cảm thấy xấu hổ; bởi thế sau khi
con người phạm tội, Thiên Chúa đi tìm Ađam: “Ngươi ở đâu ?” (St 3,9), dù Thiên Chúa biết nhưng
Người vẫn hỏi, để cho con người xác định lại vị trí của mình, xác định lại căn tính của mình, để thấy rõ con người
là ai? Thiên Chúa là ai? Chính vì từ khước phụng sự, vâng phục Thiên Chúa mà con người đi đến chỗ mù
lòa, sa đọa (Rm 1, 21-32). Thánh Phaolô cho thấy sự suy đồi trong bản tính nhân
loại là phổ quát, không trừ một ai, ngay cả dân Do thái vốn hiểu biết Lề Luật
(x.Rm 2,17-24), nếu không có ân sủng Thiên thì lòng con người chỉ toàn là sự dữ (Tv 51,7). Chính vì thế mà ơn cứu chuộc
trở nên khẩn thiết đối với thân phận con người.
“Tự mình và do sức riêng mình, không ai được giài
thoát khỏi tội lỗi và thắng vượt chính mình, cũng không ai hoàn toàn thoát ly
được tình trạng yếu đuối, cô đơn hay nô lệ”.[7] Con người không thể tự cứu mình, không có thể đạt
đến ân sủng và ơn cứu độ bằng sức riêng mình, như thế ta mới thấy được sự bất
lực của con người trong việc tự cứu chữa mình. Điều này dân Israel càng ngày
càng ý thức một cách rõ ràng, duy mình Thiên Chúa mới có thể tái lập sự công
chính do tội con người gây ra. Vì vậy, ước vọng sâu xa nhất là niềm hạnh phúc
được tha thứ lỗi lầm mà mình đã phạm: “Hạnh
phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung. Hạnh
phúc thay, người Chúa không hạch tội, và lòng trí chẳng chút gian tà” (Tv
32,1-2; Rm 4,7). Trong Tân Ước, chân lý này
được diễn tả cách tỏ tường quyền tha tội nơi Đức Giêsu, quyền này trở thành dấu
chỉ của thiên tính Ngài, như chúng ta sẽ thấy sau này (x .Mc 2,5-12).
Trở lại hệ luỵ của tội, sau khi Ađam phạm tội,
Thiên Chúa không bỏ mặc con người, ngược lại,
Thiên Chúa đã hứa ban ơn cứu độ để vực họ dậy trong
niềm hy vọng vào ơn cứu độ (St 3,15), và Người không ngừng quan tâm đến toàn thể
nhân loại để ban tặng sự sống vĩnh cửu cho tất cả những ai tìm kiếm ơn cứu độ bằng
cách kiên tâm thực hành những việc lành (Rm 2, 6-7). Và rồi khi đến thời đến buổi,
Người đã kêu gọi Abraham, để làm cho ông trở thành tổ phụ
một dân vĩ đại (St 12, 2-3), một dân mà sau thời các Tổ phụ, Người đã dẫn dắt
qua trung gian ông Môsê và các ngôn sứ ngõ hầu dân này nhìn nhận Người như vị
Thiên Chúa duy nhất hằng sống và chân thật, là Cha quan phòng và Thẩm phán chí
công, và hướng họ đến sự trông đợi Đấng Cứu Thế được hứa ban, nhờ vậy, qua bao
thế kỷ Người đã dọn đường cho Phúc âm.[8]
Lời loan báo về Đấng Cứu Thế khởi đầu bằng việc
Thiên Chúa phán với con rắn sau khi Ađam và Eva phạm tội: “Ta sẽ gây mối thù
giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và
dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St
3,15). Đây là một câu rất quan trọng, Thiên Chúa đặt
mối thù giữa quyền lực sự ác do Satan mà ra và dòng giống người nữ; dù con rắn
luôn tìm hại loài người, nhưng loài người sẽ thắng. Câu này được coi là “Tin
Mừng tiên khởi” cho con người, bởi vì ngay sau khi nguyên tổ phạm tội đáng phải
chết, Thiên Chúa đã mở ra một chân trời hy vọng, Thiên Chúa hứa ban cho con người Đấng cứu độ, để từ đó mọi sinh linh
phát xuất từ Đấng ban sự sống đều sẽ chiến thắng quyền lực sự ác của ma quỷ.
2. Giao ước và sấm ngôn
tiên báo Ngôi Lời Nhập
Thể
Tất cả lịch sử dân Israel là một sự chuẩn bị để loan báo công cuộc Nhập
thể của Con Thiên Chúa. Điểm độc đáo của lịch sử này là hành động của Thiên
Chúa trên con người được phát khởi qua sự hiện diện cách đặc biệt của Thiên
Chúa giữa cuộc sống họ, sự hiện diện này trở nên hoàn trọn khi Ngôi Lời mặc lấy
xác phàm và cắm lều ở giữa nhân loại.
Sứ điệp mặc khải Cứu độ của Thiên Chúa dành cho dân Israel qua các Tổ phụ
và các ngôn sứ xuất phát bởi lòng thương xót và từ tâm của
Người. Trong mặc khải, Thiên Chúa nói bằng ngôn ngữ con người để loan báo và
chuẩn bị cho thời điểm Lời hằng hữu của Thiên Chúa trở thành người phàm: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua
các ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phản dạy chúng ta qua
Thánh Tử” (Dt 1,1-2). Thánh tông đồ Phaolô viết, Đức Kitô
đến trần gian “lúc thời gian tới hồi viên
mãn” (Gl 4,4), đây là thời gian Thiên Chúa tỏ hiện theo như lời các ngôn sứ
loan báo, “mọi lời hứa của Thiên Chúa đều
trở thành Amen nơi Người” (2Cr 1,20), nghĩa là đạt đến chung cuộc mỹ mãn,
đỉnh cao của mặc khải.
Ta có thể nói rằng toàn bộ lịch sử dân
Israel làm chứng về Đức Giêsu Kitô cách tỏ tường qua Giao ước Thiên Chúa thiết lập với con người. Đầu tiên phải
kể đến Giao ước giữa Thiên Chúa với ông Noê sau cơn lụt hồng thuỷ (x. St 9-10),
sau đó tới Giao ước với ông Apraham (x. St 15-17), với Giao ước này, Thiên Chúa
có sáng kiến và đã đi bước trước, Người hứa ban cho ông một dòng dõi đông đảo
như cát bãi biển, biến nó thành dân lớn mạnh, Người ban cho dân này một miền
đất hứa, qua trung gian dân tộc này Người sẽ làm cho muôn dân nước được thừa
hưởng phúc lành. Lời hứa đó lại trở nên sáng tỏ hơn nữa trong lời chúc lành có
tính chất ngôn sứ mà ông Giacop nói với con là Giuđa: “Giuđa là một con sư tử non, vương trượng sẽ không khỏi Giuđa, gậy chỉ
huy sẽ không lìa đầu gối nó, cho đến khi người làm chủ vương trượng đến, người
mà muôn dân phải vâng phục” (St 49, 9-10). Còn lời sấm của Balaam
thì nói đến một vương trượng sẽ
chỗi dậy trong dân Israel, một vị thống lãnh, một ngôi sao mọc lên từ nhà
Giacop (x.Ds 24,15-19). Như vậy,
theo cách đó, Thiên Chúa đã loan báo và hứa ban ơn cứu độ phổ quát.
Tiếp đến, lời sấm của ngôn sứ Nathan (x.2Sm 7) đặc biệt
quan trọng của Giao ước. Lời sấm này loan báo Đấng Mêsia, vốn đã được trông đợi
từ thời xa xưa, sẽ xuất thân từ dòng dõi vua Đavit, và sẽ trị vì không chỉ trên
dân Israel mà còn trên tất cả các dân nước. Thiên Chúa sẽ bảo đảm cho triều đại
nhà Đavit được lưu tồn vạn đại, đây là một “Giao
kết vĩnh cửu” (x. 2Sm 23,5). Chính Đấng Mêsia ấy sẽ là đối tượng được đề
cập trong rất nhiều bản văn các ngôn sứ tiếp sau: việc Giáng sinh của Ngài tại
Bêlem được loan báo bởi ngôn sứ Mikha (x. Mk 5,1); việc Ngài xuất thân từ dòng
dõi Đavit được tái khẳng định bởi ngôn sứ Isaia, ngôn sứ đã loan báo rằng Đấng
Mêsia sẽ được gọi là Emmanuel (Thiên Chúa ở cùng chúng ta): “Này đây người
trinh nữ mang thai sinh hạ con trai, và đặt tên là
Emmanuel (Is 7,14). Lời tiên báo này được áp dụng cách minh nhiên cho Đức
Kitô trong Tân Ước (x. Mt 1,22-23), Isaia gọi Đấng Mêsia là Thiên Chúa dũng
mãnh (chứ không gọi Ngài là sức mạnh của Thiên Chúa, một kiều nói mà trong
tiếng Hipri có lẽ sẽ thích hợp hơn khi dùng để chỉ về một người phàm), là “người Cha muôn thuở, Thái Tử hòa bình” (Is 9,5).
Ngôn sứ Giêrêmia thì không dành
cho Đấng Mêsia bất kỳ tước hiệu thần linh nào, ngoài chính danh xưng Giavê:
Này, sẽ tới những ngày -
sấm ngôn
của Đức Chúa - Ta sẽ làm nảy sinh cho nhà Đavit một
chồi non chính trực. Vị vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, vua sẽ thi hành điều chính
trực công minh. Thời bấy giờ, Giuđa sẽ được cứu thoát, Israel được sống yên
hàn. Danh hiệu người ta tặng vua ấy sẽ là: Đức Chúa, sự công chính của chúng ta (Gr 23,5-6).
Như thế, Giao ước là sự chuẩn bị cho ơn cứu độ sẽ được
Đấng Cứu thế thực hiện nơi một dân tộc mà từ đó Ngài sẽ sinh ra; thêm vào đó,
với sự sáng tỏ tăng dần theo thời gian, Giao ước loan báo rằng Đấng Cứu Thế
thuộc hoàng tộc vua Đavit, Ngài là một con người, đồng thời Ngài cũng là vị Thiên Chúa uy hùng ở cùng chúng ta.
Mặt khác, Giao ước là một tiên trưng, tức là một hình ảnh báo trước về biến cố Nhập thể; thật vậy, qua
Giao ước, Thiên Chúa bước vào tương quan với con người theo một cách thức tương
tự như tương quan giữa người với người, tạo nên một tương quan hết sức bền
chặt, hoặc được xem như tương đương với một hôn ước (Gr 3,19-22; Is 54,5-8).
Có thể nói Giao ước là hình ảnh tiên báo và chuẩn bị
cho cuộc Nhập thể cứu độ của Đấng Mêsia, bởi vì chính nơi Đức Kitô, Giao ước
trở nên hoàn hảo nhất và có tính chung cuộc giữa Thiên Chúa và con người đã
được thực hiện: Ngài sẽ là Thiên Chúa thật và là người thật trong một ngôi vị
duy nhất, và Ngài sẽ thiết lập trong Máu Giao ước mới giữa toàn thể nhân loại
với Thiên Chúa (x. Mt 26, 28; 1 Cr 11, 25). Còn những sấm ngôn các ngôn sứ nhằm
nói đến Đấng Mêsia như một vị vua, nói đến triều đại phổ quát của Ngài, đồng
thời cũng cho thấy rằng chính trong triều đại này mà muôn dân sẽ được hưởng ơn
cứu độ. Trong những sấm ngôn này, viễn cảnh cứu độ và phổ quát không thể tách rời khỏi vương quyền của hậu duệ Đavit. Những lời hứa
cứu độ đó được thành toàn qua trung gian một Giao Ước
mới, Đức Kitô là hậu duệ của Đavit, là vị ngôn sứ chung cuộc, là vị Cứu tinh thời cánh chung, là Người Tôi tớ Thiên Chúa, là
Đấng sẽ cứu dân mình thoát khỏi tội lỗi, đem ơn cứu độ cho muôn người.[9]
3. Lòng thương xót của
Thiên Chúa
qua mầu nhiệm Nhập Thể
qua mầu nhiệm Nhập Thể
Ngay những trang đầu của Kinh thánh, chúng ta đã bắt gặp một Thiên Chúa của lòng xót thương. Ngay khi nguyên tổ
phạm tội bất tuân phục Thiên Chúa, chúng ta đã nghe lời hứa cứu độ
của Thiên Chúa: “Ta sẽ đặt mối thù giữa
mi và dòng giống người phụ nữ, và dòng giống người phụ nữ ấy sẽ đạp dập đầu mi”
(St 3,15). Lời hứa cứu độ ấy chính là lời Tin Mừng loan báo về lòng xót
thương của Thiên Chúa, được thực hiện nơi Đức Giêsu, Ngôi Lời Nhập thể.
Thiên Chúa là Đấng có trái tim, trái
tim biết “nổi giận trong giây lát” nhưng sau đó “yêu thương cả ngàn đời”, đó là
lòng từ bi lân tuất, là yếu tính thiện hảo của Người. Như thế, sứ điệp lòng
thương xót của Thiên Chúa không phải là sứ điệp ơn thánh “mị dân”. Đúng hơn,
trong lòng thương xót của Người, Thiên Chúa kìm hãm cơn thịnh nộ chính đáng của
Người. Thực vậy, Người kìm hãm chính mình, Người làm thế để kiên nhẫn chờ đợi
con người hoán cải. Lòng thương xót của Thiên Chúa ban cho người ơn công chính,
chờ mong họ trở về:
Ta bỏ ngươi trong chốc lát,
nhưng với lòng cảm thương vô hạn, Ta sẽ gom ngươi lại. Trong cơn thịnh nộ bừng
bừng chốc lát, Ta đã dấu mặt Ta khỏi ngươi, nhưng với tình yêu muôn thuở, Ta sẽ
cảm thương ngươi […]. Vì núi có thể ra đi và đồi có thể chuyển rời, nhưng tình
yêu bền vững của Ta sẽ không đi khỏi ngươi, và giao ước bình an của Ta sẽ không
chuyển rời, Chúa Thượng, Đấng cảm thương ngươi, nói thế (Is 54:7-8, 10). [10]
Quả thật, sứ điệp thương xót của Thiên Chúa trong Cựu Ước không đơn giản
chỉ là sứ điệp đơn thuần thiêng liêng, nhưng là một sứ điệp về sự sống, “Người không hề vui trước cái chết của kẻ có
tội, Người vui mừng khi người có tội ăn năn” (Ed 18,23; 33,11). Qua Tân Ước, Đức Giêsu tiếp nhận sứ điệp của
Cựu Ước và mạc khải rằng, “Thiên Chúa
không phải là Đấng của kẻ chết, đúng hơn là Thiên Chúa của người sống” (Mc 12,27; Mt 22,32; Lc 29,38).[11]
Chính Đức Giêsu đã nói về mình: “Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa
những gì đã hư mất”(Lc 19,10; Mt 18,11); Chỗ khác Tin
Mừng nói: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án
thế gian, nhưng để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3,17). Ngôi Lời là ánh sáng thế
gian (Ga 8,12), là sự sống (Ga 14,6) và nguồn mạch sự sống: “Chúa Cha làm
cho kẻ chết trỗi dậy và ban sự sống cho họ thế nào, thì người Con cũng ban sự
sống cho ai tuỳ ý (Ga 5,21). Ngoài ra, thánh Phaolô khi viết cho Timôthê
cũng nói: “Đức Giêsu Kitô đã đến thế gian
để cứu những người tội lỗi” (1Tm 1,15). Còn Hội Thánh đã nhiều lần khẳng
định một chân lý cứu độ của Con Thiên Chúa, “Ngài đã từ trời xuống
thế, bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Ngài nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria,
và đã làm người” (Kinh Tin kính). Rất nhiều bản văn khác cho thấy mục
đích của việc Nhập thể, hoặc bằng cách đưa ra một cái nhìn toàn bộ, hoặc soi
sáng một vài khía cạnh của vấn đề. Vậy, những việc làm của Đức Kitô chứng tỏ
rằng Ngài là Con Thiên Chúa, được sai đến gánh lấy tội nhân trần, làm cho thế
gian được sống.
Vì thế, sứ mạng của Đức Giêsu Kitô, hay nói cách khác,
mục đích của việc Ngôi Lời Nhập thể chính là giải thoát con người khỏi tội
lỗi nhờ vào mầu nhiệm mặc lấy xác Ngài.[12]
Dù rằng mục đích của việc Nhập thể là cứu độ con người, nhưng điều này không có
nghĩa là Đức Giêsu Kitô phải lệ thuộc vào con người, mà hiểu theo nghĩa Thiên
Chúa Cha đã muốn Đức Giêsu như phương thế để cứu độ nhân loại, bởi đó, Đức
Giêsu tự chính Ngài, là nguồn ơn cứu độ cho con người chứ không chỉ là một
phương tiện qua đó con người đạt đến ơn cứu độ. Thật vậy nhân loại được cứu độ
trong Đức Kitô hay không, bản thân từng người có đạt đến ơn cứu độ hay không là
tuỳ vào mức độ liên kết với Ngài. Vì Ngài đã khẳng định rằng ai đón nhận Con
Người thì sẽ được cứu, còn ai từ chối Ngài thì sẽ bị hư mất (x. Mt 16,24-25)
Đức Kitô là quà tặng lòng thương
xót của Thiên Chúa dành cho con người, vì thế việc Nhập thể là sự biểu lộ tuyệt
hảo tình yêu Thiên Chúa, một sự biểu lộ tuyệt mức kết thành ân huệ tặng không.
Đức Giêsu “vốn dĩ là Thiên Chúa”
nhưng đã “trở nên phàm nhân” cũng là
một ân phúc cho tất cả những ai thông dự vào cùng một bản tính với Ngài: “Trong Ngài, bản tính nhân loại đã được đảm
nhận, nhưng không vì thế mà bị huỷ hoại; và vì thế, bản tính này đã được nâng
lên đến một phẩm cách tuyệt tác, cũng là
vì phần phúc của chúng ta”.[13]
Khi chiêm ngắm sứ điệp thương xót của Thiên Chúa qua
Ngôi Lời Nhập thể, thánh Phaolô coi việc Nhập thể như một sự tước bỏ chính mình (x. P1 2, 5-11), sự
tước bỏ đó hệ tại việc trở nên người phàm và gánh lấy trên vai toàn bộ lịch sử
nhân loại, đồng thời hệ tại việc vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá.
Điều này thực ra không đi ngược lại với sự hoàn hảo gắn liền với bản tính thần
linh của Ngôi Lời:
Điều gì thuộc về chính bản tính của mỗi vật thì phù
hợp với vật ấy [...]. Bản tính của Thiên Chúa là sự thiện hảo. Do vậy, tất cả
những gì thuộc về lý tính của sự thiện thì phù hợp với Thiên Chúa. Đặc tính của sự thiện là
thông ban chính mình cho vật khác [...]. Do đó, điều phù hợp với sự thiện tối
cao đó là thông ban mình cho thụ tạo theo cách thức trổi vượt nhất.[14]
Do đó, việc Nhập thể là một sự biểu lộ của tình yêu vô
biên của Thiên Chúa dành cho con người: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nối đã
ban Con Một, để ai tin vào Con cùa Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống
muôn đời” (Ga 3,16). Đặc tính của
tình yêu thì phù hợp với bản tính Thiên Chúa, bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu”
(1 Ga 3,8). Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã viết:
Trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa của công trình
sáng tạo tỏ mình ra như vị Thiên Chúa của công cuộc cứu chuộc, như vị Thiên
Chúa ‘trung tín với chính mình’ (1Tx 5,24), trung tín với tình yêu Người dành
cho nhân loại, là tình yêu được biểu lộ ngay từ cuộc tạo dựng [...]. Và nhất là
tình yêu thì lớn hơn tội lỗi, hơn sự yếu hèn, hơn sự sa ngã của thụ tạo (Rm
8,20), thậm chí còn hơn cả sự chết; chính tình yêu luôn sẵn sàng vực dậy và tha
thứ, sẵn sàng đi gặp đứa con hoang đàng (x. Lc 15, 11-32), luôn tìm cách mạc
khải vinh quang con cái Thiên Chúa (Rm 8,19). Sự mạc khải tình yêu này còn được
định nghĩa là lòng lân tuất (x. ST
III, q. 46, a.1, ad 3), sự mạc khải về tình yêu và lòng lân tuất đó trong dòng
lịch sử nhân loại mang một dạng thức và một tên gọi: Giêsu Kitô.[15]
Kết
luận
Nhập thể quả là một mầu nhiệm lớn lao đối với chúng
ta, mầu nhiệm này chúng ta chỉ có thể diễn tả bằng cách khẳng định rằng trước
khi nhập thể, Ngôi Lời không phải là con người, và kể từ biến cố Nhập thể, Ngôi
Lời là một con người; thế nhưng trong tất cả những sự ấy không hề có một sự
thay đổi nào xảy ra trong chính Ngôi Lời. Vì thế, chúng ta đang tiếp cận một
trong sự biểu lộ siêu nhiên theo nghĩa chặt về mầu nhiệm của những tương quan
giữa cái hữu hạn và Đấng vô hạn, giữa cái tương đối và Đấng tuyệt đối, giữa
thời gian và vĩnh cửu; đó là những tương quan mà tâm trí con người không thể
hiểu cho tường tận.
Chúng ta chỉ
có thể bập bẹ nói rằng, Thiên Chúa, Đấng tạo tác vũ trụ và làm chủ công trình
tạo dựng, Đấng quyền năng và chí thánh, Đấng là cùng đích muôn loài muôn vật…
đã nghiêng mình xuống trần, nhập thể trong một con người hèn mọn như bao con
người; Ngài nhập cuộc với đời để chia sẽ buồn vui kiếp người, để từ đây Thiên
Chúa và con người không còn khoảng cách xa lạ, nhưng bước vào một tương giao
gần gũi thân mật, đến nỗi con người có thể đối thoại, đụng chạm, gắn bó một
cách thực sự và trực tiếp. Khi nghĩ đến đây, những người có đức tin chân chính
không khỏi thổn thức trước ân ban quá lớn lao Thiên Chúa ban tặng cho nhân
trần.
Tuy nhiên,
không phải mọi người đã nhận biết Thiên Chúa, “Người đã đến nhà mình, và những kẻ thuộc về Người đã không đón nhận
Người” (Ga 1,11). Xin Cho mọi người nhận biết Thiên Chúa, đón nhận quà tặng
lòng thương xót Người đã hào phóng ban tặng nhân loại chúng ta.
[2] Xc. Denzinger, Enchiridion, 86.
[3] Walter Drum (Jos. Hòa
Bình, OP chuyển ngữ), “Mầu Nhiệm Nhập Thể”.
Truy cập 22/09/2016, http://catechesis.net
[4] Fernando
Ocariz – Lucas F. Mateo Seco – Jose Antonio Riestra (Lâm Văn Sỹ bd), Mầu nhiệm Kitô học, (Roma, 2000), tr
149.
[9]
Fernando Ocariz – Lucas F. Mateo Seco – Jose Antonio Riestra (Lâm Văn Sỹ bd), Mầu nhiệm Kitô học, (Roma, 2000), tr 65.
[11] Walter
Kasper (Vũ Văn An bd), Lòng thương xót, yếu tính của Tin Mừng và
chìa khóa dẫn vào đời sống Kitô hữu, Truy cập 01/10/2016, http://catechesis.net
[13] Gioan Phaolô II, Redemptor hominis, số 8.
[14] ST
III, q.1, a.1
[15] Gioan Phao lô II, Thông điệp Redemptor hominis, số 9.
Đăng nhận xét