Sống Tinh Thần Nhập Thể


Sống Tinh Thần Nhập Thể
Mầu Nhiệm Nhập Thể là cách thế tuyệt đẹp
Thiên Chúa đã thể hiện tình yêu và lòng thương xót của Người đối với nhân loại. Chính trong Mầu Nhiệm Nhập Thể
mà con người được cảm nhận sâu sắc tình yêu của Thiên Chúa và nhất là được ở giữa tình yêu của Người
trong tương quan hai chiều: hướng thần và hướng tha.
Nét Bút Chì, MTG Bà Rịa
Dẫn nhập
Ngay từ buổi bình minh sáng tạo thì kế hoạch của Thiên Chúa là dựng nên con người để con người được sống hạnh phúc trong tình yêu viên mãn của Thiên Chúa. Hạnh phúc ấy con người đã bị đánh mất khi đã bất tuân lệnh truyền của Thiên Chúa. Nguyên tổ đã trốn chạy thánh nhan Ngài. Trái tim Thiên Chúa đã quặn đau, Ngài đã không bỏ mặc con người nhưng vẫn khẳng định tình yêu viên mãn dành cho con người. Nên Ngài đã ban Người Con duy nhất cho thế gian.
Con Thiên Chúa đã Nhập Thể để đến với con người, sống giữa con người “Ngài trở nên giống anh em mình trong mọi sự, trừ tội lỗi” (Dt 3,17; 4,15). Đức Giêsu đã sống giữa con người từ Belem đến Núi Sọ. Ngài mặc khải tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Đức Giêsu là đầu, Ngài đã Nhập Thể để sống giữa con người, Giáo Hội là chi thể của Đức Kitô, Giáo Hội không thể tách biệt với đầu. Do đó, Giáo Hôi được mời gọi bước đi trong tinh thần Nhập Thể để cùng đồng hành với nhân loại làm cho mọi người trở nên môn đệ của Đức Kitô, dẫn họ đến với tình yêu và lòng thương xót của Ngài.
Người tu sĩ là người được “ở lại với Chúa để được Người sai đi” (Mc 3,14). Qua việc sống ba lời khuyên Phúc Âm với tiến trình: thấy - cảm – làm - xây dựng tình liên đới. Họ đã thực sự trở nên men trong bột (Mt 13, 33) hay nên hạt lúa vùi vào lòng đất (Ga 12, 24). Đó là cách thức họ sống tinh thần Nhập Thể để khơi lên niềm vui nơi người khác, như việc nếm trước Nước Trời.[1]
Mỗi Kitô hữu Việt Nam bước đi trong ánh sáng Tin Mừng và trong lòng mẹ Giáo Hội, họ cũng được mời gọi sống tinh thần nhập thể nơi chính quê hương đất nước của mình, nơi môi trường mình đang sống và làm việc bằng những việc nhỏ bé nhưng rất cụ thể.
1. Ngôi Lời đã làm Người…
Tình yêu không phải là cái gì trừu tượng nhưng là một thực tại mà người ta có thể thấy được qua hành động nên Con Thiên Chúa đã chọn cách thể hiện tình yêu bằng Mầu Nhiệm Nhập Thể.
“Nhập Thể” mang một ý nghĩa rất quan trọng trong sứ mạng của Con Thiên Chúa: Ngài không ở bên trên, bên dưới hay bên lề cuộc đời. Linh mục Nguyễn Tầm Thường nói:  “Thiên Chúa không yêu thương con người bằng cách từ trên cao nhìn xuống. Thiên Chúa không cứu độ con người bằng cách ở trên cao vớt con người lên”[2]. Vâng, mầu nhiệm Nhập Thể đã đưa Ngài đi vào cuộc đời “Ngôi Lời đã làm Người và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Khi mặc lấy xác phàm, Đức Kitô đã mang vào thân thể Người cuộc sống của nhân loại với tất cả niềm vui và nỗi buồn.
Với chủ trương sống “giữa” để trở nên thật gần gũi với con người, Ngài đã sống âm thầm giữa làng quê Nazaret trong một ngôi nhà đơn sơ của người lao động và làm việc bằng chính đôi tay của mình để sinh sống. Khi Người bắt đầu rao giảng về Vương Quốc, những đám dân bị bóc lột đi theo Người và như thế đã biểu lộ được điều Người nói: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn”(Lc 4, 18). Đối với kẻ gánh chịu đau khổ, nghèo đói, Người bảo đảm rằng Thiên Chúa sẽ ôm lấy họ trong con tim của mình: “Phúc cho anh em là kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6, 20); Người tự đồng hoá với họ: “vì xưa Ta đói các ngươi cho ăn” (Lc 25, 35); Người dạy rằng lòng thương xót đối với họ là chìa khoá cửa thiên đàng.[3]
Tình yêu là sự vĩnh cửu nên nó không có điểm dừng, Tình yêu ấy chỉ xuất phát và tồn tại trong Thiên chúa mà thôi nên Ngài đã hứa hiện diện giữa nhân loại luôn mãi “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Quả thực, Mầu Nhiệm Nhập Thể là cách thế tuyệt đẹp Thiên Chúa đã thể hiện tình yêu và lòng thương xót của Người đối với nhân loại. Chính trong Mầu Nhiệm Nhập Thể mà con người được cảm nhận sâu sắc tình yêu của Thiên Chúa và nhất là được ở giữa tình yêu của Người trong tương quan hai chiều: hướng thần và hướng tha. Theo Đức Thánh Cha Phanxicô: Lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ một cách cao cả và trọn vẹn nhất nơi Ngôi Lời Nhập Thể. Đức Giêsu mặc khải khuôn mặt của Cha, Đấng giàu lòng thương xót; Người “dùng các kiểu so sánh và các dụ ngôn để nói và cắt nghĩa về lòng thương xót, nhưng trên hết chính Người làm cho lòng thương xót trở thành nhập thể và nhân cách hoá” (Gioan Phaolô II, Dives in Misericordia, 2). Khi chúng ta tiếp đón và đi theo Đức Giêsu bằng Tin Mừng và các bí tích, với ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể trở thành những con người có lòng thương xót như Cha trên trời là Đấng xót thương; chúng ta có thể học biết yêu thương như Người yêu thương chúng ta và biến cuộc đời chúng ta trở thành một món quà cho không, một dấu chỉ lòng nhân ái của Người (x. Misericordiae Vultus, 3).[4]
2. Giáo Hội sống tinh thần Nhập Thể
Thiên Chúa đã Nhập Thể và đi vào lòng đời để ở giữa nhân loại. Hôm nay, Giáo Hội cũng được mời gọi sống tinh thần Nhập Thể để ở giữa anh chị em đồng loại “giúp họ trải nghiệm tình yêu tình thương của Thiên Chúa. Vì Hội Thánh được sai đi loan báo lòng thương xót của Thiên Chúa, trái tim đang đập của Tin Mừng” (Misericordiae Vultus, 12) và công bố lòng thương xót tại mọi góc cùng của thế giới, đến với hết mọi người, người già cũng như người trẻ.[5]
Điều kiện đầu tiên và thiết yếu để Giáo hội sống tinh thần Nhập Thể là phải “đi ra”. Theo Đức Thánh Cha Phanxicô: Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đoàn phải trao đổi với nhau về con đường mà Chúa đòi hỏi, nhưng tất cả chúng ta phải vâng theo tiếng gọi của Ngài là ra khỏi vùng đất tiện nghi của mình để đến với mọi vùng ‘ngoại vi’ đang cần ánh sáng Tin Mừng[6]. Bởi Giáo Hội được Chúa Kitô thiết lập là để sống tinh thần Nhập Thể của Chúa Kitô nghĩa là làm người ở giữa mọi người: chia sẻ thân phận nghèo khó của người nghèo để nâng cao phẩm giá của họ. Có như thế thì Giáo Hội mới thực sự là Giáo Hội của người nghèo, Giáo Hội phục vụ người nghèo, Giáo Hội ưu ái người nghèo… Mà Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: Chúng ta hãy thử cố gắng hơn một chút để đi bước trước và dấn thân. Đức Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ. Chúa dấn thân và mời gọi các môn đệ dấn thân, khi Ngài cúi xuống rửa chân họ. Ngài bảo các môn đệ: “Nếu anh em thực hành, thì phúc cho anh em!” (Ga 13:17). Chính hành động và cử chỉ , tự đặt vào cuộc sống hằng ngày của người khác, thu ngắn khoảng cách, tự hạ cho đến khiêm tốn nếu cần thiết và đón nhận cuộc sống nhân bản, đụng chạm vào thân thể đau khổ của Đức Kitô nơi người khác. Có như thế thì chúng ta mới có “mùi của chiên”[7].
Vâng chỉ khi dám “đi ra” thì Giáo Hội mới trở thành khí cụ cho Thiên Chúa để giải phóng và thăng tiến người nghèo để họ có thể hội nhập vào xã hội, điều này đòi buộc Giáo Hội phải chân thành lắng nghe tiếng kêu gào của người nghèo và chạy đến giúp đỡ.[8] Thánh Gioan Kim Khẩu dạy:
Anh em muốn tôn kính thân thể Chúa Kitô thì đừng bỏ qua Ngài khi Ngài trần truồng. Đừng tôn vinh Ngài với đủ thứ gấm vóc lụa là trong đền thờ, trong khi lại bỏ mặc khi thấy Ngài đang run lạnh và trần truồng ngoài trời. Đấng đã nói: “đây là Mình Thầy” cũng chính là Đấng đã nói: “các con đã thấy ta đói mà không cho ăn…” Có ích gì khi bàn Thánh Thể thì chất nặng những chén lễ bằng vàng, trong khi Đứ Kitô đang hấp hối vì đói khát? Hãy cho Ngài hết đói khát đã, rồi mới lấy những gì còn lại mà trang trí bàn thờ.[9]
Khi Giáo Hội không dám “đi ra”, khi Giáo Hội tách mình ra khỏi kiếp nhân sinh để chỉ lo cho sự an toàn của mình thì thật là điều đáng buồn. Thi sĩ Tagore miêu tả:
Mặc áo Hoàng Tử, đeo ngọc quý quanh cổ,
con sẽ mất hết hứng thú lúc chơi đùa,
áo làm vương vít từng bước chân đi.
Những sợ áo rách, rồi đất bụi dính vào,
con tách mình khỏi nhân sinh cuộc thế,
và chẳng hề dám nhúc nhích, cựa mình.
Mẹ, nếu tách con khỏi bụi trần gian trong lành,
ngăn không cho con vào hội chợ tưng bừng của nhân sinh,
bình dị, áo quần mẹ cho sẽ buộc giàng vô ích , mẹ ơi![10]
Quả thật, Giáo Hội không thể tách mình ra khỏi kiếp nhân sinh. Bởi khi từ chối “đi ra” để “sống giữa” thì Giáo Hội có lỗi rất lớn đối với Đấng đã tin tưởng trao sứ mạng “chính anh em là chúng nhân của Thầy.”
Thứ đến là Giáo Hội được Chúa Kitô thiết lập là để thực hiện lý tưởng: “làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy” (Mt 28, 19) mà đặc điểm chính yếu của người môn đệ là “anh em phải thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34-35). Thế nên khi đi qua các con đường của thế giới, các môn đệ của Chúa Giêsu phải có một tình yêu vô biên, cùng một mức độ yêu thương như Chúa đã yêu thương mọi người. Chúng ta công bố những hồng ân đẹp nhất và lớn nhất mà Người đã ban cho chúng ta: sự sống và tình yêu của Người[11].
Giáo Hội chỉ trở thành người công bố Tin Mừng Tình yêu khi Giáo Hội thể hiện tinh thần Nhập Thể cách cụ thể như Thầy mình đã thực hiện. Nhìn vào thực tế, ta thấy Giáo Hội đã và đang phục vụ người nghèo, những người bị gạt ra bên lề xã hội, những người đau khổ về thể xác cũng như tinh thần bằng việc: giúp đỡ người nghèo, mở các cô nhi viện, các nhà nhỡ, những trung tâm chăm sóc người cùi, người mắc bệnh Sida hay mái ấm nuôi dạy người khuyết tật, người khiếm thị, mở các bệnh xá rồi những công tác cứu trợ… Có thể nói việc này ai cũng có thể làm được nhưng nó chỉ khác nhau ở động cơ thúc đẩy người ta làm. Bởi có người làm vì lòng thương hại, có người để được danh tiếng, có người làm để quảng bá thương hiệu nhưng cũng có người làm vì tình yêu.
Nếu những gì người ta làm cho nhau mà thiếu yếu tố tình yêu thì nó sẽ qua đi nhanh chóng. Giáo Hội luôn trung thành sống tinh thần Nhập Thể, thế nên mọi việc Giáo Hội làm đều phát xuất từ tình yêu và sự liên đới với tha nhân. Nên những công trình ấy không bị bóp ghẹt trước sức ép của các thế lực khác, trái lại ngày càng phát triển mạnh mẽ. Nhìn vào công trình của các thánh như: Gioan Thiên Chúa, Lasan, Don Bosco, Mẹ Têrêsa Calcutta… ta thấy rõ điều này, chính những hành động yêu thương này thể hiện đặc tính của người môn đệ Chúa Kitô. Chúng ta làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Chúa Kitô không phải nhờ việc cải tạo; trái lại đức tin lớn lên nhờ đức tin và đức ái[12]. Hay như lời thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói:
Giáo Hội sống đời sống chân thực khi Giáo Hội tuyên xưng và loan báo tình thương - một phẩm tính kỳ diệu nhất của Đấng Hoá Công và của Đấng Cứu Chuộc, cũng như khi Giáo hội mang con người đến gần với Nguồn mạch tình thương của Đấng Cứu Thế, một tình thương mà Giáo hội là ký thác viên và là nơi chất chứa.[13]
3. Người Tu sĩ sống tinh thần Nhập Thể
Nơi Mầu Nhiệm Nhập Thể, Đức Giêsu đã cưu mang trong chính bản thân mình trọn vẹn thân phận của một con người để hiện diện: sống với và sống giữa con người. Đó là một sự chon lựa đầy sáng kiến và yêu thương. Từ đó, Đức Giêsu đã mở ra một hành trình gặp gỡ trong tư cách là người anh em chung thân đồng phận với con người. Thế nên khi chọn lý tưởng sống đời Thánh Hiến để bước theo sát dấu chân của Đức Kitô, người tu sĩ cũng được mời gọi số tinh thần Nhập Thể để tiếp nối và hoàn tất sứ mạng cứu rỗi của Người (x. Cl 1, 24). Do đó, điều thiết yếu là người tu sĩ cần có trái tim thương cảm để chia sẻ, thoa dịu nỗi khổ đau của anh chị em đồng loại.[14] Theo Linh Mục Nguyễn Công Đoan: “khi trái tim rung động thì đôi tay sẽ mở ra, đôi chân sẽ bước đi và khối óc sẽ suy nghĩ.” Để con tim có thể rung động trước nỗi khổ đau của anh chị em đồng loại thì cần phải “thấy”. Chúng ta không thể thấy nếu chúng ta sống tách biệt với anh chị em mình, cũng không thể nào thấy nếu chúng ta không “đi ra”.
Lời Khấn Khó Nghèo giúp người Tu sĩ tự nguyện sống nghèo, khước từ giàu sang vật chất. Họ không muốn trang sức cho dáng vẻ bên người cầu kỳ, hấp dẫn; trái lại họ lấy sự thanh bần mà chinh phục cuộc đời, lấy sự khiêm nhường làm điểm tựa vững chắc cho mọi hành động. Đó là con đường giúp họ đi vào cuộc đời: vượt qua những ranh giới phân cách giữa con người với nhau để có thể hiện diện một cách sống động bên cạnh anh chị em mình, đồng thời thấy được nhu cầu của họ. Từ cái thấy đó làm cho trái tim rung động.
Lời Khiết Tịnh là nền tảng xây dựng đời người Tu sĩ trên tình yêu Thiên Chúa được trải rộng ra với con người. Họ không được để trái tim mình thuộc về một người hay một đối tượng nào, có thể nói họ rất tham lam khi tự nguyện yêu mọi người trong Thiên Chúa. Như vậy, Khiết Tịnh làm cho người tu sĩ trở nên những hữu thể giàu tình cảm. Đó là yếu tố giúp họ dám hiểu và dám hành động theo lý lẽ của con tim mà đôi lúc lý trí không lý giải được. Thật vô nghĩa nếu việc thấy làm cho con tim rung động mà đôi tay không hành động.
Lời Khấn Vâng Phục làm cho người tu sĩ được tự do: tự do của người yêu mến. Họ biến cái tôi ích kỷ thành bao dung để làm theo thánh ý Chúa. Vâng Phục giúp họ mạnh mẽ Xuất Hành như Môsê để dẫn đưa con người đến miền đất mới của Tin Mừng. Sự tự do của vâng phục giúp người Tu sĩ không ngần ngại vượt gian khó như Madalêna để đem niềm vui của Đấng phục Sinh đến với mọi người.
Như vậy khi sống ba lời Khuyên Phúc Âm người sống đời Thánh Hiến không tách biệt khỏi thế gian nhưng được mời gọi thâm nhập vào cuộc đời như nắm men vùi vào trong bột (Mt 13, 33), như hạt lúa miến vùi vào lòng đất (Ga 12,24) để sống với, sống giữa và sống cho mọi người: chiều kích hiệp thông. Thật thế, sống ba lời khấn dẫn người tu sĩ đi vào tiến trình “chạnh lòng thương”: Thấy - cảm – làm - xây dựng tình liên đới.
Vâng, chính khi sống tinh thần Nhập Thể với tiến trình “chạnh lòng thương”: họ không trở nên xa lạ với anh em mình, họ không đúng khung mình trong khuôn khổ của lề luật, họ không đóng kín tâm hồn mình trong khuôn viên của tu viện. Trái lại, sống các Lời Khuyên Phúc Âm giúp người sống đời Thánh Hiến mở rộng trái tim: tự nguyện dâng hiến cho Thiên Chúa và phục vụ anh chị em đồng loại.[15]
4. Sống tinh thần Nhập Thể trong lòng dân tộc Việt Nam
Khi nhắc đến quê hương, đất nước thì trong tâm khảm mỗi người đều có niềm tự hào riêng về quê hương đất nước của mình. Những con người sống trên dãi đất hình chữ S luôn hãnh diễn về sự: đoàn kết, lòng trung thực, sự sáng tạo… Nó như nét son sáng chói nơi mỗi con người dân tộc Việt Nam. Thế nhưng có lẽ nét son này đang bị mai một. Bởi khi Việt Nam bước vào thời “mở cửa” với sự hội nhập ồ ạt của các nền văn hoá khác đã ảnh hưởng sâu rộng đến nền luân lý, đạo đức, nhân bản và tình người. Đó là nỗi băn khoăn lo lắng của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam:
Làm sao không âu lo trước tình hình đạo đức xuống cấp nghiêm trọng, tội ác gia tăng không những về số lượng mà cả về mức độ dã man, phá thai và nghiện ngập tràn lan, nhất là nơi giới trẻ! Làm sao vui được trước sự hoành hành của tệ nạn tham nhũng, vốn từ lâu đã được coi là quốc nạn nhưng đến nay vẫn không hề suy giảm! Làm sao không lo lắng trước tình trạng ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long, hạn hán tại các tỉnh Tây nguyên, thảm hoạ môi trường biển tại miền Trung! Đó là chưa kể đến mối đe doạ hằng ngày từ các thực phẩm bẩn và độc hại, có thể ngay trong các quầy hàng và trên bàn ăn của mỗi gia đình![16]
Bên cạnh đó, nền giáo dục quá chú trọng đến bằng cấp, nặng hình thức mà không quan tâm đủ đến giáo dục nhân cách và tâm hồn[17]. Người ta giật mình khi đọc được tin về trường hợp một em học sinh lớp 6 ở Sóc Trăng. Sau một tháng nhập học, đã bị nhà trường  gởi trả về trường tiểu học cũ để học lại lớp…1. Lý do: em chưa biết đọc, biết viết. Giải thích về trường hợp tréo ngheo này, cô hiệu trưởng trường tiểu học - nơi em vẫn được lên lớp đều đều từ 1-5 thật thà: Do là trường chuẩn quốc gia, chỉ tiêu mỗi năm một lớp không được có hơn một em ở lại lớp, vậy giáo viên cứ cho lên. Từ hiện tượng (chắc không phải là một này), có lẽ nên xem lại cách tổ chức và quan niệm về trường- lớp của ngành giáo dục.[18]
Chính sách kinh tế quá đề cao lợi nhuận và hiệu năng sản xuất mà không lưu ý đến môi trường sống của người dân[19]. Gần đây vấn đề ô nhiễm môi trường đang nổi cộm. Theo một kết quả nghiên cứu công bố năm 2008 của Ngân hàng Thế giới (WB), trên 10 tỉnh thành phố Việt Nam, xếp theo thứ hạng về ô nhiễm đất, nước, không khí, thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là những địa bàn ô nhiễm đất nặng nhất. Theo báo cáo của Chương trình môi trường của Liên hợp quốc, thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu châu Á về mức độ ô nhiễm bụi.
Theo báo cáo giám sát của Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, tỉ lệ các khu công nghiệp có hệ thống xử lí nước thải tập trung ở một số địa phương rất thấp, có nơi chỉ đạt 15 - 20%, như tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Vĩnh Phúc. Một số khu công nghiệp có xây dựng hệ thống xử lí nước thải tập trung nhưng hầu như không vận hành vì để giảm chi phí. Đến nay, mới có 60 khu công nghiệp đã hoạt động có trạm xử lí nước thải tập trung (chiếm 42% số khu công nghiệp đã vận hành) và 20 khu công nghiệp đang xây dựng trạm xử lí nước thải. Bình quân mỗi ngày, các khu, cụm, điểm công nghiệp thải ra khoảng 30.000 tấn chất thải rắn, lỏng, khí và chất thải độc hại khác. Dọc lưu vực sông Đồng Nai, có 56 khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động nhưng chỉ có 21 khu có hệ thống xử lý nước thải tập trung, số còn lại đều xả trực tiếp vào nguồn nước, gây tác động xấu đến chất lượng nước của các nguồn tiếp nhận... Có nơi, hoạt động của các nhà máy trong khu công nghiệp đã phá vỡ hệ thống thuỷ lợi, tạo ra những cánh đồng hạn hán, ngập úng và ô nhiễm nguồn nước tưới, gây trở ngại rất lớn cho sản xuất nông nghiệp của bà con nông dân.[20]
Còn ở Hà Nội, hàng triệu tấn bùn thải mỗi năm được đổ thẳng ra kênh mương, sông ngòi, các bãi đất trống mà chưa qua xử lý đã gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường và đang là nỗi bức xúc của người dân Hà Nội. Ngoài việc xả thẳng bùn thải ra các bãi đất trống, tình trạng xả chất thải xuống các dòng sông cũng diễn ra nghiêm trọng không kém. Do lượng nước sinh hoạt và nước thải công nghiệp xả trực tiếp không đủ làm lưu thông dòng chảy, nên chất thải hữu cơ đổ xuống sông đều lắng tại chỗ, gây ô nhiễm, khiến cho cả 4 con sông Tô Lịch, Kim Ngưu, Lừ, Sét lúc nào cũng đen kịt, đặc quánh như hắc ín. Mỗi năm lượng bùn tại các con sông dày lên khoảng 10cm. Việc nạo vét bùn ở sông nếu không được xử lý kịp thời mà cứ để lưu lại trong nguồn nước nhiều năm sẽ gây ách tắc dòng chảy và làm tăng nguy cơ ô nhiễm nặng trên các dòng sông.
Đáng nói, khối lượng bùn thải khổng lồ này sau khi nạo vét  phần lớn được đổ trực tiếp tại các bãi đổ ở ngoại thành mà chưa qua quá trình loại bỏ chất độc hại, tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm không khí, nguồn nước... Trong hàng trăm tấn bùn thải công nghiệp mỗi ngày được thải ra, phần lớn  là từ các hoạt động sản xuất thuộc da, kim loại, xi mạ GS-TSKH Lê Huy Bá - Viện trưởng Viện Khoa học công nghệ và quản lý môi trường - cho rằng, nếu không xử lý bùn thải mà đổ trực tiếp ra môi trường chỉ là chuyển ô nhiễm từ điểm này sang điểm khác. Bởi thực trạng ô nhiễm đã biến các tuyến kênh, mương tại Hà Nội sẽ trở thành dòng sông chết, hầu như không còn sinh vật nào có thể sinh sống. Do đó, nếu đổ bùn thải ra môi trường xung quanh thì cũng không cây cối nào sống được và còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người.[21]
Tình trạng thiếu minh bạch và yếu năng lực trong việc quản lý kinh tế và điều hành xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho tham nhũng và nhiều tệ nạn khác[22]. Thời sự trên đài truyền hình VTV1 gần đây cho biết, bội chi ngân sách từ đầu năm đến giờ đã hơn 100 tỷ đồng. Tại sao ngân sách lại bội chi? Có nhiều lý giải cho việc này như: đất nước đang phát triển, hội nhập nên phải chi phí cho đầu tư hạ tầng, phải xây dựng nông thôn mới… Nhưng nhiều người cho biết rằng đó còn do “phìm” bộ máy hành chính từ nhiều năm trước, từ thất thoát của một số doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, cho đến việc sử dụng vô tội vạ ngân sách công.
Liên quan đến việc duy trì, bảo dưỡng hệ thống cây xanh cho đô thị Hà Nội, con số dự đoán từng lên tới 886 tỷ đồng cho riêng năm 2016, gấp bốn lần so với 215 tỷ đồng năm 2011 là 215. Sở dĩ việc này được công khai vì chủ tịch UBNDTP Hà Nội thấy đó là một sự lãng phí lớn ngân sách Nhà nước trong bối cảnh bội chi. Sau khi làm việc với các doanh nghiệp tính lại đơn giá, mức chi để duy trì và bảo dưỡng cây xanh năm 2016 chỉ còn lại 178 tỷ , tiết kiệm hơn 700 tỷ cho vốn ngân sách.
Nếu như tất cả đều rà soát, làm đúng mục đích thì có lẽ không phải chi một lượng ngân sách “khủng” hằng năm. Nên mạnh dạn tìm hướng giải quyết kịp thời các việc lớn nhỏ khác. Tất cả cần minh bạch để những đồng tiền thuế của người dân đóng góp được sử dụng đúng chỗ, đúng mục đích, đem lại hiệu quả cho việc thúc đẩy phát triển kinh tế của đất nước[23].
Khuynh hướng sử dụng bạo lực dưới nhiều hình thức để giải quyết vấn đề hơn là lắng nghe và đối thoại.[24] Đứng trước bối cảnh của đất nước, mỗi Kitô hữu Việt nam được mời gọi sống tinh thần Nhập Thể bằng việc sống giới luật yêu thương cách cụ thể qua việc thể hiện tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, môi trường sống và nhất là được mời gọi xây dựng tình người dựa trên lương tâm ngay thẳng. Bởi không có vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng như vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Ki ô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không âm hưởng trong lòng họ[25].
Do đó, mỗi Kitô hữu Việt nam cần ý thức: mỗi hành động của chúng ta, dù nhỏ bé, đều góp phần tích cực hoặc tiêu cực, lành mạnh hoá hoặc huỷ hoại môi trường sống. Khi nói đến tình trạng biến đổi khí hậu qua việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên cách thiếu trách nhiệm, các giám mục Á Châu nhắc nhở người Công giáo những việc rất nhỏ như tiết kiệm nước, dùng loại đèn ít tiêu hao năng lượng, tắt điện khi không sử dụng, không đốt hoặc xả rác, không xử lý chất thải bừa bãi, không sử dụng hoá chất độc hại trong canh tác và sản xuất… Dẫu biết rằng khi thể hiện lối sống tinh thần trách nhiệm chúng ta sẽ thấy mình bị thua thiệt, ít lợi nhuận hơn so với những người xung quanh ta. Nhưng đổi lại ta thấy tâm hồn bình an, bởi “lời lãi cả và thế gian mà mất phần linh hồn nào được ích gì”. Bên cạnh việc sống tinh thần trách nhiệm thì các tín hữu Việt Nam còn được mời gọi:
Hãy can đảm sống theo lương tâm ngay thẳng giữa những cám dỗ. Với bối cảnh của đất nước như hiện nay khi hành động theo lương tâm ngay thẳng là cả một sự giằng co nội tâm để quyết định thực hành điều ngay thẳng, trung thực. Một khi chúng ta dám hành động theo lương tâm ngay thẳng  chúng ta sẽ trở khí cụ bình an của Chúa trong mọi hoàn cảnh, thành muối ướp cho nền văn minh tình thương và văn hoá sự sống thay cho lối sống mang nặng hận thù và chết chóc.[26]
Kết luận
Tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại được mặc khải trọn vẹn trong Mầu Nhiệm Nhập Thể “Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14). Con Thiên Chúa đã đi vào cuộc đời, Ngài đã ở giữa con người như người phục vụ để mặc khải tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại, để loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, người bị giam cầm, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa (x. Lc 4, 18-19).
Con Thiên Chúa đã hoàn tất sứ mạng của mình và trước khi về trời, Ngài trao sứ mạng đó lại cho chúng ta “anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”(Mc 16,15). Thế nên dù bạn là ai, bạn sống trong thời đại nào và chức bậc nào, dù là: Giáo sĩ, Tu sĩ hay Giáo dân thì đều được mời gọi sống tinh thần Nhập Thể để đem tình yêu của Chúa đến với mọi người.
Giáo Hội sống thể hiện tinh thần Nhập Thể bằng việc “đi ra”: sống giữa mọi người và làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Đức Kitô (Mt 28, 19) bằng những hành động cụ thể để chia sẻ thân phận khó nghèo của người nghèo, đồng thời nâng cao phẩm giá của họ.
Cùng nhịp bước với mẹ Giáo Hội, những người sống đời thánh hiến sống tinh thần Nhập Thể bằng việc sống triệt để Ba Lời Khuyên Phúc Âm qua tiến trình “chạnh lòng thương” để nhận định cách tinh tế các nhu cầu của tha nhân và trình bày với Đức Kitô, đồng thời hướng dẫn họ biết Đức Kitô để họ tin vào Người và làm theo lời Người dạy.[27]
Những tín hữu Việt Nam sống trong lòng dân tộc Việt Nam cũng được mời gọi sống tinh thần Nhập Thể bằng việc thể hiện tinh thần trách nhiệm của mình đối với đất nước đồng thời can đảm hành động theo tiếng nói lương tâm ngay thẳng để trở thành muối ướp đời và thành ánh sáng cho trần gian.




[1] ĐGH Phanxicô, Tông Huấn Niềm Hoan Lạc của Tình Yêu , số 129.
[2] Nguyễn Tầm Thường, Kẻ Đi Tìm, trang 225.
[3] Xc. ĐGH Phanxicô, Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng, số 197.
[4] S điệp của ĐGH Phanxicô cho ngày Thế Giới Truyền Giáo năm 2016.
[5]Ibid.
[6] ĐGH Phanxicô, Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng, số 20.
[7]Ibid, số 24 
[8] Ibid, số 187
[9] Các bài giảng của Thánh Gioan Kim Khẩu về Tin Mừng Mátthêu
[10] Tagore, Thơ Dâng, 18
[11] Sứ điệp của ĐGH Phanxicô cho ngày Thế Giới Truyền Giáo năm 2016.
[12]Sứ điệp của ĐGH Phanxicô cho ngày Thế Giới Truyền Giáo năm 2016.
[13] ĐGH  Gioan Phaolô II, Encyclical Letter Dives in Misericordia, số 13.
[14] Hiến Chương Dòng MTG, điều 70
[15] Xc. Hiến Chương Dòng MTG, điều 36.
[16]Thư chung HD0GM Việt Nam gửi cộng đồng dân Chúa năm 2016, số 2.
[17] Ibid., số 2.
[18] Xc.  Báo Công Giáo Dân Tộc, số 2077, trang 1.
[19] Thư chung HD0GM Việt Nam gửi cộng đồng dân Chúa năm 2016, số 2.
[20] Xc. http://thanthienmoitruong.com/tin-tuc/21/thuc-trang-o-nhiem-moi-truong-nuoc-ta-hien-nay.html
[21] http://www.tinmoi.vn/o-nhiem-moi-truong-do-bun-thai-nguoi-dan-ngay-cang-buc-xuc-01696263.html
[22] Thư chung HD0GM Việt Nam gửi cộng đồng dân Chúa năm 2016, số 2
[23] Trích lại trong Báo Công Giáo Dân Tộc, số 2077, trang 7
[24] Thư chung HD0GM Việt Nam gửi cộng đồng dân Chúa năm 2016, số 2
[25] Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng, số 1
[26] Thư chung HĐGM Việt Nam gửi cộng đồng dân Chúa năm 2016, số 3
[27] Xc. Hiến Chương Dòng MTG, điều 75

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn