Hội
Thánh Việt Nam tự hào về những người mẹ,
người chị quả cảm, lòng tin kiên vững
và lòng yêu mến sắt son; tự hào vì đã có những người mẹ, người
chị, đã anh dũng đổ máu chẳng thua kém
bậc nam nhi,
để làm cho hạt giống đức tin trổ sinh hoa
trái
trên dải đất Việt Nam .
Vũ Cao, OP
Trong
xã hội vai trò của phụ nữ thường bị xem nhẹ. Nhưng đối với Đức Giêsu, phụ nữ có
một vai trò đặc biệt. Cô Ma-ri-a Mác-đa-la là người đầu tiên được Đức Giêsu
phục sinh trao cho sứ vụ loan báo tin vui: Chúa đã sống lại thật! Sách Tin mừng
thuật lại sau khi gặp Chúa phục sinh, cô Ma-ri-a Mác-đa-la đã vội vã đi báo cho
các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà (x.
Ga 20,18). Cho đến hôm nay, sứ điệp phục sinh được công bố bởi miệng lưỡi của
một người phụ nữ đã “vang đến tận cùng” cõi đất. Lịch sử Hội Thánh đã chứng
minh: phụ nữ cũng có một vai trò quan trọng trong sứ vụ loan báo Tin mừng cứu
độ.
Có thể nói, người phụ nữ Công giáo Việt Nam cũng đã góp công lớn trong công
cuộc truyền giáo cho quê hương xứ sở mình. Hội Thánh Việt Nam hôm nay là thành quả của biết
bao công sức và máu đào của các giám mục, linh mục, các thầy giảng và rất nhiều
giáo dân nam nữ. Hội Thánh Việt Nam tự hào về những người mẹ, người chị quả
cảm, lòng tin kiên vững và lòng yêu mến sắt son; tự hào vì đã có những người
mẹ, người chị đã anh dũng đổ máu chẳng thua kém bậc nam nhi, để làm cho hạt
giống đức tin trổ sinh hoa trái trên dải đất Việt Nam.
Chúng
ta cùng nhìn lại những trang sử hào hùng mà các chị em phụ nữ đã viết vào lịch
sử công cuộc truyền giáo tại Việt Nam .
1. Nhiệt thành rao truyền đạo
Chúa
Trong
các công cuộc truyền giáo đầy gian nan và trắc trở, các cha thừa sai Dòng Tên
đã nhận được nhiều sự trợ giúp đắc lực và khéo léo của các bà. Trong số đó,
người ta phải kể đến bà Maria Minh Đức vương thái phi, cô của chúa Nguyễn Phúc
Lan (1635-1648). Bà Maria Minh Đức lãnh nhận Phép Rửa năm 1624 do cha De Pina,
lúc đó bà đã ngoài 76 tuổi. Nhà nguyện của bà được kể như là Hội Thánh tại gia
của giáo đoàn vùng kinh đô.
Năm 1640, cha Đắc Lộ trở lại Việt Nam . Hay tin chúa Nguyễn Phúc Lan
muốn buôn bán với người Bồ, nên cha Đắc Lộ đem lễ vật lên vương phủ Kim Long,
xin yết kiến nhà vua. Cha được tiếp đón niềm nở. Khi nghe biết cha Đắc Lộ tới
kinh đô, bà Maria Minh Đức đã cho người mời cha đến dinh thự của bà. Lợi dụng
cơ hội này, cha đã ở lại nhà nguyện của bà Maria Minh Đức để gặp giáo dân vùng
kinh đô. Suốt ngày đêm, các tín hữu kéo nhau đến gặp cha để lãnh các bí tích.
Họ sốt sắng tham dự Thánh Lễ. Cha đã cử hành Tuần Thánh năm đó tại nhà nguyện
của bà Minh Đức. Trong lễ phục sinh, cha đã làm phép Rửa cho ba bà thuộc hoàng
tộc và một thầy sãi. Cả bốn người đều là do hoạt động tông đồ của bà Minh Đức.
Trong những lần trở lại Việt Nam sau đó, nhà nguyện của bà Maria Minh Đức luôn
là cứ điểm truyền giáo an toàn của cha Đắc Lộ trong thời bách hại đạo.
Cuối năm 1648, bà Maria Minh Đức từ trần, hưởng thọ trên
80 tuổi. Bà là nơi nương tựa, che chở của giáo đoàn xứ Nam
trong thời bách hại. Sự ra đi của bà để lại một niềm thương tiếc to lớn cho cả
giáo đoàn vùng kinh đô.
Bên
cạnh bà Maria Minh Đức, còn có nhiều bà khác nữa cũng nhiệt thành với việc
truyền rao đạo thánh Chúa. Các bà đã vận dụng sự khéo léo của nữ tính, biết tận
dụng mọi hoàn cảnh, mọi nơi và mọi thời thuận tiện để rao truyền đạo Chúa cho
những người thân cận, đồng bào lương giáo.
Chuyện
kể rằng, có bà quả phụ đô trấn Thăng Long, tên thánh là Gioanna. Từ khi quan đô
trấn qua đời, thì bà được gọi vào trông coi các cung nữ trong vương phủ. Nhân
thời thuận tiện này, bà đã khuyên bảo được nhiều cung nữ, vương phi tin theo
đạo Chúa, trong số này có hai vương phi của hoàng tử đã mất và một nàng hầu.
Thế rồi, cả bốn bà hợp lực truyền giáo cho các vương phi, cung nữ trong vương
phủ. Có một bà khác, tên thánh là Saola, được chúa Trịnh tin dùng vào việc nấu
ăn dọn bữa. Vì là người có đạo, nên vua rất tín nhiệm và an tâm về những bữa ăn
bà dọn. Nhiều lần vua muốn bà lập lại các bài giảng của các linh mục ở nhà thờ,
và bà đã sử dụng cơ hội thuận tiện này để nói cho vua biết về đạo Chúa.
Một
đời sống tốt lành, những công việc bình thường của người phụ nữ như nấu cơm,
dọn bữa, những cuộc nói chuyện, những hy sinh thầm lặng, v.v. tất cả đều có thể
trở nên những phươnng thế truyền giáo hữu hiệu của người phụ nữ Công giáo Việt
Nam.
2. Nhiệt thành tuyên xưng đức
tin
Hội
Thánh Việt Nam
luôn tự hào vì đã có nhiều chứng nhân đức tin là nữ tín hữu. Sử sách còn để lại
những câu chuyện thật cảm động về cuộc tuyên xưng đức tin anh hùng của họ. Các
bà mẹ, các chị em đã tỏ ra can đảm phi thường, chấp nhận mọi đau khổ và nhục
nhã để một lòng trung thành với đạo thánh Chúa.
Một bà
mẹ Công giáo can đảm phi thường, chẳng thua kém các bậc nam nhi, đó là bà thánh
Anê Lê Thị Thành, tục gọi là bà thánh Đê. Bà sinh khoảng năm 1781, tại làng Bái
Điền, huyện Yên Định, Thanh Hoá, sau theo mẹ về quê ngoại ở Phúc Nhạc, Ninh
Bình. Năm 17 tuổi, cô Lê Thị Thành kết hôn với anh Nguyễn Văn Nhất, người cùng
làng. Họ sống với nhau hạnh phúc và sinh được sáu người con, người con cả tên
là Đê. Bà Đê là một người con dâu hiếu thảo, một người vợ hiền thục đảm đang và
là một người mẹ rất mực yêu thương con cái. Bà nuôi nấng, dạy dỗ con cái lớn
khôn, một lòng sống trung thành với đạo thánh Chúa.
Dưới
thời Thiệu Trị, cuộc bách hại đạo ngày càng quyết liệt. Vì kính trọng và quý
mến các cha, bà Đê đã không ngần ngại giúp đỡ và che dấu các ngài. Bà dành một
khu nhà đặc biệt để các ngài trú ẩn. Chính đức ái đó đã dẫn bà Đê đến phúc tử
đạo. Ngày 14 tháng 4 năm 1841, vào sáng sớm ngày lễ phục sinh, bà đã bị bắt
cùng với cha Galy Lý và một số giáo dân khác.
Trong thời gian bị giam giữ, lính tráng đánh
đập bà tàn nhẫn, toàn thân bà bầm tím máu. Tuy là phận nữ yếu đuối, nhưng bà đã
tỏ ra can đảm cách phi thường, không nao núng, vui vẻ chấp nhận những cực hình
tra tấn. Khi chồng đến thăm, bà giải thích vì sao bà được kiên tâm như vậy: “Họ
đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến độ đàn ông cũng chẳng chịu nổi, nhưng tôi đã
được ơn Đức Mẹ giúp sức nên tôi ít cảm thấy đau đớn”. Con gái vào tù thăm
mẹ, khóc lóc khi thấy thân thể bà bầm tím máu, áo bê bết loang lổ vết máu, bà
hài hước an ủi: “Con đừng khóc mẹ nữa, mẹ mặc áo hoa hồng thắm đỏ, sao con
khóc?”. Bà coi những vết máu như vòng hoa khoác lên cổ người chiến sĩ thắng
trận khải hoàn. Rồi bà nói với cô: “Con hãy về chuyển lời mẹ bảo anh chị em
con săn sóc việc nhà, vững tâm giữ đạo, sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện
cho mẹ vác Thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên
nước Thiên đàng”.
Vì bị
những cực hình tra tấn và phải chịu đói chịu khát, nên bà đã kiệt sức và chết
rũ tù ngày 12 tháng 7 năm 1841, sau ba tháng bị giam cầm vì đức tin, thọ 60
tuổi. Đức Giáo Hoàng Piô X đã tôn phong bà Anê Lê Thị Thành lên bậc chân phước
ngày 2 tháng 5 năm 1909.
Bên
cạnh bà thánh Đê, còn có nhiều bà mẹ, nhiều chị em phụ nữ khác nữa, tuy không
được lãnh phúc tử đạo, nhưng cũng đầy cam đảm và chí khí vì đã tin tưởng yểm
trợ tinh thần cho cha, cho chồng, cho con trong cuộc tuyên xưng đức tin cao
đẹp. Trong các cuộc bách hại đạo, quan quân thường bắt tất cả đàn ông trong
làng có đạo, giam vào một nơi, rồi sai lính bắt vợ con đưa ra uy hiếp, phải
khuyên dụ các ông chối đạo, nhưng các bà, các chị đã làm điều ngược lại: khuyên
nhủ chồng con trung thành với Chúa cho đến cùng. Xin kể ra đây một vài chứng
tích:
- Con
gái ông Lý Mỹ 12 tuổi, trốn mẹ vào thù thăm cha, cô thưa với cha:
“Xin cha cam đảm chết vì Chúa”. Còn bà Mỹ thì nói trong tiếng nghẹn
ngào: “Vợ con ai mà chẳng thương tiếc, nhưng ông hãy hy sinh vác thánh giá
rất nặng vì Chúa. Hãy trung thành đến cùng, đừng lo nghĩ đến mẹ con tôi. Thiên
Chúa sẽ quan phòng tất cả”.
- Bà
mẹ của Jaccard Phan, khi nghe tin con chịu chết vì đức tin, đã
reo lên: “Thật là tin vui, gia đình ta có một vị tử đạo”. Bà nói tiếp: “Xin
chúc tụng Chúa, tôi sẽ buồn biết bao, nếu con tôi chịu khuất phục trước gian
khổ và cực hình”.
- Bà
mẹ của binh sĩ Anrê Trông đã theo gương “Nữ Vương các thánh tử
đạo”. Bà có mặt trong cuộc hành quyết để dâng hiến người con trai duy nhất. Bà
đi bên cạnh con, không than khóc, không buồn rầu, bà động viên khuyên dủ con
trung tín với Chúa đến cùng. Khi đầu của vị tử đạo rơi xuống, bà mạnh dạn tiến
vào pháp trường và nói với quan: “Đây là con tôi, xin các ông trả lại cái
đầu nó cho tôi”. Rồi bà mở rộng vạt áo, bọc lấy thủ cấp của người con trai
yêu quý, rồi đem về an táng trong vườn nhà.
Tuyệt
vời những bà mẹ Công giáo Việt Nam !
Hình ảnh Đức Trinh nữ Maria đứng kề bên thánh giá ngời sáng nơi các mẹ, các
chị. Chắc hẳn, khi các vị tử đạo chịu muôn cực hình đau khổ bao nhiêu, thì trái
tim của các mẹ, các chị cũng ngập muôn nỗi khổ đau bấy nhiêu. Trong cuộc tuyên
xưng đức tin cao đẹp của các vị tử đạo, những người phụ nữ Công giáo Việt Nam
cũng đã dự phần vào phúc tử đạo của các chứng nhân đức tin.
3.
Nhiệt thành hoạt động tông đồ
Trong khi các linh mục truyền giáo bị cấm hoạt
động, thì hầu hết các họ đạo có thể đứng vững được trong thử thách, phần lớn là
nhờ hoạt động tông đồ của một số giáo dân, trong đó nữ giới giữ vai trò đáng kể.
Ở Phú
Yên, bà phu nhân quan phủ, có tên thánh là Maria Madalena, đã lập một bệnh xá
để giúp đỡ các bệnh nhân nghèo không phân biệt lương hay giáo. Người dân trong
vùng đều cảm phục tấm lòng và công việc của bà, và đã có nhiều người tin vào
đạo Chúa.
Nhiệt
thành với việc mở mang Nước Chúa và lo phần rỗi các linh hồn, các dì phước, các
bà đỡ tìm mọi cách rửa tội cho trẻ em bệnh nặng chết yểu. Họ thăm nom, săn sóc,
nuôi nấng, thuốc men và tổ chức an táng. Nếu các em sống sót, thì các bà dạy
giáo lý và nghề nghiệp cho đến khi tự lập. Qua các mùa dịch bệnh, nhiều gia
đình Công giáo khá giả đã quảng đại nhận nuôi các trẻ em của các gia đình ngoại
giáo nghèo hoặc mồ côi để rửa tội cho chúng. Năm 1843, Giáo phận Đàng trong rửa
tội được 8273 em. Năm 1855, Giáo phận Trung Đàng ngoài rửa tội được 35.349 em[1].
Có thể
nói, những hoạt động tông đồ xuất phát từ đức ái, lòng tận tuỵ và sự hy sinh
của người phụ nữ Công giáo Việt Nam trong thời truyền giáo đã để lại những dấu
ấn khó phai mờ trên mảnh đất và con người Việt Nam. Quả thực, sống đức ái là
phương thế truyền giáo hữu hiệu nhất, như Đức Giêsu đã nói: “ở điểm này, mọi
người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu mến
nhau." (Ga 13,35). Hội Thánh Việt Nam hôm nay đã nhận được gia sản
đức ái quý báu của tổ tiên truyền lại. Gia sản đức ái kêu mời chúng ta hôm nay
phải phát huy và làm cho sung mãn thêm nữa.
Kết
luận
Nhìn
lại những trang sử truyền giáo tại Việt Nam ,
chúng ta có thể khẳng định lại một lần nữa rằng người phụ nữ Công giáo Việt Nam đã góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng
Hội Thánh trên quê hương Việt Nam
yêu dấu. Công khó của các mẹ, các chị chẳng thua kém các giám mục, linh mục,
thầy giảng, các vị tử đạo nam giới. Nói thế không phải để so sánh hơn kém giữa
phái nam và phái nữ, nhưng để thấy rằng trong Đức Kitô, thì không còn chuyện
phân biệt đàn ông hay đàn bà, tất cả đều là những bộ phận trong cùng một thân
thể nhiệm mầu Giêsu Kitô; tất cả liên đới và hiệp thông với nhau trong đức tin
và lòng yêu mến. Lời tuyên xưng đức tin cao đẹp của các vị tử đạo trước mặt vua
chúa quan quyền cũng chính là lời tuyên xưng đức tin cao đẹp của các mẹ, các
chị trong âm thầm hy sinh, trong nỗi sầu đau chất ngất cõi lòng.
Đời sống chứng tá âm thầm hay lấy máu đào tuyên
xưng đức tin của các tín hữu Công giáo Việt Nam trong thời truyền giáo năm xưa
đã dựng xây Hội Thánh Việt Nam. Đời sống trung thành với đạo thánh Chúa của các
ngài mời gọi chúng ta hôm nay, dẫu là giáo dân hay giáo sĩ, người nam hay người
nữ, tất cả đều phải đảm nhận trách nhiệm đối với toàn thân thể là Hội Thánh,
mỗi người một cách, tùy ơn gọi và khả năng Chúa ban, như thánh Phaolô nói:
“Chính Đức Kitô đã ban ơn cho kẻ này làm tông đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác
làm người loan báo Tin mừng, kẻ khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ, nhờ đó
các tín hữu được trang bị để làm công việc phục vụ là xây dựng thân thể Đức
Kitô...” (Ep 4, 11-12).
Đăng nhận xét