Muốn
góp phần xây dựng hòa bình,
con người hôm nay phải học lại ngôn ngữ
của hòa bình và không chỉ trong cách nói, dùng từ, lập luận
nhưng còn trong cả ý hướng và cung giọng.
Thanh tẩy uốn nắn con tim và trí óc là
điều cần thiết trong quá trình kiến tạo hòa bình, để con người hôm nay
ngày một quen dần với những môi trường yêu
thương, quý trọng hòa bình, vị tha, hiền hòa và thông cảm,
giúp con người có khả năng lắng nghe
và mở lòng đón nhận lẫn nhau.
Giuse
Hà Đình Tuấn, OP.
Đọc lại những cuộc chiến đẫm máu trên thế giới trong những thập
niên vừa qua, hẳn mỗi người sẽ không thể phủ nhận những thiệt hại và tính khốc
liệt ngày càng tăng của nó; nhưng trong ánh sáng đức tin, thì ngay giữa những
cuộc chiến ấy, con người vẫn được mời gọi đọc ra những khát vọng vẫn hằng ấp ủ
về hòa bình, phát triển và yêu thương trong tâm lòng của mỗi người yêu chuộng hòa
bình. Chính nhờ những khát vọng này mà con người đã kịp thời dừng lại, tìm cách
hòa giải và phát động kiến tạo hòa bình. Làm sao có hòa bình thật sự khi đàn
ông, đàn bà và trẻ em chưa được sống đúng nhân phẩm của mình? Khi thế giới còn
được điều khiển bởi những quan hệ xã hội, kinh tế, chính trị chỉ có lợi cho một
quốc gia hay một tập thể nào đó mà làm hại cho những quốc gia và tập thể người
khác? Chủ đề được chọn cho Ngày Hòa Bình Thế Giới năm 2011, "Tự do Tôn
giáo là Đường hướng dẫn đến Hòa Bình", đại diện cho thành quả của một
“đường hướng dẫn đến hòa bình” mà Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI mời gọi gia đình
nhân loại xem xét một cách sâu sắc trong nhiều dịp khác nhau trước đó.[1]
Thật
vậy, cuộc hành trình “dẫn đến hòa bình” là ân ban của Thiên Chúa, được khởi đi
từ ơn gọi của con người hướng về chân lý. Ơn gọi đó như là một nguyên tắc chỉ
đạo cho phẩm giá con người, giúp con người tự do tìm kiếm Chân Lý là cùng đích cuộc đời mình. Do đó, kiến tạo hòa bình là
việc làm của tất cả mọi người, không trừ một ai. Nghĩa là tất cả cùng thắp lên
ngọn lửa hòa bình.
1. Ngọn lửa hòa bình
1.1. Ơn ban từ Thiên Chúa
Hòa
bình không chỉ là kết quả của sự phân chia đồng đều một cách máy móc các quyền
lợi vật chất nhưng là kết quả của một trật tự hợp lý và đạo đức, tôn trọng quyền
căn bản của con người. Nếu không có ơn ban của Thiên Chúa, con người không thể
thực hiện đúng các chuẩn mực đạo đức khách quan, để điều khiển và phát triển
thụ tạo một cách hài hòa và trật tự theo quy luật phát triển của chúng và theo
đúng ý muốn của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ban cho con người có khả năng kiến
tạo hòa bình nhờ giải thoát họ khỏi tội lỗi và ban cho họ một năng lực mới là
chính Thánh Thần.
Nhìn
vào lịch sử, Giáo hội luôn không ngừng bảo vệ và bênh vực hòa bình, tìm những
phương thế hòa giải và xây dựng nền hòa bình. Mọi Kitô hữu biết rằng; yêu
thương là lý do để Thiên Chúa thực hiện mối liên hệ với con người. Chính yêu
thương đã làm cho Ngài đợi chờ con người đáp trả lời mời gọi. Yêu thương cũng
là một hình thức cao quí nhất và sáng giá nhất nơi mối liên hệ khả thể giữa
loài người với nhau. Do đó, tình yêu cần phải được các con cái Giáo hội làm cho
dậy men Tin mừng nơi hết mọi lãnh vực của đời sống con người và bao hàm cả lãnh
vực quốc tế. Khi ấy, nhân loại được hướng dẫn bởi “nền văn minh yêu thương” mới
có thể hoan hưởng một nền hòa bình chân thực và bền vững.
1.2. Yếu tố thiết yếu của đời sống con
người
Thông
điệp Hòa Bình của Đức Gioan Phaolô II năm 1982 số 4 khẳng định như sau:
Hòa bình không phải chỉ là sự cân bằng hời hợt bên
ngoài giữa các quyền lợi vật chất khác nhau, mà trong thực tế sâu xa của mình,
hòa bình thuộc về một lãnh vực hết sức thiết yếu của con người, có bản chất lý
trí và luân lý, là kết quả của sự thật và đức độ.
Thật vậy, muốn có hòa bình phải giáo dục
sống hòa bình. Hòa bình dù là một khát vọng được đặt để trong mỗi con người
nhưng đã trở nên xa lạ khi con người phạm tội. Hậu quả của sự bất tuân là con
người nhận ra sự trần trụi của mình và tìm cách che đậy sự trần trụi đó. Họ
nhận ra rằng giờ đây tương quan giữa họ với Thiên Chúa đã bị bẻ gãy.
Vì bẻ gãy tương quan với Chúa, tội lỗi cũng phá
hỏng những mối tương quan căn bản trong đời sống con người; đánh mất sự thống
nhất nơi chính bản thân; tương quan vợ chồng bị biến thành tương quan thống trị
và thèm khát thay vì yêu thương và phục vụ; tương quan với tha nhân được dệt
bằng những dối trá, sợ hãi, đối đầu; cả tương quan với thế giới cũng trở nên
khó khăn vì chính thiên nhiên tàn phá con người.[2]
Chính
vì thế, con người cần phải được giáo dục lại để tập sống những giá trị căn bản
nhất của hòa bình ngay khi còn bé. Ngày nay
khi nhìn vào thực trạng của xã hội, không chỉ có người lớn xung đột mà giới trẻ
và thiếu nhi cũng có xung đột; không chỉ người giàu mà có cả người nghèo nữa.
Thật thế, con người quả đã sai lầm khi chọn cho mình những phương thế không mấy
hòa bình để tự vệ, tồn tại và giữ vững
địa vị của mình nhằm yên ổn bản thân, đất nước bằng hình thức dùng vũ lực, súng
ống và cưỡng ép. Chính thái độ không chấp nhận đối lập và dị biệt, thiếu lắng
nghe và kiên nhẫn đã làm cho con người không còn tin vào khả năng của những
hành động mang lại tự do và hòa bình nữa.
Để có
thể nhận thức và hiểu được giá trị và những gì hòa bình đem lại, những gì chiến
tranh đang tàn phá thì yếu tố thông tin có vị trí quan trọng hàng đầu. Việc tìm
kiếm và công bố sự thật của chiến tranh là điều đáng khích lệ song vẫn phải tôn
trọng con người bằng tinh thần bác ái thì đó mới là xây dựng hòa bình. Tuy
nhiên, trong một xã hội nhiễu thông tin như hiện nay thì đạo đức truyền thông
là điều cần quan tâm. Thực vậy, lịch sử kiến tạo hòa bình của nhân loại cho
thấy đã có nhiều thông tin quý báu giúp ích cho tiến trình hòa giải và xây dựng
hòa bình. Song cũng có nhiều thông tin một chiều, bảo thủ và cực đoan, gây chia
rẽ, mất đoàn kết và có thể dẫn đến chiến tranh ác liệt và sự thù hằn dai dẳng
giữa con người với nhau, giữa các nhóm với nhau và giữa những dân tộc với nhau.
Trên tất cả, “Tự bản thân mình, các phương tiện truyền thông vẫn đóng vai
trò tích cực ở chỗ nó khiến mọi người từ nay phải tập biến mình thành người
thân cận với những anh chị em xấu số đó” (Thông điệp Hòa Bình của Đức Gioan Phaolô II năm 1982, số 6).
2. Những con đường dẫn đến hòa bình
2.1. Sự thật
Sự thật là sức mạnh của hòa bình. Thiếu sự thật là
một trở ngại nghiêm trọng trong việc xây dựng hòa bình. “Sự thật, kể cả sự thật đau đớn nhất luôn luôn giải phóng cho con
người. Sự thật gắn kết. Sự thật mang lại sự công bằng. Sự thật chỉ ra con đường
hòa hợp”.[3]
Trong Thông điệp Hòa Bình năm 1980, số 1, Đức Gioan
Phaolô II viết:
Người ta tỏ ra hết sức
lo ngại khi thấy bạo lực lan tràn trong xã hội, ở cấp độ quốc gia lẫn quốc tế,
hay khi thấy những sự đe dọa rõ ràng cho nền
hòa bình, nhưng người ta lại chưa nhạy cảm đủ với những hình thức “thiếu
sự thật” mà thật ra đây chính là nền tảng đưa tới bạo lực và là mảnh đất thuận
lợi cho bạo lực phát triển.
Thật vậy, bạo lực và những người thi hành bạo lực
chỉ có thể hành động khi họ có sự hậu thuẫn từ bên ngoài. Để có được sự đồng
thuận này, người ta không ngại đưa ra những lời lẽ biện minh cho lập trường và
hoạt động của mình, kể cả những lời lẽ dối trá nhất. Họ sẵn sàng chụp mũ, gán
cho người này người kia những ý đồ tai hại, và để cho các lý lẽ biện minh ấy
được mọi người chấp nhận, người ta dùng phương tiện truyền thông một chiều để
bóp méo, cắt xén, sử dụng những chiêu bài để thóa mạ và vu khống đối phương.
Tại
Việt Nam
trong những năm gần đây, hình ảnh những chứng nhân của công lý và sự thật đang
được đề cao. Những chứng nhân sự thật ấy không né tránh mà đã can đảm gọi đích
danh những bất công, những ung nhọt của đất nước để mang lại hòa bình và công
lý cho nhân dân, mang lại tự do an bình cho dân tộc. Đức Gioan Phaolô II trong
Thông điệp Hòa Bình năm 1980, số 3 viết:
Phải gọi sát nhân đúng tên của
nó: sát nhân là sát nhân. Phải gọi tàn sát là tàn sát, bất kể họ thuộc chủng
tộc nào, độ tuổi và đơn vị nào. Phải gọi tra tấn là tra tấn, áp bức và khai
thác con người bởi con người, nhà nước hay bởi một dân tộc. Phải làm như thế
không phải để cho mình được yên ổn lương tâm... cũng không phải để lên án và
làm nhục những con người hay những dân tộc ấy, mà là để giúp người ta thay đổi
cách cư xử và thay đổi não trạng và để trả lại cơ may mới cho hòa bình.
Do đó,
muốn tránh được cạm bẫy của những giả trá này, cần phải kiên trì và can đảm đi
tìm sự thật căn bản về con người, để dựa vào đó mà nhận thức, đánh giá như họ
là; còn nếu cứ sống mãi trong ngờ vực, con người sớm muộn sẽ rơi vào dối trá,
thiếu sự thật.
2.2. Đối thoại
Từ
thái độ tôn trọng sự thật, mỗi cá nhân cần phải tiến đến những hành động cụ
thể, từ nơi bản thân, trong gia đình đến ngoài xã hội. Hoạt động cụ thể đầu
tiên là dám đối thoại, nhưng để có thể đối thoại thì hai bên phải khát khao tìm
kiếm sự thật và tin rằng cuộc đối thoại sẽ tìm ra sự thật và mang lại hòa bình.
Nghĩa là thấy được những quan điểm, giá trị khác biệt để cùng nhau hướng đến
một điều gì đó cao hơn nhằm thống nhất các khác biệt. Do đó, cả hai bên đều
phải biết trình bày và lắng nghe quan điểm của nhau một cách trung thực và
khiêm tốn. Với những người con cái Chúa, việc đối thoại để xây dựng hòa bình dù
khó đến đâu cũng không thể đánh đổ niềm hy vọng là:
Không phải chính những nỗ lực của họ trong các cuộc
đối thoại mà là chính Thánh Thần Thiên Chúa đã tạo ra hòa bình từ những cuộc
đối thoại ấy. Người Kitô hữu được mời gọi nhìn lên Thập Giá Đức Kitô để học bài
học kiên nhẫn đến cùng trong đối thoại, thậm chí có thể hy sinh mạng sống cho
sự nghiệp hòa bình khi cần.[4]
Trong
đối thoại, yếu tố quan trọng là tha thứ. Chỉ có sự tha thứ chân thật và bền
vững thì hai bên mới có thể cùng nhìn ra sự thật. Thông điệp Hòa Bình của Đức
Gioan Phaolô II năm 1997, số 1 khẳng định:
Nếu không có sự tha thứ, vết
thương vẫn tiếp tục chảy máu, tiếp tục nuôi dưỡng nơi tâm hồn các thế hệ sau
một lòng hận thù không nguôi, nguồn gốc của mọi sự trả thù và phá hủy. Phải tha
thứ và phải đón nhận sự tha thứ, đó chính là tiền đề cần thiết để tiến tới một
nền hòa bình đích thực và bền bỉ.
Giáo
hội nói chung và mỗi Kitô hữu nói riêng phải thực hiện sự tha thứ và hòa giải
này trong suốt lịch sử đời mình. Hiến Chế Mục Vụ của Công đồng Vaticano II, số
46 khẳng định:
Giáo hội còn nhìn nhận mình đã
tiếp thu nhiều ơn ích từ chính những đối xử bất công và tàn bạo của nhiều thế
lực. Giáo hội còn nhìn nhận rằng chính sự chống đối của những kẻ công kích hay
bách hại Giáo hội đã và còn đang có thể giúp ích cho Giáo hội.
2.3. Tự do tôn giáo
Tôn
giáo không chỉ là cách thể hiện đời sống tâm linh nhưng tôn giáo còn là phương
thế xây dựng hòa bình hiệu quả. Chính tôn giáo làm cho nhân phẩm của con người
được nhìn nhận và tôn trọng đúng với phẩm giá, tạo nên sự phát triển đúng đắn.
Sự phát triển đúng đắn phải là sự phát triển toàn diện, nghĩa là cho hết mọi
người và cho toàn diện con người. Nói cách khác, phát triển toàn diện là lấy
con người cụ thể làm chủ thể và mục tiêu cho mọi chương trình phát triển. Quả
vậy, con người hạnh phúc khi được sống đúng với những giá trị đi đôi với phẩm
giá của mình như tình yêu, sự sống, gia đình, xã hội... và được tôn trọng tự do
lương tâm của họ. Do đó, tự do lương tâm nhiều hay ít cũng chính là thước đo để
biết một chính phủ hay một xã hội tôn trọng con người nhiều hay ít. “Muốn
đảm bảo sự tự do lương tâm, người ta cũng cần đảm bảo sự tự do tôn giáo nữa”.[5]
Thật
vậy, như mọi người đều biết rõ rằng ở trong nhiều khu vực trên thế giới ngày nay
vẫn có những dạng thức khác nhau của sự giới hạn hay từ chối quyền tự do tôn
giáo: từ sự kỳ thị ra mặt cho đến sự phân biệt đối xử, thậm chí thực hiện các
hành động bằng bạo lực để đàn áp hoặc chống lại các tôn giáo chiếm thiểu số
trong cộng đồng dân tộc, quốc gia. Những lúc đó, tự do tôn giáo được xem như
một trải nghiệm của sự tìm kiếm Chân Lý và tìm Sự Thật về con người. Do đó, tự
do tôn giáo và hòa bình là vấn đề của con người, mà con người này không thể bị
"phân mảnh", và bị tách ra khỏi những gì họ tin, vì nơi đó họ tin
rằng có sự tác động đến đời sống và đến con người họ. Trong mối liên hệ ấy, cần
có những con người với tâm hồn hòa bình, thái độ hòa bình và hành động hòa
bình. Trong đó, tôn giáo chân chính có vai trò đáng kể và quan trọng trong việc
khơi dậy những tâm tình hòa bình, thái độ hòa bình, hành động hòa bình. Giáo
dục sống hòa bình, nhất là dựa vào tôn giáo, quả là con đường hữu hiệu nhất đưa
tới hòa bình đích thực.
3. Hành động vì hòa bình
3.1. Tôn trọng nhân quyền
Thật
vậy, sự tôn trọng những quyền lợi của kẻ khác làm cho hoà bình được thiết lập.
Ý thức về điều này, Giáo hội biến mình trở thành cột trụ nâng đỡ cho những
quyền lợi căn bản của mọi người. Một cách đặc biệt, Giáo hội yêu cầu tôn trọng
sự sống và tôn trọng sự tự do tâm linh của mỗi người. Việc tôn trọng quyền sống
của từng người trong mọi giai đoạn thiết lập một điểm vững chắc có tầm quan
trọng quyết định: sự sống là một hồng ân mà đương sự không có quyền trọn vẹn sử
dụng. Nhờ tôn trọng lương tâm con người, mà hòa bình được cổ võ; và khi xây
dựng hoà bình, người ta đặt những nền tảng cho một nền nhân bản toàn diện. Và
như thế, người ta chuẩn bị một tương lai an lành cho những thế hệ mới.
Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI nêu rõ trong diễn văn
đọc trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc vào năm 2008:
Thật là điều kỳ lạ - đến độ không thể hiểu được - ở chỗ
là các tín hữu đã phải chế ngự hay đè nén một phần của chính tự thân họ - Tín
ngưỡng hay Đức Tin của họ - để được coi như là những công dân tích cực! Không -
Không bao giờ người ta cần phải chối bỏ Thiên Chúa, hay từ chối Thượng Đế để
được hưởng các quyền cá nhân của con người trần thế. Các Quyền của con người
gắn liền với Tôn Giáo là tất cả những điều còn nhiều ý nghĩa hơn thế nữa và cần
được Giáo hội và xã hội bảo vệ.
Ngoài
những nạn nhân của những cuộc xung đột vũ trang, của nạn khủng bố và những hình
thức khác nhau của bạo lực, còn có những cái chết âm thầm gây ra do bởi nạn
đói, nạn phá thai, nạn thử nghiệm trên các phôi thai và nạn an tử. Làm sao
chúng ta không nhìn thấy trong tất cả những điều vừa kể một xúc phạm đến hoà
bình? Trong mọi trường hợp, người ta không tôn trọng nhân quyền căn bản; sự
không tôn trọng này gây ra những hệ quả trầm trọng trên sự chung sống hoà bình.
Không tôn trọng nhân quyền là cổ võ cho một tâm thức và một nền văn hoá tiêu
cực đối với hoà bình.
3.2. Tâm hồn mới
Thế gới hôm nay với một lịch sử chiến tranh liên miên,
rộng khắp, muôn mặt, người ta có quyền nghĩ rằng chiến tranh, xung đột, mâu
thuẫn, bất hòa đã và đang bắt đầu từ trong chính tâm hồn mỗi người. Nếu mỗi
hành động, lời nói, ý nghĩ của con người hôm nay đã không thể mang lại hòa bình
thì quả thật, tâm hồn con người đã có vấn đề. Cần phải canh tân tâm hồn và con
tim nhân loại.
Con người cần học lại ngôn ngữ của hòa bình. Xã hội hôm
nay đang lan tràn văn hóa sự chết và hủy diệt. Con người hôm nay sẵn sàng tuôn
ra bất cứ lúc nào những lời nói gây xúc phạm đến nhau mạnh nhất, những loại
ngôn ngữ chứa đầy sự tranh đua, phe nhóm, hận thù, bạo động, khủng bố và chết
chóc. Đó là những ngôn ngữ của thảm họa chiến tranh và chết chóc, không thể là
văn hóa của yêu thương và hòa giải được. Thật vậy, nói là gieo tình thương vào
thế giới. Nhưng phải gieo như thế nào những hoa thơm bác ái, vị tha, yêu thương
và xây dựng, hy vọng và giải thoát để giúp nhân loại vơi bớt đau khổ. Còn nếu
chỉ gieo những lời nói cay độc, ác ý thì sẽ gặt về chiến tranh và kỳ thị. Chính
vì thế, muốn góp phần xây dựng hòa bình, con người hôm nay phải học lại ngôn
ngữ của hòa bình và không chỉ trong cách nói, dùng từ, lập luận nhưng còn trong
cả ý hướng và cung giọng. Thanh tẩy uốn nắn con tim và trí óc là điều cần thiết
trong quá trình kiến tạo hòa bình, để con người hôm nay ngày một quen dần với
những môi trường yêu thương, quý trọng hòa bình, vị tha, hiền hòa và thông cảm,
giúp con người có khả năng lắng nghe và mở lòng đón nhận lẫn nhau.
3.3. Liên đới
Một
tâm hồn được đổi mới bằng ý thức sống hòa bình thi phải đi kèm với sự liên đới.
Thật vậy, môi trường dạy cho con người biết liên đới và sống liên đới một cách
chuẩn mực chính là gia đình. Tuy nhiên, chính các gia đình hôm nay lại là nạn
nhân của những bất hòa, chia rẽ và chiến tranh từ chính các quan hệ nội bộ giữa
các thành viên trong gia đình và cả chiến tranh ngoài xã hội mang lại. Sự
thường, khi tổng kết về một cuộc chiến, người ta chỉ dừng lại trên những thiệt
hại về người và của ở cấp quốc gia nhưng người ta chưa bao giờ tổng kết hết về
những thiệt hại gây ra cho các gia đình, mà quan trọng hơn cả là tâm lý và não
trạng của các trẻ em, những thành viên có khả năng tự vệ và thích nghi ít hơn
cả.
Bốn thực tại căn bản làm điều kiện để xây dựng tình liên
đới theo Đức Gioan XXIII là tôn trọng sự thật, công bằng, yêu thương và tự do.
Tôn trọng sự thật chính là nhìn nhận cho đúng các quyền hạn và cả bổn phận căn
bản của hết mọi người. Nghĩa là quyền hạn của tôi là bổn phận của người khác và
quyền hạn của người khác là bổn phận của tôi. Thực hiện công bằng là tôn trong
quyền hạn của người khác và thi hành bổn phận đối với người khác một cách thiết
thực và cụ thể. Yêu thương người khác là coi nhu cầu của người khác là nhu cầu
của chính mình và sẵn sàng chia sẻ những quyền lợi mình đang có với người khác.
Tình yêu chính là chất men nuôi dưỡng các nỗ lực xây dựng hòa bình. Tuy nhiên,
tất cả những gì vừa nói sẽ không có giá trị nếu không được thực hiện với sự tự
do: tự do để được hành động theo sự mách bảo của lý trí và lương tâm, sẵn sàng
chịu trách nhiệm về những hành vi ấy.
KẾT LUẬN
Cùng
nhau thắp lên ngọn lửa hòa bình cho nhân loại có nghĩa là tin vào Thiên Chúa là
Đấng sẽ luôn trung thành với ý định ban đầu của Ngài, dù sự việc có thế nào đi
nữa, thì Thiên Chúa cũng sẽ đưa mọi sự đến chỗ hoàn tất tốt đẹp hay đến nơi
bình an hạnh phúc. Bên cạnh đó, lòng khao khát hòa bình luôn là sự mong đợi của
con người, vì thế là nghĩa vụ của mỗi cá nhân. Do đó, một khi đã đặt niềm tin
vào con người là những thụ tạo do Thiên Chúa tạo dựng thì chúng ta cũng được
mời gọi tin tưởng rằng, con người đó không những có lương tri lành thánh mà còn
có khả năng và ơn thánh đủ để thực hiện ý định ban đầu của Thiên Chúa trên trần
gian này là kiến tạo hòa bình. Trong tâm tình ấy, hướng về Mẹ Maria, Nữ Vương
Trời Đất, chúng ta cùng thành khẩn dâng lên Mẹ viễn tượng nhân loại hôm nay
đang khát mong hòa bình và tự do tôn giáo được hiển trị. Bởi Mẹ đã mang đến cho
chúng ta Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, là Vua Hòa Bình.
Thật
vậy, bao lâu nhân loại chưa đón nhận, cưu mang, hạ sinh, đi theo Đức Giêsu,
Đấng Cứu Thế, và chưa cùng sinh cùng tử với Đức Giêsu trong sứ mệnh kiến tạo
hòa bình thì bấy lâu hòa bình đích thực và tự do tôn giáo trọn vẹn chưa thể ngự
trị trên nhân loại và đâu đó vẫn còn vẳng tiếng khóc than./.
[1] Từ năm 2006, Sứ điệp Ngày Hòa
Bình Thế Giới của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã tập trung vào những chiều kích
quan trọng của Chân Lý (2006); Phẩm Giá Con Người (2007); Sự Hiệp Nhất Của Gia
Đình Nhân Loại (2008); Cuộc Chiến Chống Đói Nghèo (2009) và cuối cùng là Chăm
Sóc Sáng Tạo (2010)
[2] Nguyễn Văn Khảm, “Đường Về Emmaus”, Nxb Phương Đông, tr.
19
[3] Trích “Tham luận của Trần Mạnh Hảo trong Đại hội Nhà văn Việt Nam
lần thứ VIII”, đăng trên trang www.nguyentrongtao.org.
[4] Thông điệp Hòa Bình của Đức Gioan Phaolô II năm 1983, số 12
[5] Thông điệp Hòa Bình của Đức Gioan Phaolô II năm 1991, số 2
Đăng nhận xét