Giáo hội phải chỉ cho người tín hữu
ý thức được địa vị hết sức cao quý của mỗi người,
và trên hết họ là con Thiên Chúa, được Chúa Giêsu cứu chuộc, nhờ
vào cái chết và sự phục sinh của Người.
Bên cạnh đó, Giáo hội cũng cần hướng dẫn
cho mỗi người tín hữu trong bổn phận và ý thức trách nhiệm phải nỗ
lực làm chứng cho con người hôm nay
nhận ra giá trị đạo đức, nhân phẩm của mỗi người.
Văn
Điệp, OP
Con người luôn được coi là trung tâm cho mọi sự phát triển của thế
giới. Trong quá trình phát triển xã hội, nếu không lấy con người làm chuẩn mực
thì e rằng kết quả cuối cùng không thể tốt đẹp, và nguy cơ phá vỡ bộ mặt thế
giới là khả thể. Thật vậy, với đà tiến của xã hội như hiện nay, cuộc sống của
con người đang được cải thiện và tiến đến sự văn minh cao độ, nhưng có một điều
gì đó không ổn cũng đang tiềm ẩn ngay trong chính cuộc sống của con người. Khoa
học - công nghệ là sản phẩm do con người tạo ra, nhưng dường như chính nó lại
là yếu tố khiến cho cuộc sống con người bị xáo trộn nhiều nhất. Con người, một
cách nào đó đang trở thành nô lệ cho chính những gì mà mình tạo ra. Một mặt con
người đang được thụ hưởng những cơ may lớn trong thời đại này, nhưng mặt khác,
có quá nhiều những nguy cơ đang đe dọa cuộc sống của con người.
Giáo
hội, với cương vị là Thầy và là Mẹ đã nhận ra vấn đề này, và vì coi trọng phẩm
giá của con người, nên Giáo hội đã trình bày chính kiến của mình. Điều ấy được
thể hiện qua nhiều thông điệp về “học thuyết xã hội của Giáo hội”, đặc biệt
trong những văn kiện của Công đồng Vatican II. Qua những thông điệp, Giáo hội
muốn cảnh tỉnh con người rằng, trong quá trình phát triển xã hội thì cần phải
chú trọng đến yếu tố con người. Chẳng hạn Thông điệp “Đấng Cứu Chuộc con người”
được Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II ban hành vào năm 1979. Với thông điệp
này, ngài muốn trình bày cho thế giới biết quan điểm của Giáo hội về những vấn
đề liên quan đến “con người và tiến bộ nhân loại”. Đặt trong bối cảnh Việt Nam
hiện nay, chúng ta sẽ áp dụng như thế nào những điểm đã được Giáo hội trình bày
về quyền con người, và Giáo hội Việt Nam sẽ dấn thân như thế nào cho sứ vụ bảo
vệ quyền con người.
1. Con
người và tiến bộ nhân loại
Ngày
nay, nhân loại đã tiến bộ vượt bậc về nhiều mặt, trong đó phải kể đến sự phát
triển nhanh chóng của khoa học - công nghệ. Thế nhưng, cũng chưa bao giờ con
người sống trong xã hội lại lo âu sợ hãi và luôn bị đe dọa, mà nói như thông
điệp “Đấng cứu chuộc con người” là “bị đe dọa bởi cái mình làm ra, tức là
kết quả của công lao do bàn tay mình, và hơn nữa là do lao động trí óc, cũng
như các xu hướng ý chí của mình”.[1]
Như vậy, cuộc sống của con người đang bị chính những gì con người làm ra đe
dọa, dĩ nhiên không phải tất cả. Bên cạnh đó, con người cũng đang bị đe dọa bởi
nhiều hiểm họa thiên tai, mà nguyên nhân gián tiếp là do con người trong quá
trình phát triển đã tàn phá quá nhiều môi trường tự nhiên. Thật vậy, môi trường
sinh thái đã bị con người gây ô nhiễm nặng, mà cách khắc phục thì chưa thấy
đâu.
Chính
trong những đe dọa đó mà con người cảm thấy mình đang bị loại trừ khỏi cuộc
sống, bằng cách này hay cách khác. Bởi đó, vấn đề được nêu lên là: nhân loại
đang thật sự tiến bộ hay con người đang bị đe dọa? Chúng ta nhìn nhận những giá
trị của quá trình phát triển, và không ai có thể phủ nhận những tiến bộ ấy. Thế
nhưng, vì mục đích của tiến bộ mà một số người, có thể là rất nhiều, bị loại
trừ hay phải hy sinh những quyền lợi chính đáng, thì Giáo hội không thể chấp
nhận. Cũng trong Thông điệp trên thì “có kẻ thu lợi tối đa, nhưng lại có
người chịu thiệt thòi; thay vì đem cơm bánh cho những nước nghèo thì con người
lại mang súng đạn để gây chiến tranh...”[2].
Ngoài ra, quyền tự do của con người đang bị vi phạm một cách nghiêm trọng khi “quyền
lực do một nhóm nhất định áp đặt lên các thành phần khác của xã hội”.[3]
Trong đó, quyền tự do tôn giáo được coi là quyền chính đáng của con người cũng
đang bị phi phạm nghiêm trọng ở một số nơi trên thế giới. Như vậy, chúng ta lo
ngại những biểu hiện tiêu cực liên quan đến phẩm giá con người trong bối cảnh
tiến bộ của nhân loại là có cơ sở. Và trong thực tế, những điều vi phạm đến
phẩm giá con người đã và vẫn đang xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Tại Việt
Nam, những điều “tế nhị” ấy có “đụng chạm” đến thực tế của xã hội hiện nay hay
không, và qua đó, chúng ta phải làm gì để cải thiện tình trạng xấu này.
2.
“Con người và tiến bộ” trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay
Một
cách chung nhất, chúng ta nhận thấy, chưa bao giờ Việt Nam phát triển về mọi
mặt như hiện nay, nhưng cũng chưa khi nào người dân Việt Nam chịu nhiều áp lực
và có nguy cơ bị loại trừ như lúc này, nhất là những người nghèo, ít học. Một
mặt, Việt Nam đang ra sức thúc đẩy phát triển nền kinh tế, làm giàu một cách nhanh
chóng; đẩy nhanh việc cải tiến khoa học - công nghệ, nhằm nhanh chóng đuổi kịp
các quốc gia trong khu vực; khai thác tài nguyên khoáng sản triệt để, nhằm có
được nhiều nguyên liệu thô xuất khẩu. Nhưng mặt khác, trong quá trình phát
triển như thế, có nhiều người bị loại ra khỏi cuộc chơi, không còn khả năng làm
việc trong môi trường công nghệ cao; môi trường sống của con người ngày càng
trở nên tồi tệ, thiên tai xảy ra nhiều hơn, khốc liệt hơn và khó chống đỡ hơn.
Cũng trong chiều hướng đó, sự cách biệt giàu nghèo đang ngày một sâu rộng hơn,
khoảng cách giữa thành thị và nông thôn ngày càng rõ nét. Nhiều người đang phải
gồng lên để làm lợi cho một số người nào đó trong xã hội. Con người đang ngày
càng bị lệ thuộc vào máy móc và những sản phẩm kỹ thuật do chính mình làm ra.
Một
trong những yếu tố nổi bật của nền kinh tế Việt Nam đang phải hòa nhập ngày nay, mà
có thể chưa rõ nét, đó chính là toàn cầu hóa. Thật vậy, chúng ta nói nhiều đến
toàn cầu hóa, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, nhưng chính người Việt Nam
nói chung, hoặc một số những doanh nghiệp và doanh nhân của chúng ta lại chưa
hiểu thấu đáo về hoạt động của cơ chế này. Chính trong hoàn cảnh như vậy mà
Việt Nam
đang phải đối mặt với nhiều rủi ro khi tham gia vào quá trình hoạt động của cơ
chế này. Theo nhận định của nhiều người, để có thể hội nhập tốt vào trong nền
kinh tế toàn cầu thì đòi buộc người nhập cuộc phải có được nền kinh tế đã vững
mạnh, ổn định; có trình độ phát triển cao về khoa học - kỹ thuật... Xem ra
những đòi hỏi này quá khó đối với nền kinh tế của Việt Nam, và như thế Việt Nam
cần phải có thời gian chuẩn bị lâu hơn nữa để có thể hội nhập vào nền kinh tế
toàn cầu hóa này. Nếu Việt Nam
vội vã để hội nhập, thì đối tượng bị loại trừ trước tiên chính là người nông
dân và các doanh nghiệp nhỏ. Điều này đang dần được chứng minh bằng chính những
khó khăn trong đời sống của người dân Việt Nam trước những khủng hoảng của nền
kinh tế.
Lại
nữa, Việt Nam
là quốc gia chỉ có một đảng duy nhất lãnh đạo, mà đó là đảng đi theo chủ nghĩa
vô thần. Vì vậy một cách nào đó, người dân cũng bị giới hạn về quyền tự do mà
đáng ra một người bình thường được hưởng, trong đó quyền tự do tôn giáo vẫn
được xem là có nhiều hạn chế. Chúng ta không
phủ nhận sự bình ổn mà đảng lãnh đạo đem lại cho người dân trong quá trình thúc
đẩy phát triển kinh tế. Thế nhưng, cũng chính vì có một đảng áp chế mà có quá
nhiều tiêu cực xảy ra, trong đó phải kể đến nạn tham nhũng và cửa quyền. Tham
nhũng là ăn cướp của người dân, và cửa quyền là hành hạ những người thấp cổ bé
miệng. Cách thức giải quyết thì không thấy bộc lộ rõ nét và cũng chẳng đi tới
đâu, bởi vì ai cũng có những khuyết điểm ấy, không ít thì nhiều, và nó kéo dài trong
cả một hệ thống lãnh đạo từ trên xuống dưới.
3. Giáo
hội Việt Nam
có thể làm gì?
Trong
bối cảnh Việt Nam như vậy, dĩ nhiên là chưa làm rõ được mọi vấn đề, thì Giáo
hội Việt Nam cũng cần có tiếng nói của mình trong những hoàn cảnh cho phép, để
góp phần nâng cao phẩm giá của con người trong quá trình phát triển đất nước.
Một cách cụ thể, Giáo hội Việt Nam
trước tiên hãy lên tiếng với những người con của mình đang đóng những vai trò
quan trọng trong những cơ quan kinh tế và xã hội. Kêu gọi họ ý thức trách nhiệm
của một người lãnh đạo trong quá trình làm kinh tế hoặc công tác xã hội, cần
phải chú trọng đến phẩm giá của con người. Đừng vì quá chú trọng đến quyền lợi
cá nhân mà bóc lột hoặc coi thường những người làm việc cho mình.
Mặt
khác, trong khi thực hiện việc giáo dục đức tin Kitô giáo cho người tín hữu, Giáo
hội cũng cần hướng dẫn cho con cái mình nhận ra phẩm giá đích thực của bản thân
họ trong tương quan với tha nhân và chính bản thân mỗi người. Giáo hội phải chỉ
cho người tín hữu ý thức được địa vị hết sức cao quý của mỗi người, và trên hết
họ là con Thiên Chúa, được Chúa Giêsu cứu chuộc, nhờ vào cái chết và sự phục
sinh của Người. Bên cạnh đó, Giáo hội cũng cần hướng dẫn cho mỗi người tín hữu
trong bổn phận và ý thức trách nhiệm phải nỗ lực làm chứng cho con người hôm
nay nhận ra giá trị đạo đức, nhân phẩm của mỗi người. Đối với những người đã
thực sự bị gạt ra bên lề xã hội, những người đang bị đối xử một cách bất
công... thì Giáo hội cần có những trợ giúp cụ thể về vật chất, về tinh thần, và
mạnh dạn lên tiếng bênh đỡ cho quyền lợi và phẩm giá của họ. Có lẽ phải nhìn
nhận với nhau rằng, Giáo hội chưa thể thực hiện một cách đồng bộ trong hoàn
cảnh hiện nay, nhưng ít ra trong những môi trường thuận tiện như nơi giáo xứ,
giáo phận, dòng tu... thì Giáo hội mời gọi con cái mình thực hiện những công
việc này.
Bối
cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, khách quan mà nói chưa cho phép Giáo hội địa
phương triển khai những vấn đề đã được các văn kiện của Giáo hội hoàn vũ nêu
lên, nhất là những yếu tố liên quan đến quyền lợi con người. Chính vì thế, từng
cá nhân những người Kitô hữu nói chung, và cách riêng là những tu sĩ nam nữ,
khi được học hỏi về Giáo huấn của Giáo hội, hãy ấp ủ trong lòng mình khát vọng
được dấn thân để chia sẻ và phục vụ những phận người bất hạnh đang hiện diện
trong xã hội. Chính khi chúng ta dấn thân cho công tác xã hội, mà hiện nay có
rất nhiều người đang âm thầm thực hiện, là chúng ta đang áp dụng những thông
điệp về xã hội của Giáo hội vào hoàn cảnh mà chúng ta sống. Thiết nghĩ đây
chính là lời mời gọi, nếu không muốn nói là yêu cầu cấp thiết mà người Kitô hữu
trong xã hội hôm nay phải sống và thực hiện. Chỉ bằng cách thế này chúng ta mới
có cơ hội giới thiệu Tin mừng của Chúa Giêsu cho con người thời nay mà thôi.
Đăng nhận xét