Khi mọi thành phần trong cộng đoàn cùng “hát lên bài ca mới”
là đang thể hiện một niềm vui được chung tay và chia sẻ với nhau.
Thực tế cộng đoàn vẫn phải chấp nhận
có những thành viên “không khoẻ”
hoặc không muốn hát chung với những người khác.
Đây là lúc cộng đoàn cần phải đón nhận những thành viên không còn
“đủ sức” hoặc không còn thiết tha gì với sứ vụ chung.
Điều này xem ra tiêu cực, nhưng lại cho thấy tính hiệp thông trọn
vẹn nhất trong cộng đoàn tu trì.
Mai Hoàng, OP
Trong khẩu hiệu Năm Thánh Giáo hội Việt Nam mừng 50 năm thành lập
hàng Giáo phẩm, sự hiệp thông là một trong ba yếu tố được quan tâm. Điều đó cho
thấy, sự hiệp thông đóng vai trò quan trọng trong đời sống của Giáo hội tại
Việt Nam .
Mọi người Công giáo trên đất nước này được mời gọi xây dựng sự hiệp thông trong
chính đời sống đạo của mình. Cách riêng, người tu sĩ đang sống ơn gọi thánh
hiến tại Việt Nam
cũng phải kiến tạo sự hiệp thông này trong chính cộng đoàn của mình. Và có thể
nói, cộng đoàn tu trì chính là biểu tượng cho sự hiệp thông trong sinh hoạt của
Giáo hội.
Thật
vậy, khi chọn đời tu, đặc biệt là tu dòng, người tu sĩ bước vào một ngôi nhà
mới, nơi mọi người là anh (chị) em, vì có chung vị Tổ Phụ. Khi chọn đời tu,
người tu sĩ tự nguyện sống độc thân, nhưng không sống một mình. Người tu sĩ
được mời gọi để xây dựng một gia đình mới, rộng lớn hơn, phổ quát hơn. Trong
gia đình này, họ sẽ là người cha (mẹ), vì đi sau họ là một đoàn con thơ bé; họ
có thể là người anh (chị), vì tiếp bước họ là những người em còn trẻ; họ cũng
là người em, người con trong gia đình, vì trước họ đã có những người cha (mẹ)
đáng kính, người anh (chị) nhân từ. Tự nguyện gia nhập vào mái nhà mới là người
tu sĩ phải có trách nhiệm và bổn phận xây dựng và kiến tạo ngôi nhà đó, vì
chưng họ sẽ được đón nhận những quyền lợi từ gia đình này.
Thế
nhưng, điều quan trọng không phải người tu sĩ sẽ đóng góp vật chất để làm giàu
cho gia đình mới, nhưng cần trở nên một người thân thực sự của gia đình, một
người có thể hiệp thông cùng các thành viên khác của gia đình. Có như thế, họ
mới thực sự trở nên người con, người em, người anh (chị), người cha (mẹ) của gia
đình đã gia nhập. Nói vậy nhưng không phải dễ dàng để trong thời gian ngắn là
người ta đã có thể hoà nhập được cách sống như thế, mà đòi hỏi phải có khoảng
thời gian nhất định và sự cố gắng hết mình thì mới mong hoà nhập và sống hạnh
phúc được.
Hiện
diện giữa anh (chị) em
Thời
gian đầu tiên mà một người gia nhập cộng đoàn là lúc họ được mời gọi để hiện
diện giữa anh (chị) em. Chính họ sẽ bắt đầu cuộc sống của mình bằng cách tiếp
cận với những người xa lạ, không cùng địa phương, khác nhau về tuổi tác, về khả
năng và đôi khi bất đồng về chính kiến. Thế nhưng, sự hiện diện của những thành
viên mới rất có thể là nhân tố tạo nên sự đa dạng và phong phú cho cộng đoàn.
Về điều này, nhất thiết từng người phải dám tin như thế, nếu không sẽ rất khó
có thể sớm hoà nhập, vì dù thế nào thì mỗi người cũng đều có những giá trị
riêng của chính mình. Không một người nào đến và hiện diện trong cộng đoàn lại
không đóng góp được một chút gì đó tích cực cho cộng đoàn!
Thiết nghĩ, các bậc tiền bối trong cộng đoàn cũng không
đòi hỏi những thành viên mới phải đóng góp một cái gì đó, nhưng chính sự hiện
diện của họ đã là một sự chung chia tốt đẹp rồi. Và thường tình, cộng đoàn cũng
đã nhìn nhận các thành viên trẻ mới gia nhập “là món quà mà Thiên Chúa ban
cho Hội Dòng”[1].
Khi đón nhận được sự cảm thông như thế từ những anh (chị) em trong cộng đoàn,
thì nhất thiết những người mới gia nhập cũng cần có sự đáp trả xứng đáng với
những gì cộng đoàn dành cho mình. Hiểu được như vậy, mỗi người sẽ có phương thế
hiện diện mới hơn, không phải chỉ có thân xác ở đó, nhưng cần hiện diện với cả
con tim của mình. Một cách nào đó, nếu chưa thể sống thân tình ngay được với
những người đi trước trong cộng đoàn, thì những người mới gia nhập chí ít cũng
phải coi cộng đoàn là gia đình của mình.
Một
người được mời gọi để hiện diện, và bản thân họ cũng tự nguyện đến với cộng
đoàn, thì chắc chắn đó phải là sự hiện diện trong niềm vui và hạnh phúc. Bước
đầu gia nhập cộng đoàn mà không tìm được sự cảm thông và chia sẻ từ anh (chị)
em thì đó quả thật là một sự hiện diện đau khổ và bất hạnh. Làm thế nào để cộng
đoàn thấy vui vì có sự hiện diện của mình là một đòi hỏi mà bản thân mỗi người
phải tự thể hiện mình. Có không ít anh (chị) em trẻ khi mới gia nhập cộng đoàn
đã trở nên những người gần gũi và thân thiện với mọi thành viên khác. Những
người này được Thiên Chúa ban cho khả năng hội nhập thật tuyệt vời. Tuy nhiên,
thành phần như thế chỉ là thiểu số, còn phần đông là những người phải mất một
thời gian hiện diện lâu dài mới có thể “trở nên anh (chị) em” đích thực trong cộng đoàn.
Trở
nên người anh (chị) em
Đây là giai đoạn “thứ hai” trong đời sống cộng đoàn của
mỗi người. Lúc này không còn là thời gian Tôi đang có mặt “trong đó”, nhưng
bước đến gian đoạn “Tôi và Bạn” đã trở nên những người hiểu nhau, dám chia sẻ
với nhau, thông cảm cho nhau. Một cách nào đó, trở nên anh (chị) em là mọi
người dám hiến dâng cho nhau lòng tin và sự quả cảm. Mặt khác, để trở nên anh
(chị) em của nhau, mỗi người phải trải qua một thời gian đào luyện và từ bỏ
mình đi rất nhiều. Rất có thể, mỗi người đã phải “cắt tỉa” đi những gì là thân
quen, là gắn kết với bản thân mình; từng người đã phải học cho biết những điều
mà từ trước đến nay chưa hề biết, không hề quan tâm, hoặc cũng chẳng thích thú
gì. Tuy nhiên, nếu khách quan nhìn lại, mỗi người sẽ nhận thấy bản thân mình
nhẹ nhàng hơn, đỡ “gồ ghề” hơn sau một thời gian được đào luyện như thế.
Điểm
chung để những người xa lạ có thể trở nên thân thiết và hoà hợp, đó chính là
khả năng dám quên đi bản thân và học biết nơi người khác. Mỗi thành viên trong
cộng đoàn phải học biết những điều hay, điều phải nơi người khác, thì mới có
thể đưa tay ra để bắt lấy những bàn tay thân thiện. Khi một người chưa dám chân
nhận những điểm tích cực của người khác thì chắc chắn người đó chưa thể là anh
(chị) em thực sự của cộng đoàn. Vì rằng, họ còn đang mang “thành kiến” với
người khác, và chỉ muốn phủ nhận người khác. Trở nên anh (chị) em trong cộng
đoàn là từng người dám chấp nhận cả những khuyết điểm, hoặc những điều còn
thiếu xót nơi những thành viên khác trong cộng đoàn. Bởi lẽ, chính mỗi người
cũng đang mang nơi mình quá nhiều những tội luỵ, thì tại sao lại bắt buộc người
khác phải thực sự hoàn thiện. Nói như thế không có nghĩa là đồng loã với những
điểm tiêu cực còn đang tồn tại, nhưng mong muốn một sự thông cảm và yêu thương,
giúp nhau sửa đổi những yếu đuối ấy. Chỉ có tình yêu chân thành thì mọi người
trong cộng đoàn mới giúp những người sai phạm có thể sửa đổi, còn những hình
phạt thì thường đẩy họ vào những bế tắc. Một khi các thành viên của cộng đoàn nói
chuyện được với nhau và lắng nghe nhau chân thành là lúc cộng đoàn đó đã có thể
“hát lên bài ca mới”.
Cùng
hát lên bài ca mới
Sau
một thời gian hiện diện và kết thân, đây là giai đoạn lý tưởng và đẹp nhất cho
những thành viên sống trong cộng đoàn. Lúc này, mọi người được mời gọi hiệp
thông trọn vẹn cho cộng đoàn, không còn việc gì là của riêng mình. Bước vào giai đoạn này, từng người phải thực sự ý thức
về đời sống dâng hiến của mình, mà nói như cha Timothy Radcliffe – Nguyên Bề
trên Tổng quyền Dòng Anh em Giảng thuyết : “Nếu chúng ta không thể thực sự
dâng hiến bản thân cho Hội Dòng một cách vô điều kiện, thì chúng ta đơn thuần
chỉ là một nhóm gồm những cá nhân độc lập mà thôi”[2]. Mọi
người trong cộng đoàn được mời gọi trở nên một, sống và chết cho một sứ vụ
chung của cộng đoàn. Công tác của người này cũng chính là việc làm của cả cộng
đoàn và ngược lại. Trong thời gian này, mọi người trong cộng đoàn cùng hát lên
một bài ca, bài ca của tình hiệp thông huynh đệ, bài ca của lòng bác ái, của
tinh thần phục vụ… và quan trọng hơn cả là cộng đoàn cùng cất cao “lời ca ngợi
Thiên Chúa, nói về Thiên Chúa, Đấng biến đổi mọi sự”. Anh hát, chị hát, tôi
hát… mọi người cùng hát thì chắc chắn tiếng hát sẽ vang đi rất xa, dĩ nhiên lúc
này tiếng hát của mọi người đã hoà quyện vào nhau tạo nên những cung trầm bổng
và luyến láy. Hơn bao giờ hết, đây là lúc “mỗi người phải biết lãnh trách
nhiệm, đôi khi phải đau đớn mà thực hiện điều đó và dám liều mình đưa ra những
quyết định, thậm chí là một quyết định sai lầm”[3]. Một
người không thi hành trách nhiệm của mình trong cộng đoàn lúc này, thì chắc
chắn như vở kịch thiếu đi một vai diễn quan trọng. Tuy nhiên, trách nhiệm mà
một người lãnh nhận, cũng như công việc được thực hiện, tiên vàn phải khởi đi
từ tình yêu, một tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa và được chia sẻ cho mọi thành
viên khác trong cộng đoàn. Thật thế, bất cứ việc gì khởi đi từ tình yêu thì
phải được chia sẻ:
Chúng
ta không nên giữ kín tình yêu ấy trong cái tủ nhỏ bé riêng tư trong góc tường
để hưởng nếm một mình, như thể một ‘gói kẹo’ được cất dấu vụng trộm để ăn mảnh.
Cần phải mở rộng tình yêu này với mọi anh (chị) em trong cộng đoàn, chia sẻ
tình yêu với họ và làm cho họ được hưởng lợi từ tình yêu này. Mọi người phải
chia sẻ tình yêu của mình với các anh (chị) em bằng hữu, và từ anh (chị) em
bằng hữu đến với những người mà họ thương mến. Như thế, tình yêu riêng tư của
một người đã trở nên phổ quát.[4]
Khi mọi thành phần trong cộng đoàn cùng “hát lên bài ca
mới” là đang thể hiện một niềm vui được chung tay và chia sẻ với nhau. Thực tế
cộng đoàn vẫn phải chấp nhận có những thành viên “không khoẻ” hoặc không muốn
hát chung với những người khác. Đây là lúc cộng đoàn cần phải đón nhận những
thành viên không còn “đủ sức” hoặc không còn thiết tha gì với sứ vụ chung. Điều
này xem ra tiêu cực, nhưng lại cho thấy tính hiệp thông trọn vẹn nhất trong
cộng đoàn tu trì. Lý tưởng “trở nên một” trong đời sống cộng đoàn vẫn còn là
một vấn đề đang bỏ ngỏ, và có lẽ sẽ mãi mãi là như thế, vì rằng còn đó những
suy nghĩ “riêng tư” của mỗi người. Bài ca sẽ cất lên, cộng đoàn sẽ chung tay,
và ước mong nên hoàn thiện vẫn là điều cần thiết nhất để xây dựng cộng đoàn
huynh đệ trong đời sống dâng hiến của mỗi người.
Tạm Kết
Thật
vậy, “Sự Hiệp Thông” là một hạn từ rất đẹp để diễn tả sự liên đới giữa người
với người trong đời sống xã hội. Trong đời sống tu trì, hạn từ này được nhắc đi
nhắc lại trong mọi khoảnh khắc của đời sống cộng đoàn. Với một ý nghĩa phổ quát
hơn, sự hiệp thông trong đời sống dâng hiến được hiểu theo một sự liên hệ bền
chặt trong mọi biến cố của cuộc đời người tu sĩ. Làm thế nào để có thể nuôi
dưỡng sự hiệp thông thật tình đến mức, khi phải ra ngoài làm việc, dù rằng công
việc đó rất tốt, rất lý tưởng, nhưng người tu sĩ vẫn không khỏi mong ngóng giây
phút được trở về với cộng đoàn – nơi đó chính là ngôi nhà thân thương của mỗi
người. Khi trở về với cộng đoàn, người tu sĩ phải cảm thấy mình hạnh phúc ngay
từ giây phút được lắng nghe những bước chân của những anh (chị) em trong cộng
đoàn, rồi được nghe những lời thăm hỏi khích lệ từ họ.
Người tu sĩ cũng phải ý thức được rằng, cuộc sống của họ
thật sự là quý giá đối với cộng đoàn. Và trong tình hiệp thông, cho dù có lúc
cuộc sống của mỗi người gặp những bất trắc, cho dù nhược điểm và lỗi lầm của
mỗi người có thế nào đi nữa, và cho dù mỗi người đã thất bại bao nhiêu lần
trong cuộc đời thì họ vẫn được cộng đoàn thương yêu. Không những họ được anh
(chị) em trong cộng đoàn thương yêu, mà họ tin rằng, Thiên Chúa trên trời cũng
yêu thương họ nữa. Và như vậy, người tu sĩ không chỉ hướng đến sự hiệp
thông trong cộng đoàn, nhưng sâu xa hơn, họ sẽ hướng thượng và đi sâu
vào tương quan với Cha trên trời, mối tương quan vĩnh cửu.
Đăng nhận xét