http://baochiaselts.blogspot.com/2017/03/nhin-lai-oi-minh-tuoi-oi-tuoi-tu-on-goi.html
Trong hành trình cuộc sống,
Chúa Thánh Thần có thể cho chúng ta
trải qua một kinh nghiệm khủng hoảng khi thấy mình trống rỗng, vong thân, tha hoá, vì đánh mất căn tính của mình.
Tâm trạng này có thể gọi là sự khủng hoảng về điểm tựa.
Thay vì chọn Chúa Giêsu là điểm tựa duy nhất,
chúng ta đã tựa vào những tạo vật ảo ảnh phù hoa
và những giá trị trần thế sẽ qua đi như gió thổi mây bay.
Chúa Thánh Thần có thể cho chúng ta
trải qua một kinh nghiệm khủng hoảng khi thấy mình trống rỗng, vong thân, tha hoá, vì đánh mất căn tính của mình.
Tâm trạng này có thể gọi là sự khủng hoảng về điểm tựa.
Thay vì chọn Chúa Giêsu là điểm tựa duy nhất,
chúng ta đã tựa vào những tạo vật ảo ảnh phù hoa
và những giá trị trần thế sẽ qua đi như gió thổi mây bay.
Nt. Têrêsa Phạm Thị Oanh, OP.
Dẫn Nhập
Sau khi đã thánh hiến trọn đời,
người tu sĩ được Hội Dòng và Giáo Hội luôn tôn trọng và tín nhiệm như những
người đã trưởng thành về nhân bản cũng như nhân cách đời tu, về đời sống tâm
linh cũng như đời sống sứ vụ tông đồ. Vì trong suốt quá trình tu luyện từ ngày
đầu tiên ứng sinh bước vào Thỉnh viện đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa cho
tới ngày vĩnh khấn, đã được huấn luyện trưởng thành tương xứng về nhân bản,
nhân cách Kitô giáo, đời sống tâm linh và khả năng thi hành sứ vụ. Chúng ta đã
từng bước cam kết theo sát Chúa Kitô, được Người biến đổi trở nên đồng hình
đồng dạng với Người, và để Người sai đi loan báo Tin Mừng Nước Trời.
Một cách cụ thể, chúng ta không thể
chọn một ứng sinh còn thiếu nhân bản vào Tiền Tập, còn thiếu nhân cách đời tu
vào Tập viện; hay cho tiên khấn một huấn sinh chưa trưởng thành về đời sống tâm linh, cũng như cho khấn trọn đời
người chưa trưởng thành về cả 4 phương diện: nhân bản, nhân cách đời tu, đời
sống tâm linh và khả năng thi hành sứ vụ.
Nhưng trong cuộc sống hằng ngày,
những tu sĩ đã khấn trọn của chúng ta vẫn còn có những người chưa thực sự
trưởng thành trong giao tiếp, ứng xử; phản ứng như người không có đức tin,
thiếu đời sống nội tâm, chiêm niệm và chia sẻ cho tha nhân những gì mình đã
chiêm niệm. Vì thế, sứ vụ của Hội dòng chưa thực sự hiệu quả như Chúa và Giáo
Hội mong muốn. Điều này cho thấy rằng: sự trưởng thành đời tu không tuỳ thuộc
vào thời gian sống trong nhà Chúa nhưng vào mối tương quan của người tu sĩ với
Thiên Chúa và tha nhân.
Vậy, để có câu
trả lời trung thực và chính xác, chúng ta có thể tự hỏi mình hay đặt câu hỏi
với huấn sinh như sau:
-
Đời tu của tôi hiện nay có được bình an và hạnh
phúc không?
-
Qua những thăng trầm của đời sống, tôi nhận thấy
mối tương quan của mình với Chúa Giêsu như thế nào, có sống động và thân tình
hơn theo thời gian không?
-
Tôi có cảm nghiệm được sự hiện diện yêu thương của
Chúa Giêsu trong từng phút giây đời sống của mình không?
-
Và tình yêu của Chúa Giêsu đã tác động đến ơn gọi
và sứ vụ của tôi như thế nào?
Hy vọng những
câu hỏi gợi ý trên sẽ là một lời mời gọi thức tỉnh chúng ta tự huấn luyện mình
sống trong sự thật. Sự thật mà chúng ta đã được thánh hiến khi lãnh Bí tích Rửa
tội và trong Lời khấn Dòng. Sự thật mà Chúa Giêsu luôn cầu nguyện xin Cha thánh
hiến chúng ta, để chúng ta luôn xác tín mình là con Thiên Chúa và là môn đệ của
Người. Sự thật đã giải thoát chúng ta khỏi mọi sợ hãi, khỏi mọi hình thức nô lệ
cho những giá trị trần thế để được tự do thuộc trọn về Thiên Chúa, được hưởng
niềm vui và sự bình an của Nước Trời ngay ở đời này.
Đồng thời những câu hỏi trên cũng
giúp chúng ta nhìn lại đời mình: tuổi đời và tuổi tu, ơn gọi và sứ vụ; một cuộc
đời đan xen giữa ánh sáng và bóng tối, sức mạnh của ơn Chúa với những yếu đuối
của bản thân, thiện chí cố gắng với vấp ngã nản lòng, thành công và thất bại,
hạnh phúc và đau khổ,.... Nhưng tất cả đã dệt nên một thiên tình sử tuyệt vời
giữa một thụ tạo bé nhỏ thất trung với một Thiên Chúa toàn năng luôn trung
tín.
Vâng,
đời tu mỗi người là một thiên tình sử. Chúng ta cùng nhìn lại cuốn phim đời
mình để khám phá ra hành động của Thiên Chúa đã và đang đồng hành với từng biến
cố trong cuộc sống của chúng ta như thế nào?
1.
NHÌN LẠI TUỔI ĐỜI
Người tu sĩ
sau khi đã khấn trọn, thường ở trong độ tuổi trưởng thành hay tuổi trung niên
rồi. Các nhà tâm lý, giáo dục cũng như tu đức học đã nói gì về tuổi này? Người
tu sĩ ở độ tuổi này có còn bị khủng hoảng nữa không?
(Khủng hoảng không
chỉ có nghĩa là tâm trạng mất quân bình, mất định hướng hoặc có nhiều mâu thuẫn
nội tâm, nhưng còn là một thách thức trở nên chính mình, một đòi hỏi quyết liệt
cần phải có một thái độ mới trước những thay đổi trong cuộc sống)
Theo Cha Thân Văn
Tường “cuộc đời mỗi người có 4 tiếng khóc chính:
- Tiếng khóc đầu
tiên lúc lọt lòng mẹ.
- Tiếng khóc thứ hai
khi rời mái ấm gia đình.
- Tiếng khóc thứ ba
lúc rời bỏ tuổi thanh xuân đầy nhựa sống để bước sang tuổi trung niên.
- Tiếng khóc cuối
cùng là tiếng khóc của mùa thu lá bay, khi chúng ta
sắp rời cuống nhau cuộc đời này mà sinh vào một thế giới đang tới.
Nhận xét trên cho thấy tâm trạng
của con người xem ra rất đau đớn khi phải đối diện với những thay đổi (tuổi tác
và môi trường). Nhưng khởi đi từ những tiếng khóc ấy, cuộc đời con người được
phát triển, đổi mới và ý nghĩa hơn.
Theo Cha Charles Serrao, OCD: “Cuộc
khủng hoảng của tuổi trung niên kéo dài từ 30 – 65 tuổi; tuỳ thuộc vào văn hoá,
xã hội, công việc và trách nhiệm người ta đảm nhận.” [1].
Đặc biệt trong độ tuổi từ 35-40 đối với nữ giới và từ 40-45 đối với nam giới,
đỉnh cao của tuổi trưởng thành và đang chuyển tiếp sang tuổi xế trưa, tuổi hồi
xuân, thì khủng hoảng cần phải có như một thách thức về căn tính. Khủng hoảng
giữa cái “CÓ” và cái “LÀ”. Ở tuổi này, có thể chúng ta có rất nhiều: kiến thức,
học vị, địa vị, vật chất, công nghiệp, kinh nghiệm và những mối tương quan….,
nhưng chúng ta đang LÀ gì? Những cái CÓ đó có làm nên giá trị đích thực của
chúng ta là Kitô hữu hay là một tu sĩ đích thực không?
Trong hành trình cuộc
sống, Chúa Thánh Thần có thể cho chúng ta trải qua một kinh nghiệm khủng hoảng
khi thấy mình trống rỗng, vong thân, tha hoá, vì đánh mất căn tính của mình. Tâm trạng này có
thể gọi là sự khủng hoảng về điểm tựa. Thay vì chọn Chúa Giêsu là điểm tựa duy
nhất, chúng ta đã tựa vào những tạo vật ảo ảnh phù hoa và những giá trị trần
thế sẽ qua đi như gió thổi mây bay. Với ý nghĩa trên xin trình bày về sự khủng
hoảng tuổi trung niên như một thách thức; thách thức trở nên chính mình theo dự
phóng của Thiên Chúa.
a. Khủng hoảng
tuổi trung niên: một thách thức
Theo chị Thecla Trần Thị Giồng,
tuổi từ 35-45 được xem như giai đoạn chuyển tiếp, và đây là giai đoạn chuyển
tiếp quan trọng nhất trong đời, mỗi người trở nên diễn viên của đời mình. Người
ta quay về với thực tại nội tâm chứ không tìm ở bên ngoài như trước. “Những gì
tuổi trẻ phải tìm và đã tìm bên ngoài, con người ở tuổi xế trưa phải tìm ở
chính mình”. Vì thế, đối với rất nhiều người, thường xảy ra những thay đổi đáng
kể ở tuổi trung niên; thế giới của họ bất thần đảo lộn và lối sống hoàn toàn
thay đổi. Điều này được coi như một tiến trình trong cuộc đời. Nhiều cuộc đời
trong tuổi này đã có những thay đổi một cách đáng ngạc nhiên, họ có thể trở nên
con người bản lãnh, tự tin hơn, ý thức trách nhiệm, và thành đạt hơn; hay họ
cũng có thể trở nên bạc nhược, yếu đuối, thất bại, bị hư hại, có khi đem đến sự
tiếc nuối cho cả quãng đời còn lại. Các nhà tâm lý giáo dục và tu đức cho rằng:
đời mỗi người được hay mất tuỳ thuộc vào giai đoạn này. Chính vào tuổi này mà
nhiều gia đình được củng cố ổn định hơn và cũng trong thời điểm này hầu hết các
vụ ly hôn xảy ra; còn với tu sĩ, linh mục đây cũng là lúc cần đặt lại vấn đề,
trở về sống đúng với căn tính ơn gọi, xuất phát lại từ Đức Kitô hay lại muốn
thay đổi ơn gọi, thậm chí có thể hồi tục nữa. [2]
Về phương diện
tâm lý, “Tuổi trung niên là giai đoạn của những mâu thuẫn nội tại trong chính
bản thân [3]
- Mâu thuẫn giữa
thái độ thể hiện trẻ và già: một mặt cảm thấy mình là người trưởng thành, già
giặn; mặt khác vẫn cố duy trì sự trẻ trung, muốn mình vẫn còn thuộc về giới
trẻ.
- Mâu thuẫn về ý
muốn: vừa muốn vươn lên, vừa thấy bị giằng co, nặng nề, vì các xung năng bùng
lên mạnh mẽ. Mâu thuẫn giữa cái tôi muốn và cái tôi làm…
- Mâu thuẫn giữa
những lực đối kháng bên trong: nơi người nữ, nữ tính nhẹ đi và nam tính bắt đầu
mạnh lên. Nữ giới trở thành con người cứng cỏi dựa trên lý trí, có khuynh hướng
độc lập, lãnh đạo. Diễn tiến này ngược lại nơi người nam; họ trở nên mềm hơn.
Trong đời sống tu trì người tu sĩ bắt đầu suy nghĩ độc lập hơn.
Trong thực tế, một số người trải
qua tuổi trung niên cách bình thản trong khi nhiều người khác lại có kinh
nghiệm như cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên, khủng hoảng ở đây không có nghĩa là một
sự suy thoái, sụp đổ nhưng là những thay đổi phải có để bước sang một giai đoạn
mới với những thách thức mới mà tuỳ theo sự chọn lựa thái độ sống thích hợp,
chúng ta có thể ngày một hoàn tất tiến trình thành nhân của mình hơn.
b. Thách thức
trở nên chính mình theo dự phóng của Thiên Chúa
Theo Cha Charles Serrao OCD, bước
vào tuổi trung niên người ta phải có những quyết định quan trọng định hình cho
cuộc đời còn lại của mình, một giai đoạn có hàng loạt những biến cố lớn trong
bất cứ hình thức thay đổi nào về các phương diện: sự nghiệp, đời sống tình cảm
hay đời sống đức tin và ơn gọi.[4]
-
Giai đoạn này cho thấy rằng không có Thiên Chúa, con
người không thể hạnh phúc. Không gì thuần tuý nhân loại thoả mãn được những
khát vọng của con người. Con người cần thăng hoa và mở lòng ra cho Thiên Chúa.
Đó là sự từ bỏ mình; càng từ bỏ mình cho Thiên Chúa, càng được giải thoát. Khi
ấy những kinh nghiệm xem ra tiêu cực sẽ thành tích cực.
- Trong giai đoạn
này, người ta thường tìm kiếm những giải pháp nhờ những thay đổi bên ngoài
nhưng giải pháp duy nhất lại nằm ở bên trong, chứ không ở bên ngoài. Vì thế,
chúng ta phải hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa như một trẻ thơ (Mt 18,3). Đây
là điều dẫn tới một cuộc sống mới, là một tiến trình cá thể hoá, tự nhận biết,
nội tâm hoá, làm cho mình thành siêu việt, một sự thống nhất đời sống. Lúc này,
chúng ta được mời gọi để phát triển cá nhân tính của mình theo dự phóng của
Thiên Chúa để quyền năng và tình yêu Thiên Chúa được tôn vinh nơi sự yếu đuối
của chúng ta: “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh”
Tới đây, chúng ta
có thể nhận thấy rằng: khủng hoảng tuổi trung niên là một điều cần thiết trong
tiến trình thành nhân và thành con Thiên Chúa. Đó là:
- Một giai đoạn phát
triển.
- Một giai đoạn để
hoàn tất cuộc sống và thiết lập mục đích cho cuộc sống.
- Thời gian phát huy
triết lý sống cho đời mình.
- Thời gian không
còn làm vui lòng kẻ khác nữa mà bắt đầu củng cố bản vị mình theo ý Chúa.
- Thời gian có những
quyết định quan trọng.
- Lúc bắt đầu một
cuộc sống mới.
-
Lúc đánh giá hiện tại và định hướng cho tương lai.
- Nấc thang để như
Maslow gọi “tự hoàn tất chính mình” hay như
Jung để “cá thể hoá” chính mình.
Như vậy, tuổi
trung niên là thời gian rất quan trọng và cũng rất tuyệt vời vì ngay chính
những khủng hoảng của nó lại khai sinh ra một nhân cách trưởng thành.[5]
2. NHÌN LẠI TUỔI
TU
Nhìn lại tuổi tu là nhìn lại mối
tương quan của mình với Chúa Giêsu trong suốt hành trình bước theo Người. Chúng
ta có thể tự hỏi mình:
Đối với
tôi, Chúa Giêsu là ai và Người đã tham dự vào đời sống của tôi như thế nào?
Tôi có
cảm nhận được Chúa Giêsu luôn đồng hành bên tôi trong mọi phút giây, ngay giữa
những công việc thường ngày hay từng biến cố trong cuộc đời của tôi không?
Thực ra, mối
tương quan cá nhân của mỗi người với Chúa Giêsu chính là một ân huệ như Chúa
Giêsu đã nói với chị phụ nữ Sa-ma-ri ở bờ giếng Gia-Cóp: “Nếu chị nhận ra ân
huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị “cho tôi chút nước uống”,
thì hẳn chị đã xin và người ấy ban cho
chị nước hằng sống.”(Ga 4, 10). Mối tương quan này sẽ sống động và thân tình
hơn tuỳ thuộc vào sự liên lạc hằng ngày của chúng ta
với Chúa; vì Chúa đã đi bước trước mời gọi chúng ta lập giao ước tình yêu với
Người. Thực tế, trong mỗi giây phút hiện tại, khi mỗi người đang lo toan cho
cuộc sống của mình, Chúa Giêsu luôn ngồi đó, bên bờ giếng ngỏ lời: “Chị cho tôi
xin chút nước uống”. Nhưng chúng ta đã nhận ra Chúa Giêsu và để Người tác động
đến đời sống cá nhân của mình từng ngày như thế nào? Chúng ta đã hưởng ứng hay
cản trở tác động của Chúa?
Để có thể trả lời trung thực hơn về
mối tương quan của mình với Chúa Giêsu trong hành trình đời tu, mỗi người sống
lại tình yêu thủa ban đầu của mình qua từng bước quyết định tiến lên trong các
giai đoạn đào tạo sơ khởi.
a. Sống lại tình
yêu thuở ban đầu
Nhớ lại bước
quyết định đầu tiên của mình, khi từ bỏ gia đình, ba mẹ, anh chị em, bạn bè,…để
đi tu, vào nhà Chúa, sống dưới mái nhà Thỉnh viện, hoàn toàn khác lạ với căn
nhà của mình, chúng ta thấy: em bé 10 – 11 (18) tuổi ngày xưa ấy đã mang
tâm trạng thế nào? Rồi cuộc sống mới này
bên những bạn khác dưới sự hướng dẫn của quí vị đặc trách và quí Bề trên theo
một chương trình huấn luyện rất nghiêm túc, nhưng tại sao em bé ngây thơ ấy vẫn
bình an ở lại với Chúa, rồi can đảm tiến
lên Tiền Tập, Tập viện, và Tiên Khấn trung thành với ơn gọi theo sát Chúa Kitô
khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục trong niềm vui được đổi mới từng ngày? Nhìn
lại bước đầu đời tu, chắc chắn chúng ta phải chân nhận rằng: “Chính Thiên Chúa
đã chọn gọi và chinh phục tôi, và tôi đã bị tình yêu Người thu hút như ngôn sứ
Giê-rê-mi-a hay như bốn môn đệ đầu tiên đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu.” (Mc
1, 16-20).
Rồi những bước quyết định kế tiếp
mỗi ngày một quan trọng hơn, đòi hỏi nhiều can đảm và hy sinh hơn khi chúng ta
chuẩn bị cho hiến tế trọn đời sau thời gian thực tập sứ vụ của Hội Dòng. Lúc
này chúng ta đã trưởng thành hơn, tham gia vào những sinh hoạt của Hội Dòng
nhiều hơn, được học hỏi hiểu biết hơn về Thiên Chúa qua những môn học về Thánh
kinh, thần học, huấn giáo và tu đức; đồng thời chúng ta cũng hoà nhập hơn với
truyền thống Hội Dòng; cũng như có thêm những mối tương quan rộng hơn trong môi
trường sứ vụ. Đặc biệt hơn nữa, mỗi ngày chúng ta có thêm kinh nghiệm về tình
yêu Chúa, được Chúa huấn luyện trong mầu nhiệm thập giá của đời sống huynh đệ
cộng đoàn với những giới hạn của bản thân, của Bề trên, cũng như những thách đố
đa dạng của nền văn minh hiện đại. Nhưng sức mạnh của ơn Chúa đã thúc đẩy chúng
ta sẵn sàng vét rỗng bản thân, từ bỏ tất cả để tuyên khấn trọn đời trong tay Bề
trên của mình trước sự chứng giám của Đức Giám Mục đại diện Giáo Hội và cộng
đoàn dân Chúa.
Quả thật, nhìn lại đời tu, chúng ta
cảm thấy rõ hơn hoạt động của Thiên Chúa thật mãnh liệt và sống động trong cuộc
đời của mình. “Không phải các con đã chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn các con
và sai các con đi…”(Ga 15).
b. Nhìn lại giao
ước tình yêu đã tuyên khấn
Cho đến hôm nay, sau khi đã khấn
trọn đời từ 10 - 30 năm, chúng ta đã đảm nhiệm những công tác khác nhau để phục
vụ cộng doàn cũng như phục vụ Tin Mừng
giữa lòng xã hội. Vào thời điểm này, khi tuổi đời và nhân cách trưởng thành
hơn, chúng ta tự cảm thấy đời thánh hiến sẽ mất ý nghĩa và trống rỗng biết bao
nếu như chúng ta không thực sự gặp gỡ được Chúa Giêsu trong tương quan cá vị? Đây là thời điểm, Chúa Thánh Thần không ngừng
khơi dậy trong nội tâm chúng ta khát vọng được uống mạch nước hằng sống mà Chúa
Giêsu đã hứa ban cho những ai tin vào Người (Ga 7,37-38). Và chính khát vọng
tâm linh này sẽ thúc đẩy chúng ta nhìn lại giao ước tình yêu của mình với Chúa
Giêsu, để có những bước đổi đời: theo sát Chúa Giêsu hơn, trở nên đồng hình
đồng dạng với Chúa Giêsu hơn và có thể làm chứng nhân cho Chúa Giêsu hiệu quả
hơn.
Quả thực, nếu như chúng ta luôn mở
rộng cõi lòng đón nhận sự hiện diện yêu thương của Chúa Giêsu, trung tín với
giao ước tình yêu và được thánh hiến trong sự thật dưới ánh sáng Lời Chúa, thì
chính sự thật sẽ giải phóng chúng ta khỏi những mặc cảm, yếu đuối bản thân và
những vinh quang, ảo ảnh trần thế; chúng ta sẽ cảm thấy rằng: “Lời khấn khiết
tịnh mở rộng con tim chúng ta cho đến chiều kích của con tim Đức Kitô và làm
cho nó có thể yêu mến như Người đã yêu. Lời khấn khó nghèo giải thoát chúng ta
khỏi nô lệ các sự vật và các nhu cầu giả tạo đang lôi cuốn xã hội tiêu dùng và
dẫn chúng ta đến việc tái khám phá Đức Kitô kho tàng duy nhất đáng để chúng ta
tìm kiếm. Lời khấn vâng phục đặt cuộc sống hoàn toàn trong bàn tay Đức Kitô ngõ
hầu Người có thể sử dụng theo kế hoạch của Thiên Chúa và biến nó trở nên một
tuyệt tác.”(XPĐK 22)
Trái lại, nếu như chúng ta thất
trung với Chúa, không đặt niềm tin nơi Lời Chúa, xa quên Thiên Chúa, loay hoay
toan tính, tự lo cho bản thân mình, tuyệt đối hoá chính mình, tự đặt mình là
thần tượng, chúng ta sẽ sống tách rời cộng đoàn, bị vong thân, tha hoá, đánh
mất mình, dẫn đến buồn nản và tuyệt vọng. Trong tâm trạng trống rỗng, bất an,
mất ý nghĩa sống này, chúng ta sẽ mất định hướng, trở thành chuyên viên gây rối
cho chính mình và bất cứ nơi nào mình hiện diện. Giữa cộng đoàn, chúng ta
như những bông hoa “dị thường” Bề trên
không biết đặt ở đâu cho thích hợp.
Đó là những bước thăng trầm đã và
đang diễn ra trong hành trình theo Chúa của mỗi người chúng ta; những lúc nhịp
bước bên Chúa và những khi chẳng thấy Chúa đâu. Cũng như các tông đồ, đặc biệt
như Phêrô, chúng ta thực sự đã nhiệt tình theo Chúa một cách triệt để, nhưng
cũng có lúc chúng ta đã nản lòng, sợ hãi, chối Chúa khi phải đối diện với mầu
nhiệm thập giá. Nhưng rồi chúng ta lại bắt gặp được ánh mắt nhắc nhở, cảm thông
tha thứ của Chúa Giêsu, và được Chúa tín nhiệm sai đi với quyền năng Thánh
Thần. Đó chính là những kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu rất riêng trong những sự
kiện và biến cố cụ thể của mỗi người khi nhìn lại hành trình đời tu của mình.
3. NHÌN LẠI ƠN GỌI VÀ SỨ VỤ
“Các con phải nên thánh và
phải nên những nhà truyền giáo”.
Đó
là lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI được ghi ngay hàng đầu
tiên trong Sứ Điệp “Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 23, năm 2008 tại Sydney”. Tôi rất cảm kích và được đánh động sâu sắc khi tiếp nhận sứ
điệp này vì đây chính là bản chất của
người Kitô hữu. Sứ điệp như một lệnh truyền của Đấng đại diện Đức Kitô muốn
thức tỉnh những người tin vào Đức Kitô phải ý thức sống triệt để hơn ơn gọi nên
thánh và sứ vụ truyền giáo của mình. Đó chính là ơn gọi “thánh hiến để được sai
đi” của người tu sĩ mà chúng ta cần phải nhìn lại mỗi ngày để tự huấn luyện
mình sống lời cam kết triệt để theo sát Đức Kitô, và để quyền năng Người hoạt
động nơi chúng ta trên mọi nẻo đường sứ vụ.
a. Ơn gọi nên thánh
Khi được thánh hiến trong Bí tích
Rửa tội, chúng ta đã trở nên thánh vì được xức dầu Thánh Thần, được thanh tẩy
khỏi tội tổ tông và phục hồi phẩm giá là con Thiên Chúa. Chúng ta được ở trong
tình yêu của Chúa Cha, Đấng đã yêu chúng ta đến nỗi ban Con Một của Người là
Đức Giêsu. Chúng ta được nên một trong tình yêu và quyền năng của Đức Giêsu,
Đấng đã yêu chúng ta cho đến chết khổ nhục trên thập giá. Đồng thời, Chúa Thánh
Thần, Đấng là tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con, Đấng là sự sống, sức mạnh,
niềm vui và sự bình an luôn ở cùng chúng ta.
Như vậy, nên thánh là hồng ân đã
được ban tặng cho những người tin, chúng ta chỉ cần mở lòng ra để đón nhận sự
thật là chính tình yêu và quyền năng vô biên của Thiên Chúa đang hoạt động
trong chúng ta. Vâng, Ngôi Lời luôn ở cùng chúng ta. Trong đức tin chúng ta
luôn có Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trong tâm hồn và Nước Trời luôn bao phủ chúng
ta. Nói cách khác, nhờ tin vào Đức Giêsu và sống yêu thương như Đức Giêsu,
chúng ta đã là những công dân của Nước Thiên Chúa, là dấu chỉ sự hiện diện của
Thiên Chúa giữa loài người.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
trong sứ điệp Ngày Thế Giới Ơn Gọi 2002 đã viết:
Sự thánh thiện! Đó
là ân sủng và mục tiêu mà mọi tín hữu nhằm
tới như sách Lêvi nhắc nhở: “Hãy nên thánh, vì Ta, Đức Chúa, Chúa của
ngươi, là Đấng Thánh” (19,2). Trong tông thư Ngàn năm thứ ba đang tới, tôi đã
mời gọi tất cả mọi người “đặt chương trình mục vụ dưới tiêu đề sự thánh thiện”
để diễn tả “niềm xác tín rằng, vì phép rửa tội đưa chúng ta vào trong sự thánh
thiện của Thiên Chúa nhờ được tháp nhập vào Chúa Kitô và được Chúa Thánh Thần
cư ngụ, thì sẽ là điều mâu thuẫn khi bằng lòng với một lối sống đạo đức tầm
thường và hời hợt. Đã đến lúc phải nghiêm túc tái đề nghị cho mọi người tiêu
chuẩn cao cả này của đời sống Kitô hữu bình thường: toàn bộ đời sống cộng đồng
và của các gia đình Kitô phải theo hướng đi này (số 1).
Do đó, các tu sĩ càng phải nỗ lực
hơn vì đời sống thánh hiến biểu lộ bản chất ơn gọi nên thánh của các Kitô hữu
và là hướng đi của toàn thể Giáo hội: “tân nương” hướng về Đức Kitô là “Tân Lang” duy nhất của mình”(Số 2). Đức
Thánh Cha nhấn mạnh rằng: do nguồn gốc đời tu trì phát xuất từ chính Đấng là sự
thánh thiện nên các tu sĩ phải được coi là những chuyên viên của sự thánh
thiện. Chúng ta có thể thua kém người đời về nhiều mặt nhưng không được phép
thua kém họ về sự thánh thiện.
Nói cách khác, đời sống người môn
đệ của Chúa chính là ánh sáng phát xuất từ ánh sáng (Ga 12,36; Mt 5,12). Khi
chúng ta để một vật kim loại, hay tấm gương dưới ánh sáng mặt trời ban trưa, nó
sẽ chói sáng. Từ hình ảnh minh hoạ đó, chúng ta có thể xác tín rằng: nếu như
mình sống đúng căn tính của mình là Kitô hữu, mở lòng ra để đón nhận Đức Kitô,
tin vào Người, ở trong mối tương quan sống động và thân tình với Người thì ánh
sáng của Người cũng biến mình thành ánh sáng như vậy; nghĩa là mình cũng được
trở nên thánh thiện như Người.
Trong tháng 11, khi chiêm ngắm đời
sống Đức Mẹ, các thánh tông đồ và các thánh trong vinh quang Nước Trời; ngoài
việc noi gương nhân đức của các ngài,
chúng ta cần suy niệm về tình yêu
và quyền năng của Thiên Chúa đã hành động trong cuộc đời của mỗi vị thánh.
Chính thực tại đời sống thăng trầm của các thánh khi các ngài bước theo Đức
Kitô trên mọi nẻo đường đã cho chúng ta niềm hy vọng: dù trong hoàn cảnh nào,
tình yêu cứu độ của Thiên Chúa cũng có thể thánh hoá những ai tin vào Người;
chỉ cần người đó biết mở lòng ra để đón nhận ơn cứu độ nhưng không của Thiên
Chúa (như câu chuyện anh thánh trộm lành).
Khi nhìn lại ơn gọi nên thánh,
chúng ta có thể học từ Chúa Giêsu thái độ “tôn trọng con người vô điều kiện”,
ngay cả các tội nhân vì mọi người đều được Chúa Giêsu tìm kiếm và cứu vớt. Từ
đó chúng ta có thể xác nhận rằng: chính ơn gọi nên thánh là phẩm giá của mỗi
người nên mọi người đều có nhu cầu được tôn trọng. Nói cách khác, chúng ta
chỉ có thể chinh phục nhân tâm khi phẩm giá của họ được phục hồi bằng sự tôn
trọng. Trong tâm lý trị liệu chiều sâu, Carl Roger đã chọn phương pháp: “Tôn
trọng thân chủ vô điều kiện” và trong “hệ thống trị liệu” các nhà tâm lý cũng
áp dụng giải pháp: “đạo đức trị liệu” khi họ lắng nghe người thân và tìm được
một điều tốt đó nào của thân chủ; dù ở trong quá khứ, họ sẽ bám vào đó như một hòn than trong đống
tro tàn, để khởi dậy lòng tự trọng của thân chủ và giúp thổi bùng lên phẩm giá thật của họ (là con Thiên
Chúa).
b. Ơn gọi truyền giáo
Truyền
giáo là bản chất của Giáo Hội, và sứ mạng của mọi Kitô hữu; đặc biệt với người
tu sĩ đã cam kết bước theo sứ mạng của Đức Kitô một cách triệt để; chúng ta sẽ
phản lại chính mình nếu như chúng ta
không sống ơn gọi truyền giáo. Do đó mỗi người cần phải nhìn lại bản chất
truyền giáo của mình để tự huấn luyện mình trở nên người môn đệ đích thực của
Đức Kitô.
Là tu sĩ Đa Minh, mỗi khi tham dự ngày Truyền Thống
Gia Đình Đa Minh Việt Nam hay tuần thường huấn của Liên Hiệp Nữ Đa Minh Việt
Nam, tôi thực sự cảm kích về sức sống mãnh liệt của Thánh Đa Minh đã và đang trào tràn chảy vào tâm huyết các con cái của
Cha hơn 800 năm qua trên toàn thế giới. Tôi tự đặt vấn đề:
-
Bởi đâu Thánh Đa Minh có được nguồn sinh lực phong
phú như vậy?
- Nhờ nguồn mạch nào mà sức sống Gia đình Đa
Minh như một rừng cây xanh bát ngát tiếp sức cho nhau đem lại sinh khí cho con
người thời đại như thế?
Khi đọc Hiến pháp của Dòng tôi
đã tìm được câu trả lời chính xác nhất đó là lòng khao khát ơn cứu độ
của Thánh Đa Minh (HP 70) truyền lại cho con cái; cụ thể là trong số 117 vị
thánh tử đạo VN, đã có 38 vị là tu sĩ Đa Minh.
Vâng, chính lòng khao khát cho mọi người nhận biết
Đức Kitô mà các anh chị em Đa Minh đã dâng hiến cuộc đời cho sứ vụ cứu độ, luôn
vui tươi vượt qua mọi thách đố, khó khăn; ngay cả phải chết vì đạo để thông
truyền Tin Mừng tình thương của Chúa bằng chứng tá đời sống và lời giảng.
Từ đó tôi mới hiểu được lý do tại sao Mẹ Maria lại
có thể chứng kiến Con chịu kết án bất công, bị đánh đòn, và theo Con trên đường lên núi Sọ; tại sao Mẹ lại có thể
đứng dưới chân thập giá mà không chết. Vâng, tất cả là vì Mẹ đã hiệp
thông nên một với hiến tế cứu độ của Chúa Giêsu để toàn thể nhân loại được ơn
tha tội, trở nên con Thiên Chúa và được
sống hạnh phúc muôn đời..
Chiêm ngắm
gương mẫu của Mẹ Maria, Thánh Tổ Phụ Dòng và các thánh, rồi nhìn lại đời mình,
tôi cảm thấy định hướng sứ vụ truyền giáo của mình, Hội Dòng mình cũng như Giáo
Hội Việt Nam hiện nay thực sự chưa triệt để và đủ mạnh để có thể sống như Chúa
Giêsu đã sống và yêu như Chúa Giêsu đã yêu nên hiệu quả truyền giáo còn rất
thấp.
Sống
ơn gọi Truyền giáo là loan báo Tin Mừng Đức Giêsu, qua việc làm chứng về hạnh
phúc, tình yêu và tự do đích thực của con cái Thiên Chúa hằng sống và chân
thật. Trong đời thánh hiến, chúng ta loan báo về hạnh phúc đích thực cho
những người chung quanh, khi chúng ta can đảm sống “tám mối phúc thật” giữa
lòng xã hội hôm nay. Chúng ta loan báo về tình yêu vô biên của Đức Kitô,
khi chúng ta sẵn sàng hiến mạng để yêu thương phục vụ những người nghèo khổ,
đặc biệt khi chúng ta quảng đại cảm thông tha thứ cho những người xúc phạm đến
chúng ta; những người nuôi lòng hận thù với chúng ta, những người chiếm đất của
chúng ta. Đồng thời chúng ta thể hiện sự tự do, thanh thản, bình an của
con cái Thiên Chúa khi chúng ta tuyên khấn sống khiết tịnh, khó nghèo và vâng
phục giữa nền văn minh vật chất, hưởng thụ và tôn thờ quyền lực như hiện nay.
Nhưng trong thực tế, đời sống chứng nhân của chúng ta chưa đủ sức thuyết phục
anh em lương dân sống chung quanh chúng ta.
Như
vậy, sứ điệp của Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II gửi các bạn trẻ: chúng con phải
nên thánh và phải nên những nhà truyền giáo, đối với chúng ta vẫn còn là lý
tưởng. Vì hiện nay, Giáo hội Công giáo Việt Nam có 175 cộng đoàn dòng tu,
13.382 nữ tu, 1.481 nam tu sĩ, 607 linh mục dòng [6],
nhưng trong một năm Giáo hội Công Giáo Việt Nam và mỗi Hội dòng chúng ta đã
giúp cho được bao nhiêu người tin vào
Đức Giêsu; ngoài con số những anh chị em học đạo để lập gia đình?
Đức
Cha Micae Hoàng Đức Oanh Chủ tịch UBLBTM/ HĐGMVN đã nói: việc loan báo Tin Mừng
hiện nay thật cấp bách. Cấp bách vì lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt; lệnh
truyền của Thiên Chúa chưa được các tín hữu, tu sĩ và linh mục tích cực hưởng
ứng. Trong quê hương Việt Nam, chỉ có 7% tín hữu Công Giáo, nhưng trong số đó,
được bao nhiêu người thực sự sống đức tin và ý thức loan báo Tin Mừng bằng con
đường nhập thể và cứu độ của Chúa Giêsu, con đường Belem và Núi sọ?
Do đó, ngoài việc định hướng ưu tiên cho sứ vụ truyền
giáo, tôi thiết nghĩ Giáo Hội Việt Nam nói chung và mỗi Hội Dòng cũng
như mỗi tu sĩ cần giúp nhau thức tỉnh để làm chứng cho sự hiện diện của Chúa
Giêsu trong mọi phút giây của đời sống mình. Vì chúng ta không thể giới thiệu
về Chúa Giêsu cho đúng khi chúng ta không sống tương quan mật thiết và sống
động với Chúa. Trong thực tế, có nhiều tổ chức của Giáo Hội, Giáo xứ và Hội
Dòng chúng ta rất hoành tráng và ấn tượng, nhưng đó mới chỉ là hiện tượng
của niềm tin còn bản chất của niềm tin là mối tương quan với Chúa Giêsu
của từng người tham dự như thế nào? Đó chính là lý do Đức Tổng Giám mục Harry
Flynn, trong Tổng Giáo phận Saint Paul
và Mineapolis đã đưa ra sáng kiến Loan báo Tin Mừng là “Làm cho Đức Giêsu
được biết và được yêu qua việc chọn sống Tin Mừng triệt để trong mỗi phút
giây.”
Khiêm
tốn kiểm thảo mình trước nhan Chúa, mỗi người phải tự thú nhận rằng mình: chưa thực
sự sống yêu thương quên mình, dấn thân hy sinh phục vụ như Đức Giêsu nên mình
chưa thể nên thánh và chưa thể loan báo Tin Mừng hiệu quả. Nói cách khác, sống
như một chứng nhân về cái chết và sự sống lại của Đức Kitô, điều này thực sự
quá khó đối với khả năng của con người, nhưng trong lịch sử Giáo hội, Thánh
Thần đã hiện thực hoá nơi những người tin.
3.
Ơn huệ Thánh Thần
Dưới
ánh sáng Lời Chúa, chúng ta đã biết Giáo Hội được hình thành dưới chân thập giá
Đức Kitô, khi các môn đệ, người thì phản bội, trao nộp Thầy; người thì chối bỏ,
chạy trốn, chỉ còn thánh Gioan bên cạnh Mẹ Maria. Nhưng với ơn huệ của Chúa
Thánh Thần, ơn huệ đã biến đổi Mẹ Maria, từ một thiếu nữ đơn sơ, nghèo hèn trở
thành Mẹ Đấng Cứu Độ, cũng đã biến đổi các thánh tông đồ từ tâm trạng nhát đảm,
sợ chết trở nên những chứng nhân bất khuất đầy sức thuyết phục về cuộc tử nạn
và phục sinh của Đức Kitô giữa lòng trần thế.
Quả
thật như lời hứa của Đức Giêsu: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần
khi Người ngự xuống trên anh em; và anh em sẽ là chứng nhân của Thầy”(Cv 1,8).
Toàn bộ sách Công vụ Tông đồ đã cho thấy, tất cả sứ vụ truyền giáo của các tông
đồ và các tín hữu thời Giáo hội sơ khai đều là công trình của Chúa Thánh Thần.
Chính Chúa Thánh Thần điều khiển mọi hoạt động của từng vị tông đồ trong hành
trình truyền giáo. Thậm chí, ngay trong những cuộc bách hại, cấm cách, khiến
các tông đồ và các tín hữu phải chạy sang các thành lân cận, thì đó lại là
đường lối của Chúa Thánh Thần muốn Tin Mừng được vang xa hơn, Danh của Đức
Giêsu Kitô được nhiều người nhận biết tin theo hơn; và Giáo hội được lan rộng
hơn.
Vì
thế, chúng ta cần xác tín rằng: Chúa Thánh Thần là Tác Nhân chính của lịch sử
cứu rỗi, Ngài hiện diện liên tục, tích cực trong sự sống của Giáo hội và nơi
tâm hồn chúng ta. Là Kitô hữu, chúng ta cần tái khám phá ra những ân huệ cao cả của Cha là Thần Khí Chúa Kitô mà chúng ta
đã lãnh nhận trong các bí tích khai tâm: Rửa tội, Thêm sức và Thánh Thể, để tin
thật rằng: Chúa Thánh Thần là ‘linh hồn’, là hơi thở sống của chính sự sống chúng ta (x. ĐGH Bênêđictô, ngày GTTG 23, 2008,
Sydney). Đồng thời, chúng ta cần nhận biết rằng cùng một ngọn lửa Thánh
Thần đã xuống trên Mẹ Maria, các thánh tông đồ, và toàn thể các thánh cũng như
các bậc Tiền Bối trong Hội dòng chúng ta, giờ đây Ngài cũng đang cư ngụ nơi tâm
hồn chúng ta, đốt lòng chúng ta yêu mến Chúa, tin cậy Chúa và can đảm hiến tế
mình hằng ngày để loan báo tình yêu cứu độ của Thiên Chúa.
Vì
thế, dù chúng ta có nhiều yếu đuối, lỗi lầm, hèn kém, nhát sợ, chúng ta hãy can
đảm chấp nhận con người thật của mình, mở lòng ra đón nhận ơn huệ Cha ban là
Chúa Thánh Thần để Ngài biến chúng ta thành khí cụ tình yêu của Ngài.
Tóm lại, nên
thánh và nên những nhà truyền giáo là lời của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, Bề
trên tối cao của chúng ta, nhắc nhớ chúng ta sống đúng bản chất ơn gọi của
mình. Mặc dầu tự bản thân, ai trong chúng ta cũng cảm thấy mình bất lực, đặc
biệt khi yếu đau bệnh tật và tuổi đời đã xế trưa hay xế chiều. Nhưng trong ân
huệ Thánh Thần, Đấng đã biến đổi biết bao cái “không thể” thành “có thể”, chúng
ta hãy khiêm tốn phó thác để ý Chúa nên trọn trong chúng ta. Xin
Người thánh hiến chúng ta trong sự thật qua đời sống cầu nguyện dưới ánh sáng
Lời Chúa, tham dự phụng vụ, thánh lễ, dự tiệc Thánh Thể và ý thức sống hiến tế
Thánh Thể trong đời sống cộng đoàn cũng như trong sứ vụ đến với tha nhân.
Để
Kết
Nhìn lại đời mình, tuổi đời, tuổi
tu, ơn gọi và sứ vụ để tạ ơn Thiên Chúa qua hồng ân được thánh hiến trong sự
thật và để canh tân niềm tin, sám hối tin vào Tin Mừng. Đó là một trong những
phương thế để tự huấn luyện mình trở nên người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu
- ơn gọi thuộc trọn về Thiên Chúa, không còn thuộc về thế gian nữa; ơn gọi được
nên một với Đức Kitô sống yêu thương: khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục. Đây là một ân huệ mà Chúa Cha đã ban cho
chúng ta qua Chúa Giêsu; và Chúa Giêsu cũng luôn cầu nguyện xin Chúa Cha thánh
hiến chúng ta trong sự thật cao quí này.
Vì thế, nếu chúng ta cảm thấy muốn
thay đổi đời sống khởi đi từ khát vọng nội tâm của mình, thì đó chính là những
tác động của Chúa Thánh Thần đang khơi dậy, thúc đẩy chúng ta mở lòng ra đón
nhận sự hiện diện yêu thương của Chúa Giêsu trong từng phút giây của đời sống
chúng ta, và trung tín với giao ước tình yêu Thiên Chúa đã ban tặng và chúng ta
đã ký kết với Người.
Như vậy, khi
bước vào tuổi trung niên, chúng ta luôn được mời gọi từ bỏ nếp sống tu tầm
thường, hời hợt, ngại khó, dễ dãi, chỉ bám vào những giá trị trần thế và tìm
vinh dự cho bản thân của mình để biết định hướng lại, triệt để theo Đức Kitô và
sứ mạng cứu độ của Người hơn.
Đó là một trong những hiệu quả rất
tốt đẹp mà tuổi trung niên có thể đạt được vì ngay chính những dấu hiệu xem ra
khủng hoảng của nó lại khai sinh ra một nhân cách đời tu thật trưởng thành.
Vì thế, chúng ta hãy cũng nhau dâng lời cảm tạ Thiên
Chúa, Đấng đã dựng nên vũ trụ và con người cách kỳ diệu theo thượng trí khôn
ngoan vô biên của Người, chính Người quan phòng đặt định một qui luật phát
triển nơi bản thân mỗi người luôn khát vọng hướng về Người như thánh Augustino đã kinh nghiệm: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên
con cho Chúa, nên lòng con còn thao thức mãi cho đến khi được nghỉ yên trong
Chúa.”
[1] x.Charles Serrao OCD, Biện Phân Ơn Gọi Tu Trì, tr 206
[2] X. Chuẩn bị và sống tuổi trung niên, dưới góc cạnh tâm lý, tr.5-7
[3] X. Ibid., tr.9
[4] X. Charles Serrao OCD, Biện Phân Ơn Gọi Tu Trì, tr 205
[5] X.Charles Serrao OCD, Biện Phân Ơn Gọi Tu Trì, tr 209-211)
[6] Nhật ký Ad Limina HĐGMVN – ĐSTH
(6), 2009
Đăng nhận xét