[…] dù nhìn dưới góc độ xã hội hay tôn giáo,
sự hiệp nhất cũng đóng một vai trò quan trọng
và không thể thiếu mà hiệu quả của nó
là con người và xã hội loài người
tồn tại và phát triển.
sự hiệp nhất cũng đóng một vai trò quan trọng
và không thể thiếu mà hiệu quả của nó
là con người và xã hội loài người
tồn tại và phát triển.
Phêrô Nguyễn Minh Giang
Thừa sai Mẹ Thiên Chúa
DẪN NHẬP
Nhân loại đã bước sang
năm thứ 10 của thiên niên kỷ mới. Lịch sử xã hội loài người cũng đã sang trang.
Con người như đang bị cuốn hút vào vòng xoáy toàn cầu hoá, mà ở nơi đó, con
người dường như bị lệ thuộc vào nhiều thứ. Thế giới đi vào kỷ nguyên của khoa
học kỹ thuật với quá nhiều những phát minh tiện ích và thần tốc. Mọi nhu cầu và
đòi hỏi của con người dường như được khoa học đáp ứng khá đầy đủ. Đó cũng là
nguyên nhân dẫn đưa con người ngày càng sa đà vào sự hưởng thụ và tương đối
hoá, là cái gốc chủ nghĩa cá nhân của con người hiện đại. Ai ai cũng tự cho
mình là cái rốn của vũ trụ mà xem nhẹ hay đánh mất đi những giá trị tâm linh.
Hậu quả là một thế giới tục hoá, mà trong đó, đời sống của những người thánh
hiến cũng không thoát khỏi ảnh hưởng. Vậy đâu là lối thoát ?
Bằng phương pháp phân
tích và đặt vấn đề, người viết xin được trình bày về một lối sống của những ai
sống đời thánh hiến, được xem như là một mô hình kiểu mẫu có thể hạn chế tối đa
sự ảnh hưởng của tục hoá. “Sự hiệp nhất trong cộng đoàn tu trì” – một lối sống,
một truyền thống, một văn hoá và còn là một giá trị, một điểm gặp gỡ tâm linh.
Chính nơi đó, con người tìm lại được chính mình và nhận ra sự mỏng dòn, yếu
đuối của thân phận làm người. Chính nơi đó con người nhận ra sức mạnh của cộng
đoàn, sức mạnh của sự hiệp nhất. Chính nơi đó, con người biết chạy đến với
Thiên Chúa, là nguồn mạch tình yêu, là chỗ dựa vững chắc của đời sống tâm linh.
Và, cũng chính là nơi làm cho con người nên thánh, nên đồng hình đồng dạng với
Đức Kitô.
Tài liệu “Tuần Cầu
Nguyện Cho Sự Hiệp Nhất Các Kitô Hữu Năm 2010”, phần lời suy niệm của ngày thứ
hai – làm chứng cho Chúa bằng cách chia sẻ những kinh nghiệm cá nhân về Ngài –
có nói rằng: “Việc chúng ta biết lắng nghe nhau sẽ làm cho
chúng ta lớn lên trong đức tin và tình yêu. Dù chứng tá của mỗi người và mỗi
cộng đoàn có khác nhau nhưng chúng ta thấy rằng chúng ta được liên kết với nhau
trong
cùng một lịch sử, đó là lịch sử của tình yêu Thiên Chúa được mạc khải cho chúng
ta nơi Đức Giêsu”.[1] Bên cạnh đó, David Clark cũng cho biết: “Tôi đã đi đến chỗ tin rằng nếu
đánh mất ý nghĩa thâm thuý của cộng đoàn, con người sẽ tàn lụi và sẽ chết. Cộng
đoàn là nền tảng của xã hội loài người, là chóp đỉnh của việc tương thuộc
(interdépendance), là nẻo đường nhanh nhất đi đến hiệp nhất: là chẳng cuối của
hành trình”.[2] Hai quan niệm trên đều nhận định: “con người là thực thể có xã hội tính”.
Nếu con người không có xã hội tính, con người tất sẽ không tồn tại. Giáo hội là
một xã hội mang tính tôn giáo, và mỗi kitô hữu là thành viên không thể thiếu
của xã hội đó; Mỗi kitô hữu là mỗi viên đá sống động xây nên toà nhà Giáo Hội;
Mỗi kitô hữu là mỗi nét phong phú và đa dạng nơi chính Giáo Hội. Sự hiệp nhất
chính là chất gắn kết chắc chắn để làm nên một Giáo Hội vững mạnh (về mọi
phương diện).
Như vậy, dù nhìn dưới góc độ xã hội hay tôn giáo, sự hiệp nhất cũng đóng
một vai trò quan trọng và không thể thiếu mà hiệu quả của nó là con người và xã
hội loài người tồn tại và phát triển. Thế nhưng, sự hiệp nhất đó không thể tự
nhiên mà có được. Vậy thì đâu là nguyên nhân, là nguồn mạch của hiệp nhất?
1. Mô hình Chúa Ba Ngôi
Kinh Thánh Cựu Ước nói
rằng, con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, và do vậy, con người
cũng có khả năng nhận biết và yêu mến Đấng Tạo thành nên mình. Nhờ có sự liên
kết mà Thiên Chúa đã đặt con người làm chủ mọi tạo vật – cai trị và sử dụng[3]
- mà qui hướng về việc phụng thờ Thiên Chúa. Như Công Đồng Vaticano II đã nhấn
mạnh: “Nhưng Thiên Chúa đã không dựng nên con người cô độc: bởi vì từ khởi thủy
‘Ngài đã tạo dựng có nam có nữ’ (St 1, 27). Sự liên kết giữa họ đã tạo nên một
thứ cộng đoàn đầu tiên giữa người với người. Thực vậy, tự bản tính thâm sâu của
mình, con người là một hữu thể có xã hội tính và nếu không liên lạc với những
người khác con người sẽ không thể sống và phát triển tài năng mình”.[4]
Điều cần lý giải ở đây
là: con người tự bản tính thâm sâu của mình là một hữu thể có tính xã hội (liên
lạc với người khác); và con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Hai
vế tự bổ túc cho nhau và cùng nói lên một chân lý: Xã hội tính nơi con người có
nguồn mạch từ nơi Thiên Chúa. Vậy Thiên Chúa không cô độc?
Tân Ước cho thấy, Chúa
Giêsu đã đến với tư cách vừa là Người Con Một của Thiên Chúa, vừa là một Thiên
Chúa. Ngài đến để mạc khải cho nhân loại biết Thiên Chúa không phải là một hữu
thể đơn độc, nhưng là một Thiên Chúa với ba Ngôi Vị thông hiệp với nhau và tự
thông ban cho nhau. Như Chúa Giêsu đã từng cầu nguyện với Chúa Cha: “Để họ nên
một như chúng ta là một” (Ga 17, 22 - 23).[5]
Xin được mượn lời của Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolo II như một bằng chứng đức
tin về sự hiệp nhất của con người phát xuất từ nguồn mạch Thiên Chúa Ba Ngôi:
Bên trên những mối liên kết nhân linh và tự nhiên vốn đã rất vững
mạnh và rất bền chặt, lại thành hình dưới ánh sáng đức tin một mẫu hiệp nhất
mới của loài người mà cuối cùng tình đoàn kết phải phỏng theo. Mẫu hiệp nhất
siêu việt, phản ảnh đời sống nội tại của một Thiên Chúa Ba Ngôi, là những gì mà
các kitô hữu chúng ta dùng từ ‘hiệp thông’ để diễn đạt.[6]
Theo như lời của Đức
Gioan Phaolo II thì sự hiệp nhất của con người đã được Thiên Chúa đặt nguồn
mạch từ nơi chính bản thân Ngài. Nguồn mạch đó là nền tảng vững chắc và mạnh mẽ
sẽ được loài người thể hiện trong lối sống cộng đoàn huynh đệ. Lối sống đó đã khởi nguồn ngay từ thời tạo dựng[7]
và trải dài trong suốt lịch sử sống niềm tin của dân Israel, cũng như thời Tân
Ước và tiếp tục sau đó. Điển hình thực tế nhất như trong sự kiện Đại hội Giáo
dân Công giáo châu Á vừa diễn ra tại Seul, Hàn Quốc từ ngày 31.8 đến 5.9.2010
với chủ đề “Loan báo Chúa Giêsu Kitô tại châu Á ngày nay” đã để lại cho mọi
người một thông điệp:
[…] tư thế của cộng đồng Công Giáo Châu Á như
‘một đàn chiên nhỏ bé’, nhưng ‘không cảm thấy mặc cảm hay e ngại về tính cách
thiểu số của mình’, và, vì là người Châu Á, ‘chúng tôi hãnh diễn về sự phong
phú của các truyền thống văn hoá lâu đời của chúng tôi’, đồng thời ‘chúng tôi
không muốn giam mình trong bốn bức tường của Giáo Hội, nhưng chúng tôi cảm thấy
được kêu gọi trở thành muối và ánh sáng của lục địa Châu Á’.[…][8]
Thông điệp trên cho
thấy rằng, dù thời gian có biến chuyển, trải qua bao thăng trầm, hay đứng trước
những thách thức của thời cuộc, “dân Chúa” vẫn không ngừng hiệp nhất để làm
chứng cho niềm tin của mình – hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi – và mong muốn sự
hiệp nhất đó được lan toả và lớn mạnh, xứng đáng là môn đệ của Chúa Giêsu: “ Để
họ nên một như chúng ta là một”.[9]
Mặt khác, Chúa Giêsu không
chỉ đến mạc khải về mối hiệp thông Ba Ngôi Thiên Chúa. Đúng hơn, để trọn vẹn
mạc khải đó, Ngài còn đến như vị “mục tử nhân lành” để qui tụ “chiên về một
mối”[10]
– sự hiệp nhất về một mối đó xét theo tương quan – mà Đức Giêsu là “đầu” của
một “thân thể” và trong thân thể có nhiều chi thể. Công Đồng Vaticano II cũng
đã khẳng định một cách mạch lạc:
Mọi người được mời gọi gia nhập Dân tộc mới của Thiên Chúa. Vì
thế, Dân mới này, một dân duy nhất và hằng hiệp nhất, có bổn phận phải lan rộng
khắp thế giới trải qua mọi thế hệ hầu hoàn tất kế hoạch của Thánh Ý Thiên Chúa,
Đấng từ nguyên thuỷ đã tạo dựng một bản tính nhân loại duy nhất, và quyết định
sau này tập họp tất cả con cái Ngài tản mát đó đây thành một dân tộc duy nhất
(x. Ga 11, 52). Chính vì mục đích ấy Thiên Chúa đã sai Con Ngài xuống, Đấng mà
Ngài đã đặt làm thừa kế vũ trụ (x. Dt 1, 2), hầu trở nên Thầy, Vua và Tư Tế của
mọi người, và nên Thủ Lãnh của Dân tộc mới và phổ quát của con cái Thiên Chúa.
Sau cùng, cũng vì mục đích đó, Thiên Chúa đã sai Thánh Thần của Con Ngài, là
Chúa và là Đấng ban sự sống. Đối với toàn
Giáo Hội, với tất cả cũng như với mỗi tín hữu, Thánh Thần là nguyên lý qui tụ
và hiệp nhất trong giáo lý của các Tông Đồ, trong sự hiệp thông, bẻ bánh và
kinh nguyện (x. Cv 2, 42).[11]
Như vậy, Thiên Chúa vừa
là Đấng mạc khải, chỉ dạy về mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa – nơi Người Con Một –
vừa là Đấng qui tụ, làm nổi lên mối tương quan Ba Ngôi – nhờ Thánh Thần – bằng
cách làm nổi lên tương quan nhân tính giữa người với người như là hình ảnh của chính
Chúa Ba Ngôi. Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa nên sẽ triển nở
trong sự hỗ tương và như thế, mỗi người lãnh nhận và tự cho mình cho anh em như
là quà tặng, là dấu chỉ hiệp nhất phát xuất từ nguồn mạch Ba Ngôi.
Đoạn văn của Vaticano
II ở trên đã cho thấy mục đích cao cả của Thiên Chúa là mời gọi mọi người gia
nhập “dân tộc mới” bằng sự hiệp nhất với Người Con Một Thiên Chúa. Đồng thời
Thánh Thần, nguyên lý qui tụ và hiệp nhất, sẽ hoạt động như một mối dây liên
kết bền chặt nơi mỗi người. Nhưng ở đây, câu hỏi được đặt ra là: những ai được
hiệp thông với Chúa Giêsu ?
Chính Chúa Giêsu đã trả
lời cho mối liên hệ này khi đưa tay chỉ các môn đệ và nói: “Đây là mẹ tôi, đây
là anh em tôi. Vì phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời,
người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi”.[12]
Joseph Ratzinge cũng đã nhắc đến “gia đình mới của Đức Giêsu”, là những người
hiệp thông với chính Đức Giêsu, là một sự hiệp nhất trong ý muốn của Thiên
Chúa. Chính cái TÔI – EGO của Đức Giêsu kết hợp vào sự hiệp thông ý chí của
Chúa Con với Cha của Người làm nên cái TÔI lắng nghe và vâng phục. Hiệp thông
với Ngài thì đồng nghĩa với việc được gọi Thiên Chúa là Cha và được hợp nhất
trong “chúng ta” (x. Ga 17, 22).[13]
Thánh Phaolô, vị Tông
Đồ dân ngoại, cũng đã đề cập đến nguyên lý nội tại của sự hiệp nhất là Thiên
Chúa Ba Ngôi:
Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình
bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết ta duy trì sự hiệp nhất mà Thần
Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau. Chỉ có một thân thể, một
Thần Khí, cũng như anh em đã được ơn để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có
một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người,
Đấng ngự trên mọi người và trong mọi người.[14]
Đoạn văn trên cho thấy,
thánh Phaolô đã lên đến đỉnh cao của sự hiệp nhất với Thiên Chúa Ba Ngôi. Đồng
thời ngài cũng mở lòng ra với anh em tín hữu, một lời khuyên hiệp nhất với nhau
để tôn vinh Thiên Chúa. Mô hình Thiên Chúa Ba Ngôi ngày thêm rõ nét hơn nơi con
người, và cộng đoàn tín hữu tiên khởi là dấu chứng và là hoa trái tốt lành của
sự hiệp nhất. Giáo Hội cũng từ đó được khai sinh và lớn lên.
2. Mô hình Giáo Hội tiên khởi
Sau khi từ trên núi
thăng thiên trở về, các môn đệ họp nhau trong nhà tiệc ly, có Đức Maria tham
dự. Họ là 120 người[15]
sốt sắng cầu nguyện mong đợi Chúa Thánh Thần đến. đây là cộng đoàn đầu tiên cơ
bản để thiết lập Giáo Hội, trong đó, các Tông Đồ chiếm một vị trí đặc biệt, họ
đang ở giữa thế gian, nơi họ phải làm chứng cho thực tại mới của Nước Thiên
Chúa mà Chúa Giêsu đã thiết lập.
Hội Thánh được khai
sinh trong ngày Lễ Ngũ Tuần. Khi các môn đệ đang nhóm họp trong nhà tiệc ly thì
một cơn gió lốc thổi đến làm cho ngôi nhà rung chuyển, những tàn lửa xuất hiện
biến thành những lưỡi lửa đậu lại trên đầu từng người[16]:
Chúa Thánh Thần bao phủ các môn đệ, biến đổi họ từ những con người nhát đảm trở
thành những chứng nhân can trường. Trước đây các ngài sợ sệt, cửa đóng then
cài, thì nay họ mở tung cửa xuất hiện trước mặt toàn dân để rao giảng Tin Mừng.[17]
Như vậy, ngay từ ngày
đầu của Hội Thánh, hiệp nhất tính đã hiện diện. Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy
từ ngày đó, mọi người – các môn đệ - có thói quen cùng nhau lên đền thờ (2, 6)
một lúc, đó là một nhóm riêng lẻ tại cộng đồng Israel . Công Vụ đã dùng danh từ Ecclesia - một danh từ Hylạp có nghĩa là
một cộng đoàn chính thức[18]
- để ám chỉ Giáo Hội thời bấy giờ. Danh từ trước tiên dùng cho Giáo Hội
Giêrusalem, rồi lan rộng cho các giáo đoàn khác và cho Giáo Hội hoàn vũ. Từ đó
cho thấy, Giáo Hội tiên khởi mang nơi mình đặc tính cộng đoàn, đó là sự hiệp
nhất. Sự hiệp nhất nơi cộng đoàn tiên khởi nói lên tinh thần cùng nhau chia sẻ
mọi thứ: của cải nuôi thân, niềm vui, nỗi buồn, khó khăn, hạnh phúc,…và đời
sống cầu nguyện nữa. Tất cả nói lên sự hiệp nhất cùng nhau để làm chứng và ngợi
khen thiên Chúa. Mặt khác, sự hiệp nhất với nhau đó còn nói lên tính hiệp thông
với Thiên Chúa và với nhau trong một cộng đoàn mà Chúa thiết lập và thuộc về
Chúa, là cộng đoàn gồm những người bước theo chân Chúa, có chung một niềm tin
vào Đức Kitô. Sách Công Vụ Tông Đồ đã kể lại cuộc sống cộng đoàn của các tín
hữu tiên khởi rất sống động:
Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp
thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Mọi
người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín
hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải,
lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày
chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn
sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng
đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ.[19]
Tinh thần hiệp nhất
được thể hiện một cách mãnh mẽ trong toàn bộ cuộc sống thường nhật của cộng
đoàn tiên khởi, nhiệt thành ban ngày và âm thầm ban đêm: Khi thiên sứ của Chúa
giải thoát Phêrô khỏi tù của vua Hêrôđê, ông ý thức được và vội về nhà của bà
Maria, mẹ của Gioan Marcô, nơi đang có một buổi cầu nguyện với rất nhiều người
tham dự.[20]
Hoa trái sự hiệp nhất mà Chúa ban cho Giáo Hội tiên khởi là ngày càng có thêm
những người được cứu độ (Cv 2, 47), cho thấy Giáo Hội sẽ lớn mạnh và phát triển
không ngừng một khi còn có sự hiệp nhất với nhau.
Ở
điểm chung của sự hiệp nhất này, theo thánh Luca, được cho là tác giả sách Công
Vụ Tông Đồ thì, cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi Giêrusalem có 4 yếu tố chủ đạo làm
gốc rễ của Hội Thánh, đã được hình thành (Cv 2, 42): Lời giảng dạy của các Tông
Đồ: nói lên đặc tính của Hội Thánh là tông truyền, Hội Thánh được nuôi dưỡng
bằng lời giảng dạy của các ngài, nghĩa là lời của Thiên Chúa và có khả năng
truyền đạt cách đầy đủ; Hiệp thông với nhau: Cộng đoàn Hội Thánh phải là dấu
chỉ hữu hình cho thấy Chúa Giêsu qui tụ con người trong tình yêu thương, và Hội
Thánh không thể có nếu như trong đó không có cuộc sống huynh đệ đích thực; Lễ
bẻ bánh: đây là từ ngữ mà Hội Thánh tiên khởi diễn tả về một bí tích hiệp thông
với Đức Kitô và mọi người tham dự với nhau để làm nên một cộng đoàn “hy tế ngợi
khen”; Cuối cùng là cầu nguyện: là những tâm tình không thể thiếu nơi các tín
hữu dâng lên Thiên Chúa, vừa mang tính riêng tư lại vừa nói lên tính cộng đoàn,
bởi đây cũng là cộng đoàn cầu nguyện.[21]
Cả 4 yếu tố trên đều
làm nổi bật lên tính hiệp nhất, đồng lòng đồng trí với nhau, tạo nên một cộng
đoàn riêng biệt với những cộng đoàn khác, đó là Hội Thánh. Chính sự hiệp nhất
làm cho những người gia nhập, là các tín hữu tiên khởi, cảm thấy được biến đổi, được sống con người
mới trong Đức kitô: “Họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ” (Cv 2, 46), nói lên
tình huynh đệ chân chính giữa mọi người với nhau, thật sự đã giải hoà với nhau.
Đặc biệt hơn, sự hiệp
nhất đó không chỉ dừng lại trong dân Israel , mà còn lan toả ra các vùng
dân ngoại. Ơn Cứu độ dành cho nhiều người không phân biệt dân tộc, và Hội Thánh
tiên khởi cũng bao gồm cả những người dân ngoại biết đón nhận Tin Mừng. Tất cả
họ đều làm nên một Hội Thánh duy nhất với một niềm tin vào Đức Kitô.[22]
Sách Giáo Lý Hội Thánh
Công Giáo cũng đề cập đến khai nguyên của Hội Thánh nơi việc tự hiến hoàn toàn
của Đức Kitô.[23]
Sách cũng nhấn mạnh đến “sự triệu tập” tất cả mọi người để lãnh nhận ơn Cứu độ,
trở nên một dân tộc hiệp nhất mà trong đó mọi người là môn đệ của Đức Kitô:
“[…] Bây giờ, Hội Thánh được công khai giới thiệu cho nhân loại và Tin Mừng bắt
đầu được rao giảng cho muôn dân. Bởi Hội Thánh là cuộc triệu tập tất cả mọi
người để được cứu độ, nên Hội Thánh tự bản chất là thừa sai, được Chúa Kitô cử
đến với muôn dân, để làm họ trở thành môn đệ của Người.”[24]
Như thế, Hội Thánh phổ quát xuất hiện như “một dân tộc được hiệp nhất giữa Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” mà Công Đồng Vaticano II đã khẳng định.[25]
Chính sự hiệp nhất nên một làm nổi bật lên một trong những đặc tính của Hội
Thánh là không chỉ là sự hiệp nhất với nhau nơi các tín hữu, mà còn là mầu
nhiệm hiệp nhất giữa loài người với thiên Chúa: “Đức Kitô ở giữa anh em, Đấng
ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang” (Cl 1, 27).[26]
Nói tóm lại, mầu nhiệm
Hội Thánh được Đức Kitô thiết lập đã nói lên tính hiệp nhất tự trong nội tại.
Sự hiệp nhất đó không phải sau này mới có mà nó đã được hình thành ngay từ đầu
với Hội Thánh tiên khởi. Sự hiệp nhất đó không phát xuất từ nơi nào khác, mà
được bắt nguồn từ nền tảng hiệp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa, được hiện thực nơi
chính Hội Thánh – là thân thể của Đức Kitô.
Không dừng lại ở đó, sự
hiệp nhất cũng được diễn tả nơi các cộng đoàn, đặc biệt là cộng đoàn tu trì,
như là những hoa quả tốt lành mà Hội Thánh dâng lên Đấng Lang Quân của mình.
3. Mô hình cộng đoàn tu trì
a. Cộng đoàn tu trì
"Đời sống cộng đoàn không phải là một khía
cạnh như người ta có thể lầm tưởng, nhưng là một yếu tố thiết yếu của đời thánh
hiến tu trì".[27] Một
cộng đoàn chỉ thật sự là một thân thể khi các thành viên (hoặc đa số các thành
viên) vượt qua từ "cộng đoàn cho tôi" để đi đến "tôi cho cộng
đoàn", có nghĩa là con tim của từng người đang mở ra cho mỗi thành viên
không trừ một ai. Nói cách khác, đó còn là cuộc vượt qua vị kỷ đến yêu thương,
từ sự nô lệ cho cái "tôi" đến sự tự do dâng hiến trọn vẹn. Như vậy,
ta có thể rút ra khái niệm:
Cộng đoàn là một nhóm người tạo lập với nhau
những quan hệ bền vững mà mục đích không phải là một công việc, nhưng là sự gặp
gỡ và đón tiếp lẫn nhau; tuy các thành viên cũng hướng về mục đích chung, nhưng
căn bản hơn, họ thường hướng về nhau, và không phải chỉ sống bên nhau mà còn
sống với nhau, sống cho nhau.[28]
Ở đây có thể đặt một nghi vấn: đâu là điểm khác nhau giữa cộng đoàn tu trì
và cộng đoàn giáo dân? Cần phải biết rằng, luật tối cao của Thiên Chúa là
"mến Chúa yêu người" mà các tu sĩ không thể độc chiếm được cho riêng
mình, đó là sự giống nhau. Như vậy, sự khác nhau không hệ tại chính đức ái, mà
là cách thức thực thi đức ái. Để giữ trọn giới răn, người giáo dân phải từ bỏ
lòng quyến luyến những vật phàm trần, nhưng không buộc phải từ bỏ thực sự triệt
đệ bên ngoài, trái lại, người tu sĩ phải thiết thực từ bỏ bề ngoài và bề trong
cách triệt đệ hơn. Người giáo dân dù thành tâm giữ đạo cũng chỉ dâng một phần
của cải, thời gian, lao nhọc, tình yêu… của
mình cho Chúa (như các hội đoàn công giáo vẫn tiến hành) ; Ngược lại, các
tu sĩ nam nữ được cảm hoá bởi tình yêu thái quá của Chúa Giêsu, nên đã dâng
hiến trót cuộc đời và mọi sự cho Thiên Chúa và cho cộng đoàn mình gia nhập.[29]
Như vậy, cộng đoàn tu trì là một cộng đoàn đức ái với đặc tính là mỗi thành
viên theo sát Đức Kitô và hiệp nhất với nhau để xây dựng cộng đoàn. Huấn Thị
"Những Yếu Tố Cốt Yếu Trong Giáo
Huấn Của Hội Thánh Về Đời Tu", phần II, số 18 có viết :
Sự thánh hiến tu trì thiết lập một sự hiệp
thông đặc biệt giữa tu sĩ với Thiên Chúa và trong Thiên Chúa, với các thành
viên của tu hội. Đây là yếu tố căn bản của sự hiệp nhất trong tu hội’. Mà vì tu
sĩ được thánh hiến cho Thiên Chúa trong Đức Kitô, nhờ tham dự vào sự thánh hiến
của Đức Kitô, cho nên có thể nói cách khác, rằng sự hiệp thông tu trì là một sự
hiệp thông trong Đức Kitô.[30]
Văn kiện trên đã cho thấy hai yếu tố quan trọng của một cộng đoàn tu trì đó
là hiệp thông với Chúa và hiệp thông với nhau. Mặc dù vậy, xét theo khía cạnh
tổ chức, thì cộng đoàn tu trì cũng là một thực tại xã hội, cũng tuân theo những
qui luật chung cho sự phát triển xã hội như là có tổ chức, có phân công, kỷ
luật, thưởng phạt… và một số yếu tố tự nhiên khác nhằm giúp cho cộng đoàn đó
được đứng vững và đồng lòng đồng trí với nhau. Mặt khác, những yếu tố tự nhiên
đó vẫn chưa đủ để đi đến sự hiệp nhất, mà căn bản vẫn là việc các tu sĩ đều
được mời gọi theo sát Đức Kitô với một đoàn sủng, một truyền thống, một luật lệ
và cũng như một tinh thần chung. Một khi các thành viên tu sĩ càng tha thiết
gắn bó với Đức Kitô và nhiệt thành quảng đại với ơn gọi thánh hiến của mình,
thì sự hiệp nhất huynh đệ càng mạnh mẽ và chân thật.[31]
b. Sự hiệp nhất trong truyền thống cộng đoàn
tu trì
Sự hiệp nhất trong cộng đoàn tu trì, trước tiên, cần nhắc đến tính đa dạng
của các ơn gọi. Tính đa dạng là một yếu tố không thể thiếu trong một cộng đoàn
và cũng không ai giống ai hoàn toàn. Như thế, sự hiệp nhất đòi hỏi một sự linh
động và phải có phương pháp. Hơn nữa, tính đa dạng cũng là yếu tố để duy trì sự hiệp nhất bởi đơn giản
một lẽ, có khác nhau mới đi đến hiệp nhất, cần đến hiệp nhất. "Đời Tu Dưới
Ánh Sáng Công Đồng Vaticano II và Giáo Luật" có viết:
Giáo Hội xác nhận khả năng trong một dòng tu
có thể có những ơn gọi đặc biệt, sinh ra sự khác biệt giữa các phần tử mà vẫn không làm suy suyễn sự hợp nhất
của cộng đoàn. Các phần tử này cũng được liên kết hướng về một ơn gọi chung,
tức là đoàn sủng của dòng, nhưng với những hình thái cụ thể, tuy nhiên tất cả
đều hoạt động vì sứ mạng chung của toàn dòng.
Như một thân cây trổ sinh
nhiều cành khác nhau với những đặc điểm riêng, các phần tử cũng biểu thị sự
phong nhiêu của một ơn gọi chung: những đặc điểm ấy đem lại sức sống cho những
ơn gọi đặc biệt và cho sự khác biệt nhau của các phần tử.[32]
Như vậy, sự đa dạng ơn gọi làm cho các thành viên
trong cộng đoàn hỗ trợ lẫn nhau, và tất cả cùng liên kết tạo nên một hình thức
hợp nhất không sao lầm lẫn được với sự đồng điệu. Tất cả đều bình đẳng đóng góp
cho việc sống đoàn sủng và cho lợi ích chung của hội dòng mặc dù những nhiệm vụ có khác nhau,
nhưng trong phạm vi có thể. Qua đó, sức mạnh gắn bó của đời sống chung thể hiện
và thực sự phong phú nhờ việc chia sẻ vào sức sống và các công việc của cộng
đoàn. Cụ thể, Công Đồng Vaticano II có nói như sau:
[…]
Là chi thể Chúa Kitô, các tu sĩ hãy mang
lấy gánh nặng của nhau (x.Gl 6,2), và trọng kính lẫn nhau trong tinh thần giao
hảo huynh đệ (x. Rm 12,10). Thực vậy, khi được yình yêu của Thiên Chúa nhờ Chúa
Thánh Thần tràn đầy trong mọi tâm hồn (x. Rm 5,5), cộng đoàn giống như một gia
đình thực sự đoàn tụ nhân danh Chúa, được hưởng sự hiện diện của Ngài (x. Mt
18,20). Yêu mến là chu toàn luật pháp (x. Rm 13,10) và là dây liên kết sự trọn
lành (x. Cl 3,14) ; nhờ đức ái mà chúng ta biết rằng mình được chuyển từ
cõi chết sang cõi sống (x. 1Ga 3,14). Hơn nữa, sự hiệp nhất huynh đệ loan báo
Chúa Kitô đã đến (x.Ga13,35;17,21) và phát sinh một năng lực tông đồ mạnh liệt.[33]
Sự khẳng định trên của Công Đồng có thể rút ra được rằng: đối với người tu
sĩ, sự hiệp thông trong Đức Kitô được biểu lộ ra cách bền vững và hữu hình bằng
đời sống chung. Đó là một yếu tố cốt yếu của đời sống tu sĩ. Có thể nói, một
thành viên không có khả năng sống chung thì cần phải coi như là dấu hiệu không
có ơn gọi tu trì.
Cộng đoàn là môi trường bình thường và quí báu cho
người tu sĩ sống cuộc đời tận hiến của mình, nên các tu sĩ không thể tự tách
mình ra được. Một cộng đoàn hiệp nhất trong tình huynh đệ tạo ra nhiều điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển và trưởng thành đời sống thánh hiến, đồng thời
bảo đảm cho sự trung thành với đời sống đó. Ngoài ra, một đời sống cộng đoàn
tốt đẹp còn là một lời rao giảng Tin Mừng rất hiệu lực. Đó còn là dấu chỉ tiên
báo vinh quang Nước Trời.
Để kết thúc, người viết xin được mượn nguyên văn khoản Giáo luật nói về đời
sống huynh đệ trong cộng đoàn tu trì, một đúc kết khá đầy đủ và mang tính pháp
lý như sau:
Đời sống huynh đệ, với đặc điểm riêng thích hợp với
mỗi hội dòng, nhờ có các phần tử được kết hợp trong Đức Ktô dường như trong một
gia đình đặc biệt, cần được xác định cách nào để trở nên một sự hỗ trợ cho tất
cả các phần tử trong việc chu toàn ơn gọi của mỗi người. Do sự thông hiệp huynh
đệ, được đâm rễ và xây dựng trên đức ái, các phần tử phải trở nên gương mẫu của
sự hoà giải đại đồng trong Đức Kitô.[34]
[1]
Xuân Bích Việt Nam ,
Tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất các kitô
hữu năm 2010, truy cập ngày 30/09/2010; www.thanhlinh.net/
/05
_SLHiepNhat_GioiThieu.htm
[2]
Jean Vanier, La Communauté Lieu Du Pardon Et De La Fête,(Bản dịch Việt ngữ: Đời Sống Cộng Đoàn, dịch giả Nguyễn Ngọc
Mỹ), NXB Fleurus/ Bellarmin, 2002, tr. 7.
[3] x. St 1, 26.
[4] GS, 12.
[5] x. Jean
Vanier, La Communauté Lieu Du Pardon Et
De La Fête ,(Bản dịch Việt ngữ: Đời
Sống Cộng Đoàn, dịch giả Nguyễn Ngọc Mỹ), NXB Fleurus/ Bellarmin, 2002,
tr.83 – 84.
[6] Ibid., tr.84.
[7] x. St 2, 23 –
24.
[8] Nguyễn Thanh
Long, “Chỗ đứng của Kitô giáo tại châu Á,” tuần báo Công giáo & Dân tộc, số 1776, tuần lễ từ 24.9 đến 30.9.2010,
tr.1.
[9] Ga 17, 22 –
23.
[10] Ga 10, 16.
[11] LG, 13.
[12] Mt 12, 46 –
50.
[13] x. Joseph
Ratzinger, Jesus von Nazareth, dịch
giả Nguyễn Văn Trinh, NXB. Tôn Giáo, Hà Mội, 2008, tr. 125.
[14] Ep 4, 2-6.
[15] x.Cv 1, 12-15.
[16] x.Cv 2, 1-4.
[17] x. Cv 2,
5-12.
[18] x. Hồng Phúc.
Chúa Giêsu và Giáo Hội. NXB Tôn giáo,
Hà Nội, 2006, tr 15.
[19] Cv 2, 42-47.
[20] x. Cv 12, 12.
[21] x. Nhóm phiên dịch các giờ kinh phụng vụ. Lời Chúa Cho Mọi Người, footnote Cv 2,
42. NXB Tôn Giáo, Hà Nội, 2006.
[22] x. Cv 11, 19-26.
[23] x. Giáo
Lý Hội Thánh Công Giáo. Nhà xuất bản Tôn Giáo, Tp. HCM., 2006, số 766.
[24] Ibid., số 767.
[25] x. LG, 4.
[26] x. Giáo
Lý Hội Thánh Công Giáo. Nhà xuất bản Tôn Giáo, Tp. HCM., 2006, số 772.
[27] Nguyễn Hồng Giáo. Chúa Gọi Tôi Đi Theo Người, NXB. Phương Đông, Tp. HCM., 2009, tr.
247.
[28] Ibid., tr. 248.
[29] x. Nguyễn Văn Liêm, Dạ Con Đây, 1997, tr. 13-16, (Không có NXB. và nơi xuất bản).
[30] Nguyễn Hồng Giáo. Chúa Gọi Tôi Đi Theo Người, NXB Phương Đông, Tp. HCM., 2009, tr.
249.
[31] x. Ibid., tr.
249-250.
[32] Elino
Gambari, SMM., JCD., Religious Life
According to Vaticano II and The New Code of Canon Law., The Daughters of
St. Paul, 1986,(bản dịch Việt ngữ: Đời tu dưới ánh sáng Công đồng Vaticano II
và Giáo luật, Mathia M. Ngọc Đính chuyển ngữ, quyển I, tr. 276).
[33] PC, 15.
[34] Bộ Giáo
luật 1983, dịch giả: Đức ông Phương, Lm. Phan Tấn Thành, Lm Vũ Văn Thiện,
Lm Mai Đức Vinh, NXB. Tôn giáo, Hà Nội, 2004, đ. 602.
Đăng nhận xét