Tha Thứ, Triết Lý Kiểu Trẻ Thơ


[…] tha thứ
phải khởi đi từ sự tự nguyện ước muốn được hòa giải
chứ không phải chuyện làm cho xong.
Thật vậy, một điều quan trọng
là việc tha thứ phải được thực hiện trong tâm hồn
trước khi biểu lộ ra lời nói.
Chúng ta phải thực hiện việc tha thứ
rất nhiều lần trong tâm hồn
trước khi biến nó thành hiện thực.
Mai Văn

Từ những mẩu chuyện…
Thuở nhỏ, tôi chơi với một đám nhóc trong xóm và không có ngày nào là tôi không bị bọn nó cho “nghỉ chơi” vài lần. Thế nhưng, ngay sau đó ít phút, nếu tôi có được một cây kem thì những đứa cho tôi nghỉ chơi lại sáp đến xin mút kem và tình cảm lại gắn bó như chưa hề có chuyện “nghỉ chơi”. Tuổi thơ chúng tôi là thế, “nghỉ chơi” dễ dàng như ăn một cái bánh ngọt, nhưng cũng hàn gắn nhanh chóng, nhiều khi chỉ qua một sợi thun.
Rồi tôi đi học xa nhà, sống chung với một cô bạn cùng lớp suốt 3 năm ở ký túc xá. Mọi vui buồn đều kể cho nhau nghe, tưởng như tình cảm ấy không gì có thể chia cắt. Vậy mà, chỉ một sự hiểu lầm vô cớ đã khiến chúng tôi mất tình bạn đó. Không có những câu cãi cọ, cũng chẳng nói “nghỉ chơi” thẳng thừng như thời con nít, nhưng thay vào đó là một sự im lặng đáng sợ. Chúng tôi cũng chẳng buồn giải thích cho nhau nghe vì cho rằng mình mới là người bị tổn thương. Lâu dần, ra đường, chúng tôi cũng không buồn chào nhau. Cho đến ngày sắp ra trường, tình cờ nghe mấy đứa bạn nhắc lại câu chuyện ngày xưa, cả hai đứa mới biết là mình đã tuyệt giao chỉ vì một vấn đề hết sức vớ vẩn. Thế nhưng, ngay cả khi biết rõ sự thật, chúng tôi cũng không có đủ can đảm để nói một lời xin lỗi, biểu lộ sự tha thứ để hàn gắn lại tình bạn đã mất.
Chuyện kể rằng, có một ông thầy giáo nọ muốn dạy học trò của mình cách tha thứ, nên đã yêu cầu mỗi học sinh mang đến lớp một túi khoai tây và một bao nilon sạch. Sau đó, thầy dặn học trò rằng, ai không tha thứ cho kẻ khác thì lấy một củ khoai tây, viết tên người đó và ngày tháng rồi bỏ vào túi nilon. Sau vài ngày, có những túi đã trở nên nặng nề. Thầy còn bắt học trò đi đâu cũng phải đeo cái túi ấy theo, tối ngủ thì để bên cạnh, làm việc thì để trên bàn. Qua thời gian, khoai tây bắt đầu phân hủy thành một thứ chất lỏng nhầy nhụa và bốc mùi.
… Đến triết lý của tha thứ
Qua những mẩu chuyện ngắn, chúng ta học được những bài học quý giá về tha thứ. Ra như chúng ta vẫn mãi được mời gọi để học biết tha thứ như những đứa trẻ nít, để cho tâm hồn mình được thênh thang, thanh thoát. Quả vậy, trong cái đầu trong vắt của con nít hẳn là không có chỗ bấu víu cho những lời “nghỉ chơi” thật. Dầu nó nói thẳng vào cái mặt đứa nào nó không ưa và còn nói to là đằng khác, rằng “tao nghỉ chơi với mày”, nhưng cái đầu của nó lại chẳng đọng lại một chữ nào. Giận thì nói thế, nhưng quên ngay sau đó, và làm hoà với nhau. Chỉ cần có thế, con nít muôn đời vẫn là những thiên thần. Và con nít luôn là những người cư xử độ lượng nhất.
Trong khi đó, nơi người lớn thì ngược lại. Người ta càng lớn thì lại càng dễ “nghỉ chơi” thật. Người lớn dùng cái đầu phức tạp của họ để im lặng và đè nén hai chữ “tha thứ”. Sự im lặng ấy thì rất đáng sợ. Ai lên tiếng trước để mong tìm cách hàn gắn lại tương quan thì coi như là kẻ có lỗi. Bởi có lỗi anh mới giảng hòa trước chứ, mà điều ấy không người lớn nào muốn thực hiện. Với người lớn, giảng hoà như là dấu hiệu của người thua cuộc. Người lớn không bật ra được chữ “tha thứ” vì người ta đã biết ý thức về thể diện, về lòng tự ái của mình. Thôi thì, thà mất một ngươi bạn còn đỡ hơn mất mặt.
Câu chuyện thầy giáo dạy học trò về tha thứ quả thật là một ví dụ sinh động cho cái giá mà chúng ta phải trả khi cứ khư khư ôm lấy giận hờn trong lòng. Mỗi khi không chịu tha thứ cho người khác là chúng ta trao thêm cho họ nhiều khả năng để làm chúng ta khổ sở hơn nữa. Nhiều khi những người làm chúng ta đau khổ đã đi khỏi, và có thể chúng ta không bao giờ gặp lại họ nữa, thế mà chúng ta lại để cho họ làm chúng ta quằn quại hết ngày này qua ngày khác. Chính những khi ấy, chúng ta đang trao cho họ quyền huỷ diệt hạnh phúc của chúng ta, thậm chí hạnh phúc của những người chung quanh chúng ta nữa. Chúng ta không tha thứ cho những người khác vì những đau khổ họ đã gây ra cho chúng ta, chính là lúc chúng ta trao thêm cho họ khả năng để tiếp tục duy trì hệ luỵ của những điều đau khổ mà họ đã từng gây ra. Dẫu biết tha thứ là điều không dễ dàng, và với người lớn lại càng khó khăn. Nhưng không ai phủ nhận tha thứ là điều có thể, và tha thứ sẽ đem lại lợi ích trước tiên cho người thực hiện việc tha thứ. Trong thâm tâm, con người hay cho rằng tha thứ là một món quà cho người khác nhưng chúng ta thấy đấy, đây rõ ràng là một món quà cho chính mình. Giả như chúng ta chưa thể vì người khác mà tha thứ cho họ, thì ít ra cũng vì bản thân chúng ta mà bỏ qua cho họ.
Thế nhưng, ở mức độ cao cả hơn, chúng ta luôn được kêu gọi diễn tả sự tha thứ một cách triệt để. Khi ấy, tha thứ phải khởi đi từ sự tự nguyện ước muốn được hòa giải chứ không phải chuyện làm cho xong. Thật vậy, một điều quan trọng là việc tha thứ phải được thực hiện trong tâm hồn trước khi biểu lộ ra lời nói. Chúng ta phải thực hiện việc tha thứ rất nhiều lần trong tâm hồn trước khi biến nó thành hiện thực. Chúng ta đừng tha thứ rồi lại không chơi với những người được tha thứ nữa. Dẫu rằng khó, nhưng khi chấp nhận tha thứ, chúng ta nên sẵn sàng trò chuyện với đối phương như bạn bè. Nếu có thể được, chúng ta cố gắng sống thân ái và gần gũi với nhau như trước.
Và ơn tha thứ từ Thiên Chúa
Lòng bao dung tha thứ của con người thật tuyệt vời và có sức biến đổi thế giới. Tuy nhiên, riêng sự tha thứ của con người thì vẫn chưa đủ. Thật vậy, con người quá biết là mình đã xúc phạm đến tới Thiên Chúa. Nhận thức được điều đó, mỗi người phải đến với Thiên Chúa và thưa rằng chúng ta đã hối hận về điều ấy. Nếu khi tha thứ cho nhau, con người thường nói, “bạn hãy quên chuyện đó đi”, thì khi đến với Thiên Chúa, chúng ta cũng thầm mong Người nói: “Thôi, con hãy quên chuyện ấy đi, chuyện đã rồi ấy mà!”. Để mong muốn của mỗi người được Thiên Chúa đón nhận, chúng ta cần có thái độ sám hối chân thành và mong ước được hoà giải với Người.
Thế nhưng, chúng ta phải mạnh dạn khẳng định rằng, sự hoà giải là quà tặng và sáng kiến của Thiên Chúa, được cụ thể hoá qua chính mầu nhiệm của Chúa Kitô, Đấng hoà giải và giải thoát con người khỏi tội lỗi[1]. Như thế, con người được mời gọi hãy hoán cải và trở về với Thiên Chúa, vì rằng Người vẫn luôn chờ đợi, như người cha nhân từ đợi đứa con bỏ nhà đi hoang[2].
Hình ảnh người con hoang đàng được nói đến trong Tin mừng cho thấy sự rời bỏ của con người đối với Thiên Chúa. Điều ấy đã khởi đi ngay từ con người đầu tiên trong vườn Ê-đen. Thay vì dùng tự do Chúa ban để tìm kiếm điều thiện và yêu mến một cách quảng đại, con người đã để cho tính kiêu ngạo lôi kéo, từ chối vâng phục Thiên Chúa là Cha của mình. Thay vì dùng tình yêu để đáp đền tình yêu, con người lại đối đầu với Thiên Chúa, xem Người như là đối thủ. Chính sự cắt đứt tương quan với Thiên Chúa đã khiến con người bị xáo trộn trong chính nội tâm mình, và đó cũng là cội rễ của những phân rẽ nơi nhân loại.
Con người ngày nay, bằng nhiều cách, cũng đang chối bỏ Thiên Chúa như là Chủ của đời mình. Thậm chí, có những người coi Thiên Chúa như thể đang ngăn lối đi, cản bước tiến tự do của họ. Chính trong suy nghĩ ấy, con người hô hào “hãy giết chết Thiên Chúa để con người tự do hoàn toàn”. Có người cậy dựa vào những nghiên cứu khoa học để rồi tự hào con người có thể làm chủ được vận mạng đời mình. Người khác lại đề cao vật chất như một “ông chúa”, có thể chi phối được hoàn toàn đời sống của con người.
Thế nhưng, xưa cũng như nay, Thiên Chúa vẫn âm thầm đợi chờ con người quay về. Cựu ước, qua các Ngôn sứ, con người được cảnh cáo và mời gọi quay đầu trở lại. Tân ước, chính Con Thiên Chúa trực tiếp thực hiện một cuộc giao hoà trọng thể, bằng việc đổ máu trên thập giá. Ngày nay, Giáo hội – đại bí tích hoà giải, dựa vào lời của thánh Phaolô, vẫn luôn khẩn thiết kêu mời: “Xin hãy hoà giải với Thiên Chúa”[3]. Kết quả có được dành cho những ai đón nhận lời mời gọi này là bước vào nhiệm cục hoà giải và cảm nhận được sự thật chất chứa trong lời khẳng định của thánh Phaolô khi ngài nói: Đức Kitô là bình an của chúng ta, Người làm cho chúng ta được hoà giải với Thiên Chúa.[4]
Như thế, một khi con người ý thức sự yếu đuối của bản thân, đã từng rời bỏ Thiên Chúa để chạy theo tà thần, thì hoà giải là cách con người trở về bên Thiên Chúa, cầu xin lòng thương xót của Cha Nhân Từ. Thật vậy, con người “ý thức tội lỗi của mình, và hơn nữa, nhìn nhận mình là một tội nhân, có khả năng phạm tội và có xu hướng phạm tội, là bước đầu thiết yếu trong việc quay về với Thiên Chúa[5]. Và hoa trái của sự hoà giải thật cao quý, đó chính là được đón nhận sự bình an của Thiên Chúa, được Thiên Chúa yêu thương ôm vào lòng như người cha nhân từ ôm ấp đứa con đi hoang trở về.




[1] Xc Gioan Phaolô II, Tông huấn Sám hối và hoà giải, số 7.
[2] Xc Lc 15,11-32.
[3] Xc 2Cr 5,20.
[4] Xc. Ep 2,14-16.
[5] Gioan Phaolô II, Tông huấn Sám hối và hoà giải, số 13.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn