Dấn thân tích cực bảo vệ “ngôi nhà chung” nhân loại

Dưới ánh sáng của Thông điệp Laudato Si,
thiết nghĩ mỗi người cần tự vấn xem
liệu chúng ta có đang thiếu xót bổn phận
đối với việc chăm sóc và bảo vệ công trình sáng tạo của Chúa? Chúng ta có cộng tác vào việc hủy hoại môi trường
bằng cách này hay cách khác chăng?
Chúng ta có tìm giải pháp nào để cứu hành tình của chúng ta đang ngày ngày bị tiêu diệt cách thảm thiết không?
                        Nt. Mary Nguyễn Hòa – MTG. Qui Nhơn



Dẫn nhập
Nếu như ngôi nhà là nơi quy tụ mọi thành viên cùng chung sống, là môi trường thuận lợi và tốt nhất giúp mỗi người sinh hoạt và phát triển nhân cách, tri thức, tình cảm, tương giao, tâm linh… trong trật tự, bình yên và hạnh phúc thì môi trường thiên nhiên chúng ta đang sống đây cũng có thể được sánh ví như ngôi nhà chung của toàn thể nhân loại được Thiên Chúa vì tình yêu thương đã quan phòng sắp đặt để mọi loài trong vũ trụ này được phát triển và tiến triển trong trật tự hài hòa, mang lại cuộc sống bình yên và hạnh phúc cho con người. Bởi đó, Thiên Chúa đã đặt con người cai quản vũ trụ này. Chắc chắn ai cũng có quyền được hưởng dùng mọi ích lợi từ ngôi nhà chung này và đồng thời cũng nhớ đến trách nhiệm đặc biệt của mình là hết lòng và hết tình bảo vệ, để ngôi nhà chung này trở thành nơi mang lại cuộc sống hạnh phúc, bình an cho mọi người.
“Ngôi nhà chung của chúng ta là trái đất màu xanh bao la. Ngôi nhà chung của chúng ta là trái đất màu xanh hiền hòa…” Lời bài hát “Ngôi nhà chung của chúng ta” của Nhạc sĩ Huỳnh Phước Liên như phần nào cho thấy tình thương và Lòng Thương xót của Thiên Chúa bao phủ trên cuộc sống con người khi tạo dựng nên Trái Đất cho con. Đây thực sự là nơi mà sự sống con người được duy trì nếu được trân trọng đúng mức.
Thế nhưng, có lẽ trong quá trình phát triển và tồn tại, con người đã thấm thía những hậu quả do chính sự phát triển là ô nhiễm và suy thoái môi trường sinh thái, thực phẩm nhiễm độc, nhiều vùng bị thiên tai, khô hạn và nhiễm mặn đang từng ngày diễn ra đó đây trên thế giới… Đặc biệt với Việt Nam, trong những tháng gần đây (từ tháng 4. 2016), tình trạng cá chết hàng loạt dọc biển Miền Trung từ Hà Tĩnh trở vào Thừa Thiên – Huế và các tỉnh lân cận đang gây ra nỗi đau và thiệt hại về sinh mạng, sức khỏe, tài sản, môi trường; cũng như để lại nỗi hoang mang cho biết bao người về sự sinh tồn của mình. Khoa học kỹ thuật và công nghệ tiến bộ những tưởng làm cho đời sống con người bớt khổ đau, thêm phấn khởi, an vui và trường thọ; thế nhưng, không hẳn như thế! Công nghệ càng tối tân, hiện đại, càng kéo theo thảm họa sinh thái cùng với nhiều căn bệnh nan y đe dọa mạng sống con người; khiến không ít người phải sống trong lo sợ, đau khổ và tuyệt vọng. Điều đó đã và đang tác động mạnh mẽ đến sức khỏe, tình hình xã hội, an ninh quốc gia và ngay cả mạng sống con người cũng chẳng được đảm bảo.
Đối mặt với những vấn đề tiêu cực này càng làm cho chúng ta không khỏi lúng túng vì không biết làm sao để bảo vệ ngôi nhà chung của chúng ta. Trách nhiệm này không thuộc của riêng ai, nhưng đều là của bạn và của tôi, của chúng ta! Bởi vì con người hủy hoại ngôi nhà của mình, tức là hủy hoại chính mình, đặc biệt là tàn phá công trình sáng tạo của Thiên Chúa và gạt bỏ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa trong công cuộc Tạo Dựng. Dưới ánh sáng của Thông điệp Laudato Si, thiết nghĩ mỗi người cần tự vấn xem liệu chúng ta có đang thiếu xót bổn phận đối với việc chăm sóc và bảo vệ công trình sáng tạo của Chúa? Chúng ta có cộng tác vào việc hủy hoại môi trường bằng cách này hay cách khác chăng? Chúng ta có tìm giải pháp nào để cứu hành tình của chúng ta đang ngày ngày bị tiêu diệt cách thảm thiết không? Thật đúng lúc để mỗi chúng ta dấn thân tích cực vào việc bảo vệ ngôi nhà chung của nhân loại này.
I. Tuyệt đỉnh của Lòng Thương Xót Chúa trong công cuộc Tạo Dựng
1. Vũ trụ phản ánh tình thương của Thiên Chúa
Lúc khởi đầu, Thiên Chúa đã tạo dựng một thế giới tốt đẹp và trao cho con người sử dụng, chăm sóc như lời Chúa trong sách Sáng thế: “Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Êđen, để cày cấy và canh giữ đất đai” (St 2,15). Con người được hưởng dùng tất cả những điều tốt đẹp từ muôn loài muôn vật, và cũng chính con người được Thiên Chúa trao quyền quản lý trái đất này; vì thế con người phải trở nên người quản lý trung tín của Đấng Tạo Hóa. Kitô giáo đón nhận chân lý mặc khải từ Thiên Chúa: muôn loài, muôn vật, kể cả con người và toàn thể vũ trụ này đều được Thiên Chúa sáng tạo từ hư vô (x. St 1, 1-2), và tất cả những gì Thiên Chúa đã thực hiện đều tốt lành (x. St 1, 31). Thiên Chúa là nguồn cội của tất cả những gì thiện hảo và xinh đẹp, Ngài sáng tạo mọi sự tốt đẹp để con người được hưởng trọn vẹn tình thương mà Ngài đặc biệt dành cho.
 Nếu Chúa không tạo dựng muôn loài trong trời đất cho bạn hưởng dùng, cho bạn có điều kiện phát triển cuộc sống hạnh phúc và xứng với nhân phẩm của một con người, bạn cũng chẳng thể làm gì được, kêu ca, lẩm bẩm, than trách hay phản kháng chăng? Đó là quyền và tự do của Ngài; nhưng không, Ngài vốn là một Thiên Chúa nhân hậu, từ bi, quảng đại, khoan dung và giàu tình thương… không bao giờ muốn thụ tạo Ngài đã dựng nên phải sống trong bất hạnh và đau khổ.
Đứng trước một dòng thác hùng vĩ hay cảnh núi đồi trùng trùng điệp điệp, khi khám phá đại dương với bao sinh vật phong phú, khi tham gia cuộc phiêu lưu mạo hiểm trong những cánh rừng bạt ngàn với các loài thú quý hiếm, các loài sinh vật, thảo mộc; hay được hít thở khí trời mỗi ngày cách nhưng không mà chúng ta chẳng phải trả bất cứ một khoản tiền nào, nguồn nước cũng như nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng được Chúa ưu đãi ban cho dồi dào. Hãy mở to đôi mắt ngạc nhiên để thấy được bao điều kỳ diệu mà Chúa đã làm và cảm được tình thương tuyệt diệu Thiên Chúa tặng ban cho con người. Thật tuyệt vời và vô biên đến chừng nào, dù chúng ta nhỏ bé và bất xứng. Chúng ta hãy mượn lời tác giả Thánh vịnh mà ca ngợi Chúa:
Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,
Không trung loan báo việc tay Người làm.
Ngày qua mách bảo cho ngày tới,
Đêm này kể lại với đêm kia. ( Tv. 19, 2-3)
Thiên Chúa dựng nên vũ trụ như môi trường thuận lợi cho con người sinh sống. Ngài tạo nên thời tiết bốn mùa thay đổi nối tiếp nhau, cho mưa thuận gió hòa và điều hành mọi vật tiến triển trong trật tự, hòa hợp và đi vào quỹ đạo của tình yêu. Ngài hoàn thành chương trình sáng tạo trong sự quan phòng và thánh ý nhiệm mầu:
Từ cao thẳm, Chúa đổ mưa xuống núi,
Đất chứa chan phước lộc của Ngài.
Ngài khiến mọc cỏ xanh nuôi sống đàn gia súc,
Làm tốt tươi cho người thế hưởng dùng.
Từ ruộng đất, họ kiếm ra cơm bánh,
Chế rượu ngon cho phấn khởi lòng người,
Xức dầu thơm cho gương mặt sáng tươi,
Nhờ cơm bánh mà no lòng chắc dạ. ( Tv 104, 13-15)
Mặc khác, chúng ta tin Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ theo sự khôn ngoan và vì tình thương. Ngài muốn cho con người và muôn loài được tham dự vào hữu thể, sự khôn ngoan và tốt lành của Ngài và muốn con người đồng thừa hưởng niềm hạnh phúc với Ngài. Bởi đó, khi nói đến chủ tể của vũ trụ là Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo và điều khiển thế giới, chúng ta được mời gọi ngắm nhìn và ca ngợi quyền năng cao cả và lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với công trình do Người sáng tạo. Phụng vụ Hội thánh trong Kinh nguyện Thánh Thể IV đã ca khen rằng: “Chúng con tuyên xưng Cha là Ðấng cao cả, Cha đã tác tạo mọi loài để ban cho chúng đầy tràn ơn phúc, và cho thụ tạo vui hưởng ánh sáng huy hoàng của Cha”. Dù cho con người đón nhận hay chối từ, Thiên Chúa vẫn luôn trung thành với tình thương quan phòng, chăm sóc và yêu thương. Đấng đã chăm sóc từ con chim sẻ nhỏ đến hoa cỏ ngoài đồng (x. Mt 6, 26-30), cũng là Đấng “cho mặt trời của Ngài mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5, 45).
Như thế, Thiên Chúa có một mối liên hệ nội tại với chính thế giới, Ngài chính là tác giả và là Đấng điều khiển thế giới còn con người là thụ tạo của Ngài. Ngài tạo dựng nên cả trái đất lẫn con người, và ban phát trái đất cho con người để con người làm chủ bằng sức lao động và thừa hưởng những kết quả do bàn tay con người làm ra (x. St 1, 28). Vì Thiên Chúa Sáng Tạo là Ðấng khôn ngoan nên công trình sáng tạo có trật tự “Ngài đã an bài mọi sự có mực thước, có số, có lượng” (Kn 11, 20) và ban phát trái đất cho toàn thể nhân loại để nuôi sống toàn thể mọi người không bỏ quên hoặc thiên vị một ai. Trái đất với hoa trái của nó là món quà đầu tiên của Thiên Chúa ban cho để nuôi sống con người và con người cộng tác với người khác để tất cả cùng nhau làm chủ trái đất.[1] Một thế giới tuy có xa rời tình thương Thiên Chúa vì vết thương do tội lỗi gây ra thì cũng được Thiên Chúa chữa lành nhờ Máu của Đức Giêsu Kitô và đưa trở về tầm mức vẹn toàn.
Thế giới loài người, tức là với toàn thể gia đình nhân loại cùng với mọi thực tại thuộc môi trường sinh sống. Thế giới ấy là sân khấu của lịch sử loài người, đánh dấu bởi những cố gắng, thất bại và thắng lợi; một thế giới mà với cặp mắt Đức tin, người Kitô hữu nhận biết là đã được tình yêu của Đấng Tạo Hóa tác thành cùng bảo toàn; và dù có rơi vào ách nô lệ tội lỗi, thì nhờ Đức Kitô chịu đóng đinh và sống lại, bẻ gãy uy quyền của thần dữ, thế giới ấy đã được giải thoát, để thay hình đổi dạng theo dự kiến của Thiên Chúa mà tiến tới mức thành toàn viên mãn.[2]
Tóm lại, Thiên Chúa là Đấng dựng nên muôn loài và sắp đặt trật tự cách khôn ngoan, Người tạo dựng mọi sự tốt đẹp và tạo dựng trong trật tự. Bởi đó, con người cần đến với Thiên Chúa trong thái độ cung kính, quy phục Đấng Sáng Tạo và hình thành thái độ biết ơn sâu xa khi được thụ hưởng các công trình, các tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú của thế giới. Con người chính là chóp đỉnh của việc tạo dựng trong công trình của Thiên Chúa vì mang hình ảnh của Ngài và được trao quyền cai quản muôn loài trong vũ trụ. 
2. Con người được trao quyền cai quản vũ trụ
Đứng trước những kỳ công nơi thiên nhiên vạn vật, con người đã không ngớt lời thán phục vì tình thương và quyền năng cao cả của Thiên Chúa. Giờ đây, đứng trước một tác phẩm tuyệt diệu và hoàn chỉnh nhất là con người, chắc hẳn không ai không thầm cảm phục tình thương vô bờ Thiên Chúa dành đặc biệt cho con người. Con người biểu lộ niềm xác tín với một cái nhìn phát sinh từ lòng tôn kính Thiên Chúa của sự sống, Ðấng đã tạo dựng con người bằng cách làm cho họ nên như một kỳ công phản chiếu hình ảnh sống động của Ðấng Tạo Hoá. Vì thế, tác giả Thánh vịnh thốt lên:
Tạng phủ con, chính Ngài cấu tạo,
dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con.
Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng,
công trình Ngài xiết bao kỳ diệu!
Hồn con đây biết rõ mười mươi.
Xương cốt con, Ngài không lạ lẫm gì,
khi con được thành hình trong nơi bí ẩn,
được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu.
Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy;
Mọi ngày đời được dành sẵn cho con
đều thấy ghi trong sổ sách Ngài,
Trước khi ngày đầu của đời con khởi sự (Tv 139, 13-16).
Nếu đọc lại trình thuật tạo dựng trong sách Sáng Thế 1, 1-2,4a, chúng ta dễ dàng nhận thấy Sách Thánh mô tả việc Thiên Chúa tạo dựng con người sau khi đã tạo dựng trời đất trăng sao cùng muôn loài muôn vật. Dưới cái nhìn về môi trường, chúng ta có thể khẳng định, Thiên Chúa đã ban cho con người một môi trường sống rất tốt lành. Cũng chính trong bản văn sáng tạo ấy, Thiên Chúa còn ban cho con người một đặc quyền để con người thay mặt Thiên Chúa mà cai quản thế giới vật chất (St 1, 26). Thế nhưng chúng ta phải làm chủ như thế nào? Thiên Chúa ban quyền làm chủ trên con người không phải để cho con người trở thành kẻ thống trị và gây họa cho nhân sinh trên hành tinh, nhưng Thiên Chúa giao phó vũ trụ cho con người nhằm giúp muôn loài sinh sôi nảy nở và phát triển hài hòa, bởi vì con người “được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, con người đã nhận lãnh trách nhiệm chinh phục Trái đất cùng với tất cả những gì chứa đựng trong đó, quản trị vũ trụ trong thánh thiện và công bằng.”[3] Đó quả là một vinh dự nhưng cũng là một trọng trách của con người. Trọng trách cộng tác vào công trình sáng tạo, canh tác quả địa cầu, và bảo vệ môi trường sinh thái. Do vậy, Hội thánh đã tha thiết cầu nguyện rằng: “Lạy Cha chí thánh… Cha đã dựng nên con người giống hình ảnh Cha và trao cho việc trông coi vũ trụ, để khi phụng sự một mình Cha là Ðấng Tạo Hoá, con người cai quản mọi loài thụ tạo.”[4]
Lần giở lại những trang Thánh Kinh và đọc lại lịch sử Dân Chúa, chúng ta khám phá ra Chúa đang hoạt động trong lịch sử ấy ngay từ ban đầu: “Tổ tiên tôi là một người Aram phiêu bạt” (Đnl 26, 5). Thiên Chúa đã hứa với dân Người một giao ước mà dân Chúa có thể nhìn về tương lai với niềm hy vọng: Người Israel sống niềm tin ấy trong không gian và thời gian của thế giới này, thế giới mà họ không hề coi là môi trường thù nghịch hay một chỗ xấu xa mà người ta cần được giải thoát, nhưng chính là ân huệ Chúa ban, là đất đai và kế hoạch Chúa giao cho họ quản lý và làm việc với tinh thần trách nhiệm của một con người. Thiên nhiên, một công trình sáng tạo của Thiên Chúa, không phải một kẻ thù nguy hiểm. Chính Chúa đã làm nên mọi sự, và khi nhìn từng thụ tạo Chúa đều thấy nó tốt đẹp (x. St 1. 31). Chúa giao cho con người chịu trách nhiệm về toàn thể thụ tạo, bắt họ chăm lo sao cho thụ tạo được hài hòa và phát triển (x. St 1, 26-30). Thế nhưng, trải qua thời gian khi nhìn lại thế giới này với bao vấn đề đáng lo ngại về môi trường sinh thái và tài nguyên thiên nhiên hiện nay, chúng ta không khỏi thắc mắc vì sao con người lại có thể đối xử tàn nhẫn với công trình của Thiên Chúa đến thế?
Có lẽ vì con người quá nhấn mạnh đến việc chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, chúng ta đề cao quá mức vai trò ngôi vị của mình mà xem nhẹ và lãng quên vai trò môi trường chăng. Bên cạnh đó, con người cũng lạm dụng trách nhiệm làm chủ thiên nhiên của mình mà tàn phá thiên nhiên cách vô tội vạ và thiếu trách nhiệm, gây ảnh hưởng đến lợi ích chung của cộng đồng nhân loại. Bởi đó, trong vài thập kỷ vừa qua, đặc biệt kể từ khi phát triển các nền công nghiệp và kỹ thuật, sự tăng trưởng trong các ngành hóa chất, hóa dầu, y tế, công nghệ thông tin…, con người đã không những không tôn trọng những quy tắc chung về môi trường sinh thái mà còn khai thác thiên nhiên cách tàn bạo, ích kỷ và tùy tiện, khiến trái đất xinh đẹp đang dần dần đi đến chỗ hủy hoại và diệt vong.
Thay vì cộng tác với Tạo Hóa để giúp thiên nhiên phát triển hài hòa thì con người đã gây nên những thảm trạng cho thiên nhiên không lường được. Thiên Chúa trao cho con người “bá chủ mặt đất” không có nghĩa là con người được toàn quyền lạm dụng bừa bãi thiên nhiên, nhưng cần biết đối xử với thiên nhiên trong tự do và trách nhiệm. Ngài phủ nhận tất cả ý đồ chiếm hữu tuyệt đối của con người với thiên nhiên khi khẳng đinh với dân Ngài: “Đất thì không được bán đứt, vì đất là của Ta, còn các ngươi chỉ là ngoại kiều, là khách trọ nhà Ta” (Lv 25, 23).
Trải qua dòng thời gian, nhiều vị lãnh đạo Giáo hội không ngừng băn khoăn thao thức đến vấn đề môi trường sinh thái vì nó ảnh hưởng sâu rộng và trực tiếp đến sức khỏe, cuộc sống của con người. Nhiều vị Giáo Hoàng đã đưa ra quan điểm của mình qua các bài tham luận và lên án chỉ trích những cá nhân hay tập thể chỉ vì một lý do nào đó mà nhẫn tâm phá hủy môi trường sống và những gì liên quan đến môi trường sinh thái như Thông điệp Pacem in terris – Hòa bình trên thế giới, của thánh Giáo hoàng Gioan XXIII.
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng đưa ra lời cảnh báo: “Con người đã không nhìn vũ trụ với một ý nghĩa nào khác, ngoài mục đích sử dụng trực tiếp và lạm dụng”. Tiếp đến, ngài kêu gọi toàn thế giới phải có một sự chuyển đổi về mặt sinh thái. Đồng thời, ngài cho thấy người ta dấn thân quá ít để “gìn giữ những điều kiện luân lý cho một sinh thái thật nhân bản”.
Đặc biệt, Đức Giáo hoàng Phanxicô cho thấy sự tàn phá môi trường sinh thái của con người đã rất trầm trọng, vì Thiên Chúa không những trao cho con người trái đất này để chăm sóc và phát triển, nhưng còn muốn cho con người được sống và sống dồi dào nữa. Việc phát triển mang tính nhân bản thực sự phải có một đặc tính luân lý và phải đưa đến một sự tôn trọng trọn vẹn đối với con người, đồng thời còn phải chú tâm đến thế giới vạn vật nữa.[5]
Trong thời điểm hiện tại, thật cấp bách và cần thiết, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu mời chúng ta cần ý thức trách nhiệm của mình đối với môi trường; tài sản chung của nhân loại. Ngài cho thấy ngôi nhà chung phải được xem như là người chị cần chúng ta để ý, quan tâm. Người chị này đang kêu gào vì sự hủy hoại do chúng ta, vì việc sử dụng vô trách nhiệm và bóc lột các tài nguyên. Vì cứ đinh ninh rằng, chúng ta chính là chủ nhân và sở hữu chủ, nên được quyền tận dụng. Bạo lực nằm trong trái tim bị tội lỗi gây thương tích của con người, xuất hiện rõ ràng qua các hiện tượng bệnh lý, mà chúng ta có thể ghi nhận trong đất đai, trong không khí và nơi các sinh vật.
Vì thế, giữa những người nghèo bị bỏ rơi và bị đối xử tàn tệ nhất, chúng ta sẽ thấy trái đất của chúng ta bị bóc lột và bị tàn phá, “đang rên siết và quằn quại trong cơn sinh nở” (Rm 8, 22). Chúng ta quên rằng, chính chúng ta cũng là tro bụi (St 2, 7). Thân xác của chúng ta cũng được tạo nên từ những yếu tố của vũ trụ; không khí giúp chúng ta thở; nước giúp chúng ta sống và được bồi dưỡng.”[6] Con người có thể khai thác các tài nguyên thiên nhiên để phát triển sự sống, nhưng không được thái quá một cách vô tội vạ. Nếu không, con người tự chuốc họa vào thân, bằng chứng là con người đang lãnh hậu quả từ những khai thác tàn bạo của mình: động đất, sóng thần, thủng tầng ozone, nhiều bệnh nan y lan tràn… Họ đang phá đổ mối tương quan với Đấng Tạo Hóa và với các thụ tạo.
II. Con người đang phá đổ tương quan với Đấng Tạo Hóa và với thế giới tạo thành
Nếu có thể lên tiếng nói, chắc chắc thế giới thiên nhiên sẽ phẫn nộ và kêu lên những rên siết và quằn quại vì cách bóc lột tàn bạo, hành động thờ ơ và vô tâm hủy hoại môi trường của con người từng ngày. Tuy nhiên, dù không lên tiếng nói, trái đất cũng đang phản kháng mạnh mẽ để tố cáo tội ác của con người qua những hiện tượng thiên tai, lũ lụt, hạn hán, cháy rừng, động thực vật diệt chủng, nguồn nước sạch khan hiếm, ô nhiễm không khí, đói nghèo, bệnh tật…
Ngày nay, vô số cá nhân và tập thể từ các môi trường, văn hóa, ngôn ngữ đến các tôn giáo khác nhau đang gióng lên tiếng nói đòi con người phải xem xét lại tương quan của mình đối với công trình của Đấng Tạo Hóa, đối với Mẹ Trái Đất, xem những thảm trạng khôn lường khi con người quay lưng lại với Lòng Thương Xót và công trình tạo dựng của Đấng Tạo Hóa.
1. Thảm trạng của con người quay lưng với Đấng Tạo Hóa và thế giới tạo thành
Chúng ta đang làm ô nhiễm địa cầu, vắt cạn kiệt tài nguyên, tạo nên những bãi rác khổng lồ, xả khí carbon độc hại vào bầu khí quyển, gây hại nguồn nước và không khí, làm thủng tầng ozone. Nguyên nhân sâu xa của những vấn đề ấy có thể là tham vọng của con người muốn thống trị trên sự vật một cách vô điều kiện và khuynh hướng khai thác bệnh hoạn các tài nguyên thiên nhiên.
Có lẽ hơn bao giờ hết, con người mới cảm thấy thật cấp bách và cần thiết để làm mọi cách cứu vãn hành tinh chúng ta đang sống khi không biết được tương lai trái đất sẽ đi về đâu vì từng ngày, từng ngày nó đang biến đổi cách tiêu cực: độ nóng cứ nóng dần toàn cầu, khí thải tăng dần, tình trạng phá rừng ngày càng lan tràn khiến cho thiên tai, hạn hán, lũ lụt diễn ra nhiều nơi trên thế giới, đe dọa cuộc sống và hủy diệt con người một cách tàn nhẫn. Tình trạng ô nhiễm trên không, trên mặt đất và dưới biển cũng đáng báo động. Tầng ozone, xưa nay được mệnh danh là chiếc áo giáp bảo vệ trái đất nay cũng bị thủng vì chất thải công nghiệp, hóa chất, các chất độc từ công nghệ kỹ thuật thải ra. Nhiều loại động vật quý hiếm và cây cối cũng dần dần bị tuyệt chủng vì nạn săn bắt và chặt phá rừng vô tổ chức, vô trách nhiệm. Nhiều loại rác thải từ y tế, công nghệ khoa học kỹ thuật, điện tử, điện lạnh biến trái đất này thành bãi rác khổng lồ, mất vệ sinh, mầm móng của nhiều dịch bệnh, sức khỏe chẳng còn đảm bảo. Con người đang quay lưng lại với chính Đấng Tạo Hóa đã dựng nên mình và muôn loài cho mình hưởng dùng.[7]
Đâu là nguyên nhân đã gây ra những thảm trạng này? Chúng ta có thể liệt kê những nguyên nhân tiêu biểu:
Đánh bắt thủy hải sản quá mức
Các món hải sản ngon miệng được nhiều người yêu thích đang ngày một rút ruột các đại dương. Theo Quỹ Bảo vệ động vật hoang dã thế giới (WWF), nhu cầu về hải sản của con người cao hơn gấp 2,5 lần so với khả năng cung ứng của biển. Các loài hải sản càng được ưa thích thì càng bị đánh bắt cạn kiệt. Các tàu đánh bắt cá hiện đại là thủ phạm chính. Chúng là những nhà máy chế biến hải sản di động, được trang bị các thiết bị dò tìm hiện đại. Khi phát hiện mục tiêu, một tấm lưới khổng lồ có kích thước bằng 3 sân bóng sẽ được thả xuống, tóm gọn cả bầy cá lớn chỉ trong vài phút. Các chuyên gia dự đoán rằng, nếu không có biện pháp can thiệp, nhiều loài hải sản quen thuộc trong thực đơn hàng ngày của con người sẽ biến mất khỏi đại dương trong 40 năm tới.
Những cuộc di dân và những kẻ xâm chiếm
Khi con người di chuyển đến nơi sinh sống mới, họ thường đem theo những con vật hoặc cây cỏ ở quê mình đến trồng ở vùng đất mới. Việc làm này đã vô tình làm xáo trộn quần thể động thực vật bản địa, là một trong những nguyên nhân gây tàn phá môi trường khốc liệt nhất. Những kẻ xâm chiếm mới này sẽ tranh giành môi trường sống và thức ăn, đẩy “dân địa phương” đến bước đường diệt vong. Một ví dụ điển hình là loài chim cưu (sống ở đảo quốc Mauritius nằm phía Tây Nam Ấn Độ Dương), nay đã bị tuyệt chủng do những sinh vật “ngoại lai” như mèo, chuột … được những thủy thủ Châu Âu mang đến đã phá hoại tổ và ăn trứng của chúng.
Các hoạt động khai thác than và khoáng sản
Than đá là nguồn cung cấp năng lượng dồi dào, nhưng kèm theo quá trình sản xuất điện từ than đá là lượng khí thải CO2 khổng lồ đang phá hủy bầu khí quyển. Hậu quả của nó là sự biến đổi khí hậu đang diễn biến phức tạp trên phạm vi toàn cầu. Thêm một vấn nạn của ngành công nghiệp khai thác than là rác thải như đất đá, cây cối bị đào lên trong quá trình khai thác sẽ bị đổ đống xuống các thung lũng lân cận, bóp nghẹt các dòng suối, phá hủy môi trường sống của các sinh vật, làm kiệt quệ dòng nước chảy ra các con sông; thêm vào đó, chất thải công nghiệp bị rửa trôi vào các dòng sông, gây ô nhiễm nghiêm trọng.
Tai họa từ sơ suất của con người
Đôi khi, chỉ một sơ suất nhỏ của con người cũng gây ra hậu quả thảm khốc khó lường. Thảm họa tràn dầu từng làm chấn động nước Mỹ của công ty Exxon Valdez năm 1989, ngoài việc cướp đi kế mưu sinh của hàng chục ngàn ngư dân, còn bức tử hàng triệu sinh vật biển khác ở vùng biển Alaska. Vụ tràn dầu của công ty BP xảy ra ở vịnh Mexico hồi tháng 4/2010 thậm chí gây hậu quả còn nghiêm trọng hơn vụ Exxo, được đánh giá là thảm họa tràn dầu kinh hoàng nhất lịch sử. Cho đến hiện tại, vẫn còn quá sớm để ước lượng mức độ ảnh hưởng cũng như thiệt hại do sự cố này gây ra, nhưng chắc chắn người dân và hệ sinh thái trong khu vực này sẽ chịu thiệt hại hết sức nặng nề.
Phương tiện giao thông
Mỗi năm 1 chiếc xe hơi hoạt động sẽ thải ra khoảng 5,4 tấn CO2 dưới dạng khí thải. Ngoài tác hại lâu dài đến tầng ozone, gây hiệu ứng nhà kính khiến trái đất nóng lên, các loại khí thải này cũng gây tác hại tức thời đến con người thông qua các bệnh về đường hô hấp ngày càng phổ biến. Hơn nữa, ngành công nghiệp khai thác và cung cấp nhiên liệu (xăng dầu) cho các loại phương tiện giao thông hoạt động cũng để lại nhiều hậu quả xấu cho môi trường.
Các hoạt động nông nghiệp không bền vững
Các hoạt động nông nghiệp không an toàn là nguyên chính gây ô nhiễm đất và các nguồn nước. Lấy ví dụ, ở Mỹ, 70% nguồn nước như sông suối bị nhiễm hóa chất do phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật bị rửa trôi từ các cánh đồng. Ngoài ra, ngành công nghiệp chăn nuôi quy mô lớn với hàng trăm ngàn con gia súc đang thải ra một lượng khổng lồ các loại khí thải chưa qua xử lý từ phân của chúng. Các khí này cũng “góp công” trong việc làm trái đất nóng lên.
Nạn phá rừng
Các khu rừng đang bị teo nhỏ hoặc biến mất hàng ngày, đặc biệt là các khu rừng mưa nhiệt đới. Với đà phá rừng như hiện tại, các nhà khoa học ước tính khoảng 100 năm nữa, toàn bộ rừng trên trái đất sẽ biến mất. Mất rừng cũng như mất đi lá phổi; không còn đủ cây xanh để chuyển hấp thụ và chuyển hóa các khí nhà kính. Không còn rừng cũng đồng nghĩa với việc mất đi hàng rào che chắn và bảo vệ, dẫn đến các thảm họa xói mòn và lũ lụt ngày một nghiêm trọng.
Bùng nổ dân số
Các nhà nghiên cứu dân số nói rằng, nếu chúng ta không tự kiềm chế dân số một cách ôn hòa thông qua các chương trình kế hoạch hóa gia đình, thì thiên nhiên sẽ làm giúp việc này nhưng với các biện pháp hết sức tàn khốc như bệnh dịch và đói kém. Chỉ trong vòng 40 năm, dân số thế giới đã tăng từ 3 tỷ lên gần 7 tỷ người. Mỗi năm lại có thêm 75 triệu người – tương đương dân số của nước Đức – được sinh ra trên hành tinh. Ước tính đến năm 2050, dân số trái đất sẽ vượt mốc 9 tỷ người. Dân số tăng đồng nghĩa với nhu cầu về thực phẩm tăng, lượng rác thải cũng theo đó tăng lên. Các ngành công nghiệp hoạt động hết công suất để phục vụ con người. Tài nguyên bị rút cạn, trái đất dần kiệt quệ.
2. Một vài nhận định
Về mặt kinh tế xã hội
Tình trạng ô nhiễm môi trường ở Việt Nam ngày càng trở nên nghiêm trọng, ảnh hưởng không nhỏ đến mọi khía cạnh sinh hoạt đời sống của con người. Chẳng hạn trong những tháng vừa qua, tình trạng cá chết hàng loạt ở các tỉnh ven biển Miền Trung từ Hà Tĩnh vào Thừa Thiên- Huế, hầu hết người dân ở các vùng này đều gắn liền cuộc sống mưu sinh của họ bằng nghề đánh bắt cá, nuôi trồng thủy, hải sản, nhưng giờ nguồn nước biển cũng bị ô nhiễm, họ không còn công việc để làm, kinh tế của gia đình phụ thuộc vào việc đánh bắt hải sản cũng bị đình trệ, nghèo đói gia tăng và bệnh tật có nguy cơ cũng tăng cao.
Mặt khác, quá trình chuyển từ nông thôn sang đô cũng có những ảnh hưởng đáng kể đến môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Vì để mở rộng không gian đô thị, người ta đã chặt bỏ cây cối, làm thu hẹp diện tích cây trồng, diện tích cây lương thực và hoa màu, dẫn đến người dân bị thiếu thốn về lương thực, rau, hoa màu, thảo dược. Nhiều nhà máy, xí nghiệp thải ra nhiều chất thải độc hại, gây nên những căn bệnh ung thư, dị tật, những căn bệnh về đường hô hấp vì nhiễm khói bụi, rác thải… Nhiều phương tiện giao thông bùng nổ, nạn kẹt xe triền miên và gây ra tiếng ồn nghiêm trọng. Ngoài ra việc biến đổi khí hậu cũng đang ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của người dân: thiên tai, bão táp, lượng mưa tăng cao, hạn hán, lũ lụt… đang là vấn nạn gây xáo trộn về đời sống kinh tế của con người không nhỏ.
Về mặt luân lý
Ai trong chúng ta cũng mong muốn quốc gia, quê hương chúng ta ngày càng phát triển về mọi phương diện để sánh vai cùng các cường quốc năm châu, để bắt nhịp cùng với tình hình phát triển trên thế giới, thế nhưng phát triển như thế nào để không gây hại cho môi trường đó là một qui tắc mà chúng ta cần phải tuân thủ nghiêm ngặt. Trách nhiệm bảo vệ môi trường là trách nhiệm chung của mọi người. Thánh Giáo hoàng  Gioan Phaolô II đã nói:
Bảo vệ môi trường là bảo vệ chính mình và bảo vệ anh chị em đồng loại trong tinh thần liên đới. Nói cách khác, để thi hành quyền làm bá chủ do Đấng Tạo Hoá trao phó, con người đừng nghĩ rằng mình có quyền tuyệt đối, nhưng phải chấp nhận tuân theo những qui tắc luân lý.
Hành động hủy hoại môi trường dù là vô tình hay hữu ý, một mặt là tước đoạt quyền trên sự sống của Thiên Chúa, mặc khác còn là một trọng tội vì phạm đến sự sống của anh chị em đồng loại, đặc biệt là những người nghèo hủy hoại cả tương lai của thế hệ con cháu chúng ta.

III. Sự hoán cải sinh thái và trả lại vẻ đẹp ban đầu của công trình tạo dựng
1. Sự hoán cải triệt để
Môi trường có vai trò hết sức quan trọng đối với cuộc sống của con người, không những là không gian sinh sống, cung cấp tài nguyên, chứa đựng rác thải mà còn là nơi quyết định mọi hoạt động sống của con người từ sức khỏe, kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị.
Trong thông điệp Laudato si, Đức Phanxicô đã đặt vấn đề: “Loại thế giới nào chúng ta muốn chuyển lại cho những người đến sau chúng ta, cho các trẻ em đang lớn lên…?” Ngài cũng nối kết tất cả chúng ta với thế giới thiên nhiên này: “Chúng ta là một phần của thiên nhiên, ở trong thiên nhiên và vì thế thường xuyên tương tác với thiên nhiên.”[8] Ngài đã dùng những lời phê phán mạnh mẽ nhất cho những người giàu không quan tâm đến vấn đề biến đổi khí hậu, và nhất là ảnh hưởng của nó đối với người nghèo. “Nhiều người trong số những người sở hữu nhiều tài nguyên hơn dường như quan tâm chủ yếu đến việc che đậy các vấn đề hay giấu giếm các triệu chứng của các vấn đề ấy...”[9]
Đức Giáo Hoàng đặt câu hỏi tại sao có quá nhiều người giàu ngoảnh mặt với người nghèo? Không chỉ vì “một số người tự xem mình là xứng đáng hơn hơn những người khác”, nhưng vì thông thường những người ra quyết định lại “sống cách biệt với người nghèo”, không gặp gỡ thực sự anh chị em mình.[10] Ích kỷ cũng dẫn đến sự “bốc hơi” các khái niệm về công ích. Điều này không đơn giản chỉ ảnh hưởng đến những người ở các nước đang phát triển, mà còn ở ngay trong các thành phố của các nước phát triển, nơi mà ngài kêu gọi thực hiện điều có thể đặt tên là một “nền sinh thái của đô thị”. Trong thế giới của Laudato Si’ không có chỗ cho thói ích kỷ hay dửng dưng. Chúng ta không thể chăm sóc thiên nhiên “nếu cõi lòng chúng ta thiếu sự nhân hậu, lòng thương xót và quan tâm đến người đồng loại của chúng ta.”[11] Đức Thánh Cha Phanxicô cũng mạnh mẽ khẳng định: “Con người đã tàn phá công trình sáng tạo của Thiên Chúa với nhiều hình thức…” và “mọi tội lỗi chống lại tự nhiên cũng là tội lỗi chống lại chính chúng ta và là một tội lỗi chống lại Thiên Chúa”.[12] Do đó, “khi áp dụng các thành quả khoa học và kỹ thuật vào việc phát triển thiên nhiên, cần phải tham chiếu với nguyên tắc quan trọng này, đó là thái độ kính trọng con người, đi kèm với lòng tôn trọng tất cả các sinh vật khác…”[13] Bởi đó, cần hoán cải triệt để hầu trả lại cho thiên nhiên những nét đẹp, ổn định mà nó đã có thuở ban đầu.
2. Lối suy nghĩ mới và lối sống mới
Dù làm gì đi nữa, con người vẫn là đối tượng cần được bảo vệ để tránh khỏi sự tự hoại. Muốn làm được điều đó, nhân loại cần chấm dứt việc tôn thờ tiền bạc và đưa con người trở lại đúng phẩm giá con người. Trong tinh thần đó, con người cần xác tín việc bảo vệ môi trường chẳng những là trách nhiệm pháp lý theo nguyên tắc công ích xã hội, mà còn là một ràng buộc lương tri vì đó là lẽ sống còn của cộng đồng nhân loại. Để đi vào linh đạo môi sinh, chắc hẳn phải có sự can dự của tất cả các lãnh vực giáo dục, trước tiên là “trường học, gia đình, các phương tiện truyền thông, việc huấn giáo”[14]
Ta không thể coi nhẹ tầm quan trọng của hành trình giáo dục về môi sinh có khả năng ảnh hưởng tới những cử chỉ và thói quen thường nhật, từ sự giảm bớt tiêu thụ nước, cho đến việc thu lượm rác theo các loại khác nhau, “tắt những đèn điện vô ích” (số 211): Một môi sinh học toàn diện được thực hiện kể cả bằng những cử chỉ đơn sơ thường nhật trong đó chúng ta phá vỡ lý lẽ bạo lực, khai thác bóc lột, ích kỷ.”[15]
Chúng ta không chỉ cố gắng khắc phục sửa chữa những sai lầm mà chúng ta đã gây ra cho thiên nhiên mà chúng ta còn phải có bổn phận tích cực tìm mọi giải pháp chỉ cần đơn giản thôi miễn là có thể đóng góp vào việc chăm sóc và bảo vệ môi trường.
Nhặt rác: hãy bỏ rác đúng nơi qui định, không bạ đâu vứt đó. Rác thải nên phân loại và tìm cách tái chế để có thể sử dụng cho những công việc cần thiết.
Trồng cây: cây cối có nhiệm vụ thanh lọc không khí trong lành cho chúng ta hít thở, tạo cảnh quang thiên nhiên đẹp đồng thời có nhiệm vụ giữ đất không bị xói mòn, lũ lụt. Cần tận dụng những vùng đất bỏ hoang để trồng cây nhằm giúp cho hệ sinh thái phát triển.
Hưởng ứng các chương trình tiết kiệm năng lượng: hằng năm có chương trình giờ trái đất để nhằm tiết kiệm nguồn năng lượng, cần tích cực hưởng ứng và phổ biến cho những người xung quanh hiểu rõ và đồng hưởng ứng.
Tiết kiệm nước: nước cần thiết cho sinh hoạt của con người nhưng nếu sử dụng cách lãng phí, nguồn nước sạch cũng cạn kiệt. Hãy sử dụng nước khi cần thiết và tiết kiệm tối đa để tránh tình trạng thiếu nước cho nhu cầu sinh sống của mình và tập thể. 
Chúng ta có những mẫu gương tuyệt vời về việc sống hài hòa, tôn trọng các thụ tạo như thánh Phanxicô Assisi, ngài là “mẫu gương tuyệt hảo về sự chăm sóc những gì là yếu đuối và một nền môi sinh toàn diện, được sống trong vui mừng”, mẫu gương về sự “không thể tách biệt nhau giữa mối quan tâm đối với thiên nhiên, công bằng đối với người nghèo, dấn thân trong xã hội và hòa bình nội tâm.[16] Còn những mẫu giương khác nữa như thánh Biển Đức, thánh Têrêsa thành Lisieux, chân phước Charles de Foucauld… Bổn phận của mỗi chúng ta là dấn thân cách tích cực để bảo vệ ngôi nhà chung nhân loại được bình an, nhằm mang lại hạnh phúc cho con người, để qua đó Lòng Thương Xót của Thiên Chúa cũng được mọi người nhận ra nơi cách sống hài hòa, yêu thương, vị tha, quảng đại của mỗi chúng ta. 
Tạm kết
Thật đau buồn khi con người ngày nay chưa ý thức bảo vệ môi trường. Điều này có thể là do tập quán, thói quen, quan niệm đã ăn sâu từ rất lâu trong tâm thức; chính vì thế, chúng ta thường hành xử với môi trường theo kiểu “cha chung không ai khóc”. Giáo hội Công giáo bao nhiêu năm qua đã cho thấy vấn đề môi trường là vấn đề sống còn. Giáo hội giáo dục con cái của mình và mời gọi mọi người hãy thay đổi quan niệm và lối sống, chung tay góp sức để biến trái đất mình đang sống thành ngôi nhà tràn đầy niềm vui, tiếng cười, cuộc sống ấm no, yên bình thay cho những vất vả, đau khổ vì đói nghèo, bệnh tật, chiến tranh, tai nạn, ô nhiễm... Đó quả là một vấn nạn không đơn giản có thể giải quyết một sớm một chiều và cũng không thể khoanh tay đứng nhìn môi trường chúng ta đang dần dần bị hủy hoại. Mỗi người hãy làm cái gì đó để làm cho thế giới này ngày thêm tươi đẹp hơn, một đóng góp cho thiện ích của toàn nhân loại.



[1] Thánh GH Gioan Phaolô II, Thông điệp Đệ Bách Chu Niên, số 31.
[2] CĐ Vat. II, Hiến Chế Vui mừng và Hy vọng, số 2b.
[3] CĐ Vat. II, Hiến Chế Vui mừng và Hy vọng, số 34.
[4] Kinh nguyện Thánh Thể IV
[5] Xc. ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si, số 5.
[6] Xc. Ibid., số 2.
[7] Xc. http://khoahoc.tv/con-nguoi-dang-tu-huy-diet-nhu-the-nao-30247
[8] ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si, số 139.
[9] Ibid., số 26.
[10] Xc. ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si, các số 49, 90.
[11] ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si, số 91.
[12] ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si, số 8.
[13] CĐ. Vatican II, Học thuyết xã hội của Giáo Hội, số 459.
[14] ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si, số 213.
[15] ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si, số 230.
[16] ĐGH Phanxicô, Thông điệp Laudato Si, số 10.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn