Ly hôn làm cho gia đình ra tan nát.
Điều này trực tiếp làm mất đi sứ mệnh rất cao quý
của gia đình trong xã hội, đó chính là bổn phận
và được mời gọi lãnh nhận trách nhiệm về phần mình
trong việc xây dựng một xã hội nhân bản hơn.
Điều này trực tiếp làm mất đi sứ mệnh rất cao quý
của gia đình trong xã hội, đó chính là bổn phận
và được mời gọi lãnh nhận trách nhiệm về phần mình
trong việc xây dựng một xã hội nhân bản hơn.
Ts. Gioan Nguyễn Hùng Bạo,
Dòng Đức Maria Mẹ Hy Vọng
Dòng Đức Maria Mẹ Hy Vọng
Nhìn dưới lăng kính của đức tin,
hôn nhân là một điều huyền nhiệm. Quả vậy, trong tình yêu hôn nhân này, ban đầu
người nam và người nữ không có bất kỳ một mối liên hệ nào, hoàn toàn xa lạ. Sau
đó, theo năm tháng, họ đã quen biết nhau, đem lòng thương mến nhau. Cuối cùng,
họ quyết định nắm tay nhau và cùng nhau xây dựng tổ ấm cho riêng mình, cả hai
“chiếm lấy nhau trong sự thắm thiết của tình yêu, nghĩa là chiếm lấy cách
thiêng liêng”[1].
Mặc dù là tổ ấm riêng của họ nhưng nó lại hòa quyện trong dòng chảy của nhân
loại và cùng tương quan với muôn vàn tổ ấm khác để cùng xây dựng một xã hội
sống trong thanh bình và hạnh phúc. Đối với các Kitô hữu, hôn nhân không phải
là chuyện riêng tư của hai người, mà cần nhận thức rằng hôn nhân này là của
Chúa. Bởi lẽ, chính Thiên Chúa đã tác tạo hôn nhân. Thiên Chúa đã thiết định
đời sống hôn nhân ngay từ thuở ban đầu. Nên,
hôn nhân vừa là một “ơn gọi” vừa là một sứ mệnh mà Thiên Chúa đã trao cho.
Hôn nhân là thế, nhưng chúng ta
lại thấy có rất nhiều cung bậc khác nhau. Vì thế mới có vấn đề ly hôn xảy ra
trong cộng đồng nhân loại ở khắp năm châu. Và trong khả năng còn hạn chế của
bản thân, người viết chỉ trình bày một khía cạnh nhỏ của hôn nhân, đó là: LY HÔN
LÀ SỰ PHẢN BỘI TRONG HÔN NHÂN CÔNG GIÁO.
I. TÌNH TRẠNG LY HÔN TRONG XÃ HỘI VIỆT NAM
HÔM NAY
1. Khái niệm về ly hôn
1.1. Ly hôn là gì ?
Theo từ điển tiếng Việt: ly hôn
hay ly dị, có ý nghĩa giống nhau, nghĩa là hai vợ chồng bỏ nhau cách hợp pháp,
theo quyết định của tòa án.[2] Ly hôn là tòa án xã hội
công bố hủy bỏ khế ước hôn nhân mà hai người đã thực hiện, khiến hai người
không còn bị ràng buộc về mặt pháp lý để có thể tự do kết hôn.[3] Còn theo từ điển luân lý
Kitô giáo, “ly hôn là một hành vi tự cắt đứt một hôn phối đã thành sự”.[4] Công Đồng Vaticano II gọi
ly hôn là căn bệnh của thời đại (Mv số 47) và chống lại tình yêu đích thực (Mv
số 49).
Sách giáo lý Công giáo trình
bày về ly hôn như sau:
Chúa Giêsu đã nhấn mạnh về ý định nguyên thủy của
Đấng Tạo Hóa. Ngài đã muốn nói rằng hôn nhân là bất khả phân ly. Người bãi bỏ
những nhân nhượng đã được xen vào trong luật cũ. Giữa những người đã được rửa
tội, hôn nhân thành nhận và hoàn hợp không thể được tháo gỡ do bất cứ quyền
bính nhân loại nào, và vì bất cứ lý do nào, trừ lý do tử vong.
1.2. Tỷ
lệ ly hôn tại Việt Nam
Con người
ngày nay đề cao tự do cá nhân, tự do trong mọi lĩnh vực, trong đó có tự do kết hôn và tự do ly hôn.
Ngày xưa, cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, hôn nhân của con cái hoàn toàn phụ thuộc vào cha mẹ. Nhưng ngày nay, giới
trẻ có nhiều tự do, ngay cả tự do trong việc lựa chọn bạn đời của mình.
Nhưng tự do luôn đi đôi với trách nhiệm, đề cao tự do cá nhân cũng đồng nghĩa
với việc gia tăng trách nhiệm cá nhân. So với thời ông bà ngày xưa, thì ngày
nay giới trẻ bước vào đời sống hôn nhân có phần muộn hơn. Trong cái nhìn tích
cực thì điều ấy nói lên sự trưởng thành chín chắn trong việc lựa chọn của họ.
Tuy nhiên, người trẻ hôm nay cũng gặp không ít khó khăn trong đời sống hôn nhân
và gia đình, do ảnh hưởng của trào lưu hiện đại là coi nhẹ đời sống hôn nhân
gia đình.
Tại Việt Nam, trong quá trình
chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường, cùng lúc kéo
theo những biến đổi trong văn hóa, đạo đức xã hội, làm giá trị đạo đức truyền
thống trong mỗi gia đình cũng đang dần bị phá vỡ, tình trạng ly thân, ly hôn
gần đây có xu hướng năm sau cao hơn năm trước, đặc biệt trong các gia đình trẻ.[5] Theo những cuộc điều tra
nghiên cứu mới đây, tình trạng ly hôn ở các nước Châu Á trong đó có Việt Nam có
xu hướng tăng mạnh. PGS. TS Nguyễn Hữu Minh- Viện trưởng Viện Nghiên cứu gia
đình và giới (Viện Khoa học xã hội VN) cho biết
gần đây có trên 60.000 vụ ly hôn/năm ở VN và xu hướng này đang tiếp tục
tăng.[6]
Theo thống
kê từ năm 1975 trở
về trước, con số ly hôn rất thấp, hầu như không đáng kể, chỉ trừ những trường
hợp thật đặc biệt, thật hiếm họa, người ta mới đi đến chỗ ly hôn. Nhưng từ sau
năm 1975 đến 1984, riêng ở Sài Gòn: 4 triệu
dân, có 4.283 vụ ly hôn, trung bình mỗi năm không đến 1.000 vụ. Từ năm 1985 trở
về đây, mức độ gia tăng nhảy vọt. Cụ thể
năm 1980-1985, toàn quốc có 20 ngàn vụ ly hôn, riêng năm 1985, toàn quốc
có tới 27 ngàn vụ. Vào năm 1987 trở về sau một năm thì con số mới nhảy
vọt, năm 1986 có 5.200 vụ, năm 1987 có trên 6.000 vụ… Còn ở Hà Nội trung bình
hằng năm có 20 ngàn vụ kết hôn, thì xảy ra 4.500 vụ ly hôn tỷ lệ 25% đặc biệt
là số ly hôn ở vợ chồng trẻ chiếm 70% tổng số.[7]
Nhìn chung, chúng ta thấy rằng
tỷ lệ ly hôn cứ tăng cao theo xu hướng năm sau cao hơn năm trước. Tại sao vậy?
2. Những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ly hôn
2.1. Nguyên nhân từ chính bản thân
Chủ nghĩa hưởng thụ
“Lòng tham vô đáy”, con người
không bao giờ cảm thấy bằng lòng với những gì hiện tại đang có. Được voi thì
đòi tiên, thỏa mãn nhu cầu này thì lại nảy sinh nhu cầu khác, con người luôn có
ước mong được sở hữu, được làm chủ mọi thứ. Chủ nghĩa hưởng thụ ảnh hưởng hầu
hết đến mọi người. Nó đã lún sâu vào tiềm thức đến nỗi con người khó có thể
nhận ra. Không phải chỉ có xã hội bây giờ mà ngay từ thời tổ tiên loài người là
Ađam và Evà chúng ta đã nghe biết sự xuất hiện của chủ nghĩa hưởng thụ. Thiên
Chúa ban cho quyền “làm bá chủ”. Nhưng con người không biết dừng lại, đã đi
lệch hướng và làm theo ý muốn của mình. Con người đã nghe theo lời ma quỷ và
quyết tâm « thưởng thức » cho được bằng trái cây giữa vườn.
Chủ nghĩa hưởng thụ luôn đi
theo dòng lịch sử của loài người. Vào thời Đức Giêsu, Tin Mừng thánh Luca kể
lại dụ ngôn ông nhà giàu và anh Ladarô nghèo khó. Trong dụ ngôn này, Chúa đã
quở trách lối sống hưởng thụ của ông nhà giàu. Chúng ta tự hỏi tại sao Chúa lại
quở ông ta. Ông làm ra, ông có quyền hưởng dùng công lao của mình chứ ? Điều
đáng trách ở đây là ông chỉ biết hưởng thụ mà quên đi tình liên đới và trách
nhiệm đối với đồng loại là anh Ladarô nghèo khổ ở trước cửa nhà mình. Bởi vì
của cải Chúa ban là dành cho tất cả mọi người, chứ không riêng cho một người.
Do đó, mọi người phải biết chia sẻ và quan tâm đến nhau.
Ngày nay khoa học kỹ thuật phát
triển, nền kinh tế được nâng cao là cơ hội cho chủ nghĩa hưởng thụ lấn chiếm
lòng dạ con người, càng có của cải con người càng bị lấn sâu vào sự hưởng thụ.
Chủ nghĩa này nó làm xói mòn tinh xảo đức hạnh con người. Người sống theo chủ
nghĩa này luôn coi tất cả mọi thứ vật chất như là một phần không thể thiếu của
cuộc sống đời thường. Nếu nó chỉ đơn giản là thế thì tại sao coi hưởng thụ là
điều sai trái được? Người sống theo chủ nghĩa hưởng thụ thì tương đồng với việc
coi mình như là trung tâm của thế giới, tự cao, tự phụ, cùng với những mong
muốn ích kỷ, chỉ biết tìm thỏa mãn nhu cầu của mình mà quên đi đồng loại mà
mình có trách nhiệm liên đới.
Dưới cái nhìn của Giáo huấn xã
hội: lợi nhuận tự nó không những không xấu mà còn cần thiết cho việc phát triển
doanh nghiệp. Nhưng chủ trương lợi nhuận vì lợi nhuận hay phát triển vì phát triển,
mà lãng quên hoặc đánh mất phẩm giá con người lại là chuyện khác.[8]
Chủ nghĩa cá nhân
John Donne là nhà thơ của nước
Anh đã nói: “Con người không ai là một hòn đảo.”[9] Khi nói rằng con người là
một cá nhân, thì chúng ta không thấy được ý nghĩa của liên đới hay cộng đồng,
mà chỉ thấy những con người riêng rẽ, cô độc và co cụm. Con người là một nhân
vị có mối liên hệ chặt chẽ với các nhân vị khác. Liên đới nói lên vận mệnh của
mình gắn liền với vận mệnh của tha nhân. Con người cần tình yêu, cần được nhìn
nhận và tôn trọng, điều đó chỉ có thể do người khác và với người khác. Thật
vậy, Đức Giêsu đã thấy rõ tính ích kỷ của con người. Vì thế, Ngài mới dạy rằng:
“Những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho
người ta.” Thánh Phaolô cũng ý thức được điều này nên ngài khuyên các tín hữu
thành Corintô rằng: “Đừng ai tìm ích lợi cho riêng mình, nhưng hãy tìm ích lợi
cho người khác.”
Chủ nghĩa cá nhân là mẹ đẻ của
các tính xấu. Người sống theo chủ nghĩa này thì bất chấp tất cả. Họ không chấp
nhận hy sinh lợi ích cá nhân cho một tập thể hay một xã hội nào cao hơn. Quả thật họ sống đúng với câu nói của
Nietzche, là ông tổ triết gia hiện sinh vô thần rằng: “Bạn làm những gì mình cho là có lý, bất chấp
tất cả, bất chấp tình nghĩa, bất chấp xã hội và bất chấp luôn cả Thiên Chúa ( …
) vì ‘Thượng Đế đã chết’”.[10] Theo đó, chủ nghĩa này để
lại nhiều hậu quả tai hại cho xã hội và đặc biệt là cho đời sống gia đình.
Trong gia đình mà một trong hai người phối ngẫu sống theo chủ nghĩa cá nhân thì
hậu quả đưa tới là tan rã hạnh phúc hôn nhân thì không thể tránh được. Vì đời
sống hôn nhân đòi hỏi phải có lòng yêu thương, sống cùng nhau với nhau và cho
nhau, cùng nhau tìm và xây đắp hạnh phúc, cùng hưởng cùng chịu mọi biến cố
trong cuộc sống, như đôi bạn trẻ Công giáo trong ngày trọng đại của mình đã
“kết ước” trước mặt vị chứng hôn… và trước mặt hai nhân chứng và theo các quy
tắc cần thiết như đã được luật của Giáo hội ấn định mà hai người cùng trao cho
nhau: khi mạnh khỏe cũng như lúc gian nan vẫn yêu thương và tôn trọng nhau suốt
đời.
2.2. Nguyên nhân tác động từ gia đình
Bạo hành trong gia đình
Bạo hành là hành động bạo lực
của người chồng hay người vợ, nạn nhân là một trong hai người hay con cái, hành
động bạo lực của chồng trên vợ con, hoặc vợ trên chồng con, cũng có thể là bạo
lực của con cái trên cha mẹ nhưng phần nhiều là từ người cha trong gia đình.
Bạo hành còn diễn ra nhiều hình thức khác nhau nữa như là:
Bạo hành về mặt thể xác là hành
động bạo hành sử dụng vũ lực, gồm đánh đập, gây thương tích, thiêu sống... gây
ra thương tích cho đối tượng và có thể dẫn đến tử vong. Một dạng phổ biến của
bạo hành thể xác đó là tạt axít, gây ra những vết bỏng trên cơ thể nạn nhân,
thậm chí có thể dẫn tới mù nếu nạn nhân bị tạt vào mắt. Ngoài ra, bạo hành thể xác
ở dạng nhẹ hơn có thể là làm cho nạn nhân thiếu ngủ, thiếu các nhu cầu sinh
hoạt tối thiểu khác.[11]
Bạo lực tinh thần còn được gọi
là bạo lực tình cảm/ tâm lý. Nạn nhân phải chịu các kiểu hành hạ như chửi mắng,
hạ nhục với những lời lẽ thô thiển, nặng nề xâm phạm đến nhân phẩm và danh dự.
Không những thế, bạo lực tinh thần nhiều khi còn tồn tại dưới nhiều dạng như đe
dọa tinh thần, khủng bố tâm lý... gây nên sự phẫn uất, khủng hoảng ý thức và
tâm sinh lý phụ nữ. Điều lưu ý là các hình thức bạo lực tinh thần dưới dạng
“chiến tranh lạnh”- một kiểu hành hạ bằng tình cảm - nghĩa là người chồng tỏ ra
thờ ơ, lạnh nhạt, vô trách nhiệm đối với người vợ, thậm chí đem so sánh với
người phụ nữ khác,... Loại hình này khó phát hiện và diễn ra lặng lẽ, không có
đánh đập, xô xát hay chửi bới sỉ nhục ầm ĩ nên không gây được sự chú ý của
nhiều người.
Con số chung cho tỷ lệ bị bạo
lực tinh thần đối với phụ nữ do chồng gây ra tại Việt Nam là 53,6% trong cuộc
đời, trong đó nông thôn cao hơn thành thị (56,2% so với 47,2%). Tỷ lệ bị bạo
lực tinh thần trong đời do chồng gây ra dao động từ 42,4% tại Bắc Trung bộ, 52%
tại Trung du và miền núi phía Bắc và duyên hải miền Trung, tới 70,1% tại Vùng
Tây Nguyên. Tỷ lệ của bạo lực tinh thần hiện tại của Việt Nam là 25,4% (nông
thôn là 27,5% và 20,4% tại thành thị). Nó dao động từ 22% tại vùng đồng bằng
sông Hồng, 26,1% tại Trung du và miền núi phía Bắc đến 32,6% tại vùng Tây
Nguyên.[12]
Bạo lực tình dục được phân chia
thành nhiều nhóm nhỏ. Nếu người chồng chỉ đơn thuần cưỡng ép, đòi người vợ quan
hệ tình dục thì được xếp tạm vô nhóm “người bình thường”, chủ yếu do nhu cầu
sinh lý. Tuy vậy, cũng có những người bạo hành tình dục do mắc một số bệnh như:
rối loạn nhân cách, lo âu, trầm cảm, hoang tưởng, rối loạn khí sắc, tâm thần
phân liệt… Trong trường hợp này, người chồng thường hoang tưởng, ghen tuông,
nghi ngờ lòng chung thủy của vợ nên bắt vợ phải quan hệ thường xuyên để thể
hiện bản lĩnh. Nhóm nữa là những người thật sự mắc bệnh bạo dâm. Để cảm thấy
thỏa mãn, trong lúc quan hệ họ thường đánh đập, làm tổn thương, chửi mắng, la
bới, nhục mạ vợ ... mới cảm thấy vui.[13]
Thế còn bạo hành mà quý bà vợ
áp đặt trên ông xã thì sao? Đã có nhiều trường hợp người đàn ông bị vợ ức hiếp,
đôi khi đánh đập khá tàn nhẫn. Người đàn bà thường không dùng khí giới mà xé
quần áo, đập phá đồ quý riêng của chồng, tiêu hủy hình ảnh kỷ niệm, la hét xỉ
vả hoặc hành hạ tâm thần một cách đớn đau như cảnh Thúc Sinh chứng kiến Kiều bị
Hoạn Thư hành hạ. Họ sẽ dùng sức mạnh khi có cơ hội như trường hợp một phụ nữ
cách đây mấy năm cắt đứt của quý của đức lang quân.
Những trường hợp bạo hành ngược
này ít được công luận biết vì người đàn ông không dám nói ra sợ bị nhạo báng,
xấu hổ mà cũng vì ít người tin là có thật. Thân nam nhi mà bị vợ hành thì đâu
dám đi khoe hoặc trình cớ cò bót. Và bạo hành tiếp tục xảy ra với đàn ông là
nạn nhân và đàn bà chủ động.
Một chuyên gia về vấn đề khó
khăn trong gia đình, bà Patricia Pearson, tác giả cuốn sách “When she was bad: Violent women and the Myth
of Innocence”, cho hay là đàn bà cũng có thể trở nên vũ phu bạo lực chứ
không phải chỉ riêng đàn ông.[14]
Người ta thường nói: “Khi yêu
củ ấu cũng tròn, ghét nhau thì quả bồ hòn cũng méo”. Trước những tật xấu của vợ
hay chồng, nếu không có tình yêu thương thông cảm cho nhau, mà chỉ nhìn nhau
với một mặt tiêu cực thì chắc chắn việc xảy ra là bạo hành gia đình là rất cao.
Mỗi khi tình yêu đã ra phai nhạt, người ta dễ dàng lạm dụng những yếu đuối của
nhau. Người lạm dụng có thể là chồng, người tình, người chồng cũ. Trong thâm
tâm họ, nhiều lý do hoặc chính đáng hoặc ngụy tạo để bào chữa cho hành động của
mình. Đồng thời cũng có những hoàn cảnh, những xáo trộn trong cuộc sống đưa đẩy
khiến họ bạo hành.[15]
Thiếu lòng chung thủy trong hôn
nhân
Sự chung thủy đóng vai trò quan
trọng và cần thiết trong đời sống gia đình. Nó như là sợ dây vô hình nối kết
tình yêu và hạnh cho đôi bạn trong đời sống hôn nhân. Mỗi khi sợi dây ấy bị cắt
đứt thì tình yêu và hạnh phúc cũng tan vỡ. Vậy nguyên do nào mà tình yêu và
lòng chung thủy bị cắt đứt ? Có nhiều lý do làm đứt sợi dây vô hình của tình
yêu và lòng chung thủy. Thiếu lòng chung thủy trong hôn nhân cũng thường xảy ra
nơi các vợ chồng sống thiếu hòa hợp với nhau trong tình cảm và tình dục, thiếu
tôn trọng nhau, công việc làm ăn không được ổn định, nói nhiều…
Ngoại tình: ngày xưa, người phụ
nữ luôn coi trọng danh dự, nhân phẩm của mình bằng sự thủy chung son sắt, họ
coi việc vụng trộm tình ái là hành vi xấu xa, phản bội và thiếu đạo đức. Nhưng
ngày nay, quan niệm “ông ăn chả, bà ăn nem” trở thành mốt trong một số gia
đình. Thực tế đã có không ít gia đình vợ chồng thích tìm “của lạ”. Nhất là
trường hợp người chồng đi làm ăn xa nhà lâu ngày khi gặp đối tượng cùng cảnh
ngộ dễ xiêu lòng đi theo tiếng gọi của ái tình nên đành lòng xin ly hôn.[16]
Do điều kiện kinh tế gia
đình: các cặp vợ chồng sau khi lập gia
đình phải tự lo cho mái ấm của mình, điều kiện kinh tế chưa đảm bảo cho cuộc
sống riêng hoặc chưa có nghề nghiệp ổn định cùng với đó là sinh con sớm, nên
kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn. Nỗi khốn khó đeo bám triền miên khiến vợ
chồng sinh ra mâu thuẫn không thể tháo gỡ và kết cục là xin ly hôn. Nhiều gia
đình vợ chồng có nghề nghiệp ổn định, điều kiện kinh tế khá giả, nhưng do mải
theo làm ăn kinh tế, thiếu quan tâm đến tình cảm vợ chồng, dần phai nhạt rồi
xảy ra “chiến tranh lạnh”, có trường hợp khi người chồng có địa vị và chỗ đứng
trong xã hội, hoặc có điều kiện kiếm ra tiền và tự cho mình “cái quyền” làm gì
tùy thích theo thú vui của riêng mình thiếu quan tâm đến gia đình, vợ con.
Người vợ ở nhà thiếu thốn tình cảm, vợ chồng sinh ra nghi kỵ ghen tuông và vợ
chồng phát sinh mâu thuẫn dẫn đến ly hôn.[17] Nghiên cứu quốc gia về
gia đình mới nhất cho thấy nguyên nhân kinh tế là (13%).[18]
Tranh cãi quá nhiều: 56% những
người ly hôn tham gia cuộc khảo sát nói rằng tranh cãi quá nhiều là lý do dẫn
đến sự tan rã của họ.[19]
Ít thời gian dành cho nhau:
thời gian là điều khan hiếm nhất trong thời buổi xã hội công nghiệp hóa hiện
đại hóa ngày nay. Cả hai vợ chồng đều luôn bận rộn và hầu như không thể tìm ra
thời gian rảnh rỗi dành cho nhau. Họ quan tâm tới công việc và việc làm thế nào
để kiếm tiền hơn là quan tâm tới gia đình và hạnh phúc của chính họ. Tuy nhiên,
thực tế thì các cặp vợ chồng cần dành thời gian cho hôn nhân của mình. Đừng để
công việc sai khiến và kiểm soát cuộc sống của bạn. Chỉ có như thế thì bạn mới
tránh được tình trạng nhà vắng, bếp lạnh sau giờ làm việc.[20]
II. QUAN NIỆM KITÔ GIÁO VỀ HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
1. Hôn nhân trong chương trình của Thiên Chúa
1.1. Hôn nhân là sự kết hợp giữa người nam
và người nữ
Gia đình đặt nền tảng trên sự
lựa chọn tự do của hai vợ chồng muốn kết hợp với nhau trong hôn nhân, đồng thời
trên sự tôn trọng ý nghĩa và các giá trị của định chế này, một định chế không
tùy thuộc con người mà tùy thuộc Thiên Chúa. Vì lợi ích của vợ chồng và con
cái, cũng như lợi ích của xã hội, dây liên kết linh thiêng này không còn thuộc
một mình quyết định của con người nữa. Chính Thiên Chúa là tác giả của cuộc hôn
nhân; Ngài đã ban cho hôn nhân những ơn ích và mục tiêu khác nhau. Bởi đó, định
chế hôn nhân tức là sự cộng tác thân mật trong sự sống và tình yêu ... do Đấng
Tạo Hóa thiết lập và đã được Ngài ấn định cho những quy luật riêng, không phải
là kết quả của những thỏa thuận giữa con người với nhau. Cũng không phải quyết
định của pháp lý, nhưng là do quyết định của Thiên Chúa. Đó là một định chế
được khai sinh kể cả trước mặt xã hội, do một hành vi nhân linh, qua đó hai bên
trao phó bản thân mình cho nhau, và được xây dựng dựa trên chính bản tính của
tình yêu vợ chồng, một tình yêu được xem như sự trao tặng và độc quyền mà người
này dành cho người kia, khiến hai bên dứt khoát hiến thân cho nhau, và điều này
biểu lộ qua việc hai bên bày tỏ sự ưng thuận với nhau cách công khai và không
thể rút lại. Việc dấn thân ấy muốn nói lên rằng mọi mối quan hệ giữa hai thành
phần trong gia đình đều in đậm ý thức công lý và từ đó, cũng in đậm sự tôn
trọng quyền lợi và nghĩa vụ của nhau.[21]
Cũng đồng quan điểm trên khi
GLHTCG dạy rằng:
Cặp vợ chồng làm thành một cộng đồng thân mật để
sống và yêu thương nhau, một cộng đồng do Đấng Tạo Hóa thành lập và ban cho
những luật lệ riêng của mình. Cộng đồng này được thiết lập trên giao ước của
hai người phối ngẫu, nghĩa là trên sự ưng thuận của bản thân và không thể rút
lại của họ. Hai người hiến thân cho nhau cách trọn vẹn và dứt khoát. Họ không
còn là hai, nhưng từ nay chỉ làm thành một xương một thịt thôi. Giao ước mà hai
người đã tự do ký kết với nhau buộc họ có nghĩa vụ phải duy trì chặt chẽ và
không thể tháo gỡ. “Điều gì Thiên Chúa đã kết hợp con người không được phân ly” (Mc 10,9).[22]
Trong hôn nhân người nam cũng
như người nữ phục vụ và giúp đỡ lẫn nhau, bằng sự kết hợp mật thiết trong con
người và hành động của họ, cảm nghiệm và hiểu biết sự hiệp nhất với nhau mỗi
ngày mỗi đầy đủ hơn. Sự kết hợp mật thiết cũng như là sự tự hiến của hai người
cho nhau, cũng như lợi ích của con cái buộc vợ chồng phải trung tín và kết hợp
với nhau bất khả phân ly (X. Gaudium et
Spes số 48). Do vậy, trong chương trình của Thiên Chúa, hôn nhân là một sự
kết hợp vĩnh viễn. Bởi đây không chỉ là tình cảm, hay tình yêu mà hai người tự
nguyện cam kết và trao hiến trọn vẹn cho nhau mà trước hết với cả Thiên Chúa
nữa. Không những họ phải chung thủy với nhau cho đến trọn đời, mà còn phải
chung thủy với Thiên Chúa nữa.
1.2. Hôn nhân là cộng tác vào công trình tạo dựng của Thiên Chúa
Trong chương trình của Thiên
Chúa, con người nhận lãnh ân sủng của Thiên Chúa. Nhờ ân sủng đó mà hai người
sống kết hợp với nhau và hưởng hạnh phúc của Thiên Chúa cũng như hạnh phúc của
hai người trao cho nhau. Hôn nhân là biểu tượng của sự sống qua việc sinh con
cái, nhờ đó mà được cộng tác vào chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Sự trung
thành trong hôn nhân mang lại cho con người giá trị nhân bản, giá trị đạo đức
và giá trị thiêng liêng. Bởi vì: “Bí tích hôn nhân làm cho người nam và người
nữ dự phần vào sự chung thủy của Chúa Kitô với Giáo hội của Ngài. Bằng sự khiết
tịnh phu phụ họ làm chứng cho mầu nhiệm này trước mặt thế giới” (GlCG số 2356).
Người nam và người quyết định
đi tới việc ký kết giao ước với nhau, để cả hai sẽ thuộc về nhau mãi mãi trong
đời sống hôn nhân. Vì thế đây là: bậc sống được gọi là thánh thiện và đồng thời
là một ơn gọi cao cả Thiên Chúa ban. Điều này có được là nhờ Đức Giêsu Kitô.
Người nhắc nhở cho biết phẩm giá của con người, của tình yêu. Người thánh hóa
hôn nhân và đem đến cho hôn nhân vẻ đẹp tôn quý.[23]
Người nam cũng như người nữ,
được Thiên Chúa dựng nên có hồn có xác. Vì thế, tình yêu hôn nhân là sự kết hợp
cao quý tinh thần và thể chất của hai người. Cho nên khả năng yêu thương và kết
hợp cả thể chất lẫn tinh thần của vợ chồng đã được Thiên Chúa phú ban ngay từ
buổi đầu tạo dựng để con người có được niềm vui, hạnh phúc và nhờ thế tăng thêm
sức gắn bó. Những cử chỉ thân mật hoặc những hành vi phối hợp yêu thương giữa
vợ chồng tự nó không có gì là xấu xa, nhưng là một sinh hoạt có ý nghĩa tốt
đẹp… Sinh hoạt thân mật này phải là biểu lộ cao nhất, là kết quả của sự phối
hợp hai nhân vị chứ không phải là khởi đầu hay mục đích của đời sống hôn nhân.
Trong đời sống vợ chồng, yêu thương thân mật với nhau còn là điều biểu lộ sự
sống, sự sinh động, là bác ái và nghĩa vụ công bằng phải chu toàn. Hai người
phải cố gắng hiểu biết kỹ lưỡng những kiến thức đặc biệt về đời sống tâm sinh
lý nam nữ để giá trị kết hôn được phát huy sung mãn, để hai người không yêu
nhau như vợ chồng thuần túy nhưng yêu nhau với tình yêu của Đức Kitô, như Đức
Kitô yêu Hội thánh.[24]
2. Đặc tính của hôn nhân Công giáo
2.1. Sự đơn nhất
Nơi hầu hết các dân tộc, hôn nhân một vợ một
chồng là điều rất cổ xưa. Thiên Chúa đã ấn định đặc tính của hôn nhân ngay
trong việc sáng tạo loài người. Nên một vợ một chồng không phải là luật của con
người, nhưng là quy luật của Thiên Chúa. Đức Kitô đã tái lập lại trật tự của
thuở ban đầu, hôn nhân đã được trả lại tình trạng một vợ một chồng như lúc mới
tạo dựng, và ban ơn thánh để giúp vợ chồng sống chung thủy với nhau.[25]
Sự chung thủy là nghĩa vụ của
hôn nhân. Do đó, nếu một trong hai người loại bỏ hay vì lý do tâm lý mà không
có khả năng sống đời chung thủy, thì việc kết hôn trở thành vô hiệu, và nếu một
trong hai không chu toàn nghĩa vụ này thì người bạn kia có thể xin chia tay.
Chế độ đa thê hay đa phu là trở lực cho việc thiết lập một cộng đồng sống chung
thực sự, vì nó ngăn cản việc trao hiến hoàn toàn cho người bạn đời và phủ nhận
sự bình đẳng cũng như phẩm giá của vợ chồng trong hôn nhân.[26]
Như thế, đa thê là một điều đi
ngược lại với sự hiệp thông: vì nó phủ nhận trực tiếp ý định của Thiên Chúa,
như Người đã mạc khải cho chúng ta ngay từ đầu; nó ngược hẳn với phẩm giá cá
nhân bình đẳng giữa người nam và người nữ. Trong hôn nhân, người nam và người
nữ trao hiến cho nhau trong một tình yêu toàn diện. Do đó cũng là một tình yêu
đơn nhất, không dành cho ai khác. Như Công Đồng Vaticanô II đã viết: “Phải nhìn
nhận phẩm giá biệt vị bình đẳng giữa vợ chồng trong tình tương ái trọn vẹn, để
nhờ đó, biểu hiện rõ ràng tính cách đơn nhất của hôn nhân đã được Thiên Chúa
xác định”.
2.2. Sự bất khả phân ly
Ngay từ bản chất, tình yêu vợ
chồng đòi hỏi sự đơn nhất và bất khả phân ly cho cộng đoàn nhân vị bao trùm
toàn bộ đời sống họ. Họ không còn là hai mà là “một xương một thịt”. Họ được
mời gọi không ngừng lớn lên trong tình yêu hiệp thông với qua việc trung thành
mỗi ngày với lời cam kết hôn nhân là trao hiến trọn vẹn cho nhau. Sự hiệp thông
nhân vị này được cũng cố, được thanh luyện và hoàn thiện nhờ Bí tích Hôn Phối
đem lại sự hiệp thông trong Đức Kitô. Sự hiệp thông này càng thâm sâu hơn nhờ
cùng chia sẻ một đức tin và cùng đón nhận Mình Thánh Chúa.[27]
Sự hiệp thông trong gia đình
trước tiên là sự hiệp thông trong tình yêu giữa người nam và người nữ tự nguyện
cam kết sống với nhau, sống cho nhau bằng kế ước hôn nhân, họ bổ túc cho nhau,
chia sẻ với nhau toàn thể con người và dự phóng cuộc sống của họ. Sự hiệp thông
này là đòi hỏi tự nhiên của nhân bản. Và Đức Kitô đã dùng Bí tích Hôn Nhân để củng
cố sự đòi hỏi sự hiệp thông ấy, thanh luyện và nâng lên cao để được trở nên
phong phú hơn về mọi mặt thể xác, con tim, ý chí… Phẩm giá con người và sự bình
đẳng nam nữ trong hôn nhân đòi buộc vợ chồng trao hiến cho nhau trong một tình
yêu toàn diện và duy nhất, không chia sẻ.
Theo giáo huấn của Công Đồng
Vaticanô II, sự liên kết mật thiết vẫn là sự tự hiến của hai người cho nhau
cũng như lợi ích con cái đòi buộc hai vợ chồng phải hoàn toàn trung tín và đòi
hỏi kết hợp với nhau bất khả phân ly. Bắt nguồn từ trong sự trao ban trọn vẹn
và đích thân giữa hai vợ chồng, cũng như do lợi ích của con cái đòi buộc, sự
bất khả phân ly của hôn nhân dựa trên nền tảng là ý định Thiên Chúa đã bày tỏ
trong mạc khải của Người: chính Người muốn hôn nhân phải bất khả phân ly và
Người ban cho nó ơn này như kết quả, dấu chỉ và đòi hỏi của tình yêu tuyệt đối
trung thành mà Thiên Chúa đã dành cho con người cũng như tình yêu mà Đức Giêsu
đã dành cho Hội thánh.[28]
3. Ly hôn là sự phản bội
3.1. Chối bỏ tình yêu
Thiên
Chúa là tình yêu. Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, chỉ
vì yêu thương mà kêu gọi con người bước vào cuộc sống, Ngài cũng đồng thời mời
gọi họ sống cho tình yêu. Tình yêu là ơn gọi căn bản bẩm sinh của con người. Họ
“không ngừng yêu thương nhau và có một tinh thần trách nhiệm luôn luôn mới. Một
bầu khí yêu thương và có trách nhiệm là môi sinh cần thiết của đôi bạn”[29]. Vì thế,
điều kiện của hôn nhân là tình yêu. Tình yêu làm nên hôn nhân gia đình. Hôn
nhân là tình yêu hai người trao cho nhau cách trọn vẹn và đời đời. Như đôi bạn
trong ngày lễ cưới của Kitô giáo họ đọc: anh/em hãy nhận chiếc nhẫn này của
em/anh để làm bằng chứng tình yêu và trung thành của em/anh, nhân danh Cha và
Con và Thánh Thần. Nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi trước mặt người làm chứng và
toàn thể cộng đoàn thì họ đã tự nguyện, tự trao gởi và ký kết tình yêu với nhau
và hứa hiến mình cho nhau cách trọn vẹn và trọn đời.
Hơn
nữa, theo giáo huấn của thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông Huấn Familiaris Consortio, con người là một
nhân vị, có tinh thần lẫn thể xác. Vì thế, nhân vị ấy sẽ dự phần vào tình yêu
để thực hiện ơn gọi sống yêu thương trọn vẹn nhất của nó, đó là hôn nhân và
tinh khiết. Bởi thế, tính dục mà cả nam và nữ hiến mình cho nhau bằng những
hành vi riêng biệt và chỉ dành riêng cho đôi bạn, thì tình dục ấy không chỉ là
điều thuần túy về sinh lý mà nó còn liên hệ đến nhân vị. Và nó được thực hiện
một cách nhân bản đích thực nếu nó là thành phần làm nên tình yêu. Nhưng đồng
thời nó sẽ trở thành giả dối nếu nó không phải là dấu chỉ và kết quả của sự
trao hiến cả ngôi vị, trong đó toàn thể ngôi vi đều hiện diện, cả trong chiều
kích trần tục của nó. Nếu người ta dành lại bất cứ điều gì, hoặc dành cho mình
quyền có thể quyết định khác đi sau này, thì như thế không còn là một sự trao
hiến hoàn toàn nữa.
Do
đó, việc ly dị sẽ mất đi ý nghĩa và mục đích của sự tự hiến của hai người cho
nhau. Một tình yêu chân thật trong đời sống hôn nhân thì không thể bị giới hạn
bởi bất kỳ một lý do nào cả. Cả hai phải yêu thương nhau trọn đời và hiến thân
cho nhau cách trọn vẹn không so đo, không vụ lợi. Bởi vì dấu ấn của tình yêu là
lòng trung thành và dám hiến thân cho bạn của mình.[30] Vì một lý
do nào đó mà vợ chồng ly dị nhau, khi đó họ từ chối tình yêu của nhau, chối bỏ
tình yêu mà họ đã nhận trong ngày cưới. Khi ly hôn không những họ chối bỏ tình
yêu của nhau mà còn sâu xa hơn là chối bỏ tình yêu với Thiên Chúa. Hơn nữa, hôn
nhân là một Bí tích mà đôi bạn liên kết với nhau và với Chúa cách chặt chẽ mật
thiết vĩnh viễn không thể tháo gỡ được.[31]
Khi người này thuộc về người kia, họ thực sự biểu lộ tương quan giữa Đức Kitô
với Giáo hội. Vì thế, khi vợ chồng ly hôn chối bỏ tình yêu thì cũng chính là
chối bỏ trách nhiệm với nhau, với con cái, với xã hội và với chính Thiên Chúa.
3.2. Chối bỏ trách nhiệm
Trong
tình yêu hôn nhân, nhất là hôn nhân được Thiên Chúa thiết lập và nâng lên là Bí
tích, Bí tích ấy nói lên sự kết hợp hai người nên một. Họ đón nhận nhau và trao
hiến toàn thân cho nhau thì trách nhiệm lại càng lớn lao biết dường nào. Bởi vì
mục đích của giao ước này chính là: “sự giúp
đỡ lẫn nhau, lòng chung thủy trong tình yêu của đời sống vợ chồng”.[32] Và ở mối tương quan này, người nam cũng như người nữ
phục vụ và giúp đỡ lẫn nhau bằng sự kết hợp mật thiết trong con người và hành
động của họ, cảm nghiệm và hiểu biết sự hợp nhất với nhau mỗi ngày một đầy đủ
hơn bằng việc hai người tự hiến cho nhau một cách hoàn hảo. Sự giúp đỡ nhau
trong đời sống hôn nhân thì không chỉ có trong lúc vui tươi và hạnh phúc ngập tràn nhưng mà cả trong những lúc gặp đau khổ
buồn phiền. Cả hai tương trợ cho nhau. Điều này được cụ
thể hóa ra trong từng cử chỉ, trong lời ăn tiếng nói hằng ngày ở mọi phương
diện như: sức khỏe, tâm lý, luân lý, kinh tế và nhất là trong việc giáo dục con
cái… cùng chăm sóc lẫn nhau, cùng chia sẻ mọi ưu tư trong cuộc sống.[33]
Lòng
chung thủy là một động lực rất mạnh giúp cho vợ chồng dễ dàng chấp nhận và chịu
đựng lẫn nhau. Thế nhưng khi ly hôn thì mỗi người một nơi, lúc đó hôn nhân
không còn tình yêu nữa thì chắc chắn trách nhiệm đối với nhau cũng không còn.
Không những họ chối bỏ nhau nhưng kéo theo trong việc ly hôn ấy của hai người
ít nhiều cũng chối bỏ trách nhiệm với con cái. Trong khi đó, hôn nhân theo ý
định của Thiên Chúa là để người chồng và người vợ tương trợ cho nhau, việc
truyền sinh và nuôi dưỡng giáo dục con cái. Khi trở nên cha mẹ thì đôi bạn cũng
lãnh nhận nơi Thiên Chúa quà tặng là một trách nhiệm mới. Trách nhiệm này cùng
làm nên một thân thể, cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa trong Đức Giêsu Kitô.
Gia
đình chính là nơi con cái học những bài học đầu tiên và quan trọng nhất về sự
khôn ngoan thiết thực có liên quan tới các đức tính; cho nên môi sinh của nhân
loại chính là gia đình. Trong gia đình, cha mẹ lại là những nhà giáo dục đầu
tiên nhưng họ không phải là người duy nhất. Bởi đó, cha mẹ phải giáo dục con
cái bằng sự cộng tác chặt chẽ với các cơ quan dân sự khác của Giáo hội và xã
hội. Nhất là cha mẹ phải có bổn phận giáo dục giới tính cho con cái. Đó là nền
tảng cho sự trưởng thành quân bình của con cái cách tuần tự có ý nghĩa của tính
dục, cũng như được học biết những giá trị luân lý và nhân bản đi đôi với tính
dục. Vì có liên quan mật thiết giữa khía cạnh tính dục với những giá trị đạo
đức của con người, nên giáo dục phải giúp con cái hiểu biết và tôn trọng các
chuẩn mực luân lý, coi đó như nguồn đảm bảo và hết sức giá trị để con người
được trưởng thành một cách có trách nhiệm trong tính dục của mình.[34]
Ngoài
ra, chính cha mẹ còn là gương sáng ảnh hưởng hoàn toàn trên con cái ngay từ
thai nhi và mãi về sau. Nên cha mẹ phải thăng tiến hoàn hảo bản thân. Luôn tạo
sự tín nhiệm trên con cái vào chính mình và dàn xếp ổn thỏa mọi bất đồng trong
gia đình cùng với sự yêu thương con cái vô vị lợi. Vì gia đình là nơi gặp gỡ
Thiên Chúa, nên phải có bầu khí thánh thiện, thấm nhuần đức tin và lòng yêu mến
Chúa.[35]
Qua
đó, chúng ta thấy trách nhiệm và bổn phận của cha mẹ là hết sức lớn lao. Không
những chỉ lo cho con cái nhưng còn phải chịu trách nhiệm đối với xã hội, Giáo
hội và nhất là trách nhiệm đối với Thiên Chúa. Khi họ ly dị thì chính các em là
người chịu đau khổ nhất. Bởi lẽ ly dị được các em cảm nhận như là một sự khước
từ của cha mẹ đối với chúng.[36]
4. Những lý chứng ủng hộ cho việc ly hôn
4.1. Tôn trọng tự do của con người
Thánh
Augustinô đã nói: “Để tạo dựng nên con người, Thiên Chúa không cần đến sự cộng
tác của họ, nhưng để cứu độ con người thì Thiên Chúa cần đến sự cộng tác của
con người”. Nói như vậy là Thiên Chúa không có đầy quyền năng để cứu độ con
người sao ? Thưa không, đó là vì Ngài coi trọng tự do của họ. Con người được tự
do chọn lựa ân sủng cứu độ hay tội lỗi sự chết. Tự do là món quà cao quý mà
Thiên Chúa tặng ban cho con người khi tạo dựng nên họ.
Trải
qua dòng lịch sử, con người luôn nhân danh tự do để làm tất cả những gì phi tự
do nhất. Cụ thể là có bà Manon Roland-một nạn nhân của cách mạng Pháp đã kêu
nên: “O Liberté, que de crimes on commet en ton nom ! ”[37] (Ôi tự
do, nhân danh người, người ta đã phạm bao tội trọng). Tự do là hồng ân Thiên
Chúa ban cho con người. Do đó Ngài cũng tôn trọng tự do của họ. Tự do thuộc về
nhân quyền nên không thể tách rời với phẩm giá con người. Trong quyền tự do ấy,
tự do ý chí là yếu tố cấu thành nhân vị con người. Con người chỉ tìm gặp lại
bản thân hay lớn lên trong nhân cách bằng sự hiện thân phục vụ tha nhân, cho
nên, tự do chỉ được phát triển nhờ gặp gỡ nhìn nhận và tôn trọng tự do của tha
nhân mà thôi. Điều này, Giáo hội cũng nhìn nhận rằng: lắm lúc người ta yêu
thích tự do không đúng cách như muốn làm gì thì làm miễn là hợp sở thích, dù đó
là điều xấu. Nhưng tự do đích thực là dấu chỉ cao cả nhất của hình ảnh Thiên
Chúa trong con người.[38]
Hiến
Chế “Vui Mừng và Hy Vọng” số 27, đã nói đến những hình thức tự do bị chối bỏ và
trà đạp như sau: tất cả những gì đi ngược với chính sự sống… tất cả những gì
xâm phạm sự toàn vẹn nhân vị con người…
tất cả những gì xúc phạm đến nhân phẩm… thì tất cả những điều đó sẽ bôi nhọ kẻ
chủ động làm điều đó hơn là kẻ phải chịu sự nhục nhã, đồng thời cũng xúc phạm
nặng nền đến danh dự của Đấng Tạo Hóa.
Tuy
nhiên, cuộc đời này lại không có tự do tuyệt đối. Nên có nhiều người đã lợi
dụng tự do và sử dụng quyền tự do của mình một cách vô trách nhiệm, bất chấp
luật lệ, quy tắc đạo đức, quyền lợi con người, bất chấp cả tình yêu. Đặc biệt
là giới trẻ trong vấn đề tự do này đã bị ảnh hưởng rất nhiều từ triết gia Jean
Paul Sartre, chủ chương tự do tuyệt đối, tự do phóng túng muốn làm gì thì làm.
Do đó, ly hôn cũng một cách nào đó nói lên tự do của họ.
4.2. Giải phóng phụ nữ
Đã
từ lâu, người phụ nữ trong xã hội loài người bị coi rẻ, họ phải sống trong cảnh
áp bức, miệt thị… và coi như là nô lệ - người hầu của chồng. Do đó, ly dị được
xem là một cách trả lại nhân phẩm và giải phóng người phụ nữ.
Sự
kỳ thị, khinh rẻ phụ nữ là một hành động trái với ý định của Thiên Chúa. Vì
Ngài đã tạo dựng con người có nam có nữ, cả hai đều mang hình ảnh của Thiên
Chúa và có phẩm giá như nhau. Ngài không thiên vị ai. Vì mọi người có cùng một
phẩm giá của những thụ tạo được tạo dựng: “không có phân biệt Dothái hay Hylạp,
không có nô lệ hay tự do, không có nam hay nữ vì tất cả anh em đều là một trong
Đức Giêsu Kitô”. Và Hiến Chế Vui Mừng Và Hy Vọng đã làm sáng tỏ ý
nghĩa trên rằng: càng ngày càng phải nhận thức sự bình đẳng căn bản giữa mọi
người hơn, bởi vì mọi người đều có một tâm linh và được dựng nên giống hình ảnh
của Thiên Chúa nên có cùng một bản tính và cùng một nguồn gốc, hơn nữa vì được
Đức Kitô cứu chuộc, nên họ đều được mời gọi như nhau và cùng hưởng chung một
mục đích nơi Thiên Chúa.[39] Cũng theo chiều hướng này, thánh Phanxicô Salesiô nói
thêm: Phụ nữ bình đẳng với nam giới, nhất là trong ơn riêng và trong vinh
quang; vinh quang là kết quả… của sự kiện họ là hình ảnh của Đấng Tạo Hóa và
giống Đấng ấy.[40]
III. HẬU QUẢ CỦA LY HÔN
Ly
hôn là một thảm trạng xấu nhất, là bất hạnh của hôn nhân, nó dẫn đến nhiều hậu
quả cho chính đương sự, cho gia đình cũng như con cái và cho chính xã hội. Mặc
dù ly hôn cũng được coi là phương cách cuối cùng để chữa trị một tình trạng bi
đát, mà không thể làm gì khác hơn được nữa, để cho những người trong cuộc có
thể thoát khỏi cảnh tù đày đau khổ, mà tìm được một con đường giải thoát, hầu
mong tạo cho mình một cuộc sống bình yên hơn nhưng khó mà tránh khỏi những hậu
quả tất nhiên. Cụ thể MC Kỳ Duyên Và Trịnh Hội hay Thanh Bạch và Xuân Hương...
là những nghệ sĩ rất sáng giá trong lĩnh vực sân khấu nghệ thuật của Việt Nam;
một trong số ấy là Trịnh Hội đã từng cho rằng : « Cưới được Duyên là
tôi đã tìm được chiếc áo mà tôi biết chắc rất vừa vặn và làm mình đẹp, hạnh
phúc khi khoác lên người ». Tuy nhiên, vào năm 2008, mối quan hệ của Hội
và Duyên cũng đổ vỡ vì những rạn nứt trong cuộc sống hôn nhân.[41] Vậy từ
thực tế này thì sự đổ vỡ của hôn nhân sẽ có những hậu quả ra sao?
1. Hậu quả
đối với những người trong cuộc
Chính
đương sự những người trong cuộc họ phải chịu những hậu quả trước tiên vì chính
họ gây nên. Xét về mặt tâm lý, tình cảm, xã hội: trong tình trạng ở nước ta, và
với bản thân người Việt Nam, với sự ảnh hưởng sâu xa của luân lý sẵn có, dù sao
hậu quả của việc ly hôn cũng đem lại nhiều ảnh hưởng không tốt cho người trong
cuộc. Ít nhiều họ cũng bị gia đình, bạn bè đặt dưới cái nhìn không bình thường,
có nhiều điều nghi kỵ bất lợi, không ưa, trừ rất ít một số người thân nào đó có
thể thông cảm với họ… do đó, từ việc giao tiếp đến công việc làm ăn, họ có thể
gặp trở ngại do sự đánh giá khắt khe của nhiều người. Từ đó cuộc sống tương lai
của họ cũng gặp nhiều khó khăn cả về tâm lý, tình cảm lẫn sinh hoạt hằng ngày.
Nhiều khi nỗi chán chường lẫn mặc cảm tự ti khiến họ không còn tha thiết, hào
hứng gì nữa trong cuộc sống. Ngoài ra còn bị những tiếng than trách của cha mẹ,
họ hàng nhất là sự đau buồn, ray rứt khi nhìn đám con thiếu cha hay thiếu mẹ.
Ảnh hưởng cũng có thể đến với cả hai người, nhưng nhất là với người đàn bà, vì
họ có đời sống tình cảm nặng hơn đàn ông. Bởi đó cứ một trăm trường hợp ly hôn,
thì khoảng tám mươi phần trăm người đàn ông lập gia đình lại, nhưng chỉ khoảng
hai mươi phần trăm người đàn bà đi bước nữa; vì ê chề chán chường, vì hận đời
cũng có, nhất là vì thương con, nhưng cũng có thể là vì phai tàn nhan sắc! Từ
đó khiến họ trở thành mất vui, không tha thiết với cuộc sống. Họ cũng gặp nhiều
khó khăn trong vấn đề chăm sóc và dạy dỗ con cái. Vì phải tần tảo kiếm sống,
không còn người phụ giúp nên họ không có thì giờ để quan tâm đến con cái. Họ
chỉ nuôi con bằng phần xác mà khiếm khuyết phần tinh thần. Rất ít trường hợp
sau khi cha mẹ ly hôn mà con cái được chăm sóc đầy đủ đúng mức.[42]
Về mặt đạo đức: từ sự chán nản ê chề, bất mãn và hận
đời, người bị ly hôn khó đứng vững trong đời sống đạo đức, nề nếp như cũ, như
trường hợp của những người có sẵn một căn bản đạo đức cao, hay được nâng đỡ bởi
niềm tin tôn giáo, của những người thương yêu, còn đa số họ sẽ sống buông thả,
tiêu phí thời gian cho những thú vui, để tìm quên lãng và khuây khỏa, họ dễ đi
vào con đường bê tha, nghiện ngập, trác táng…, vì chẳng còn ai ràng buộc họ
nữa! Điều đó vừa gây thiệt hại cho sức khỏe, vừa thiệt hại cho uy tín của cá
nhân, của gia đình cũng như gây xáo trộn cho xã hội. Vì từ tâm lý bất lợi, bất
ổn trên mà họ có thể xao lãng hoặc xem thường mọi bổn phận, mọi trách nhiệm
đang mang, đặc biệt là trách nhiệm đối với con cái. [43]
2. Hậu quả
đối với con cái
Mỗi
đứa con trong gia đình đều có quyền lợi của mình. Vì thế cho nên trong Tông
Huấn Familiaris Consortio, số 26,
thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã công bố:
Giữa lòng gia đình như một cộng đồng các ngôi vị cần phải dành một sự chú ý
đặc biệt cho đứa con, bằng cách phát huy lòng quý chuộng sâu xa đối với phẩm
giá ngôi vị của nó, cũng như phát huy sự kính trọng thật to lớn đối với những
quyền lợi của nó, những quyền lợi mà người ta phải phục vụ một cách quảng đại.
Đó là điều phải dành cho tất cả mọi đứa con.
Và
mỗi em bé, nhất là khi các em còn nhỏ dại, yếu đuối hay tàn tật, cần phải hết
sức coi trọng và quảng đại chăm sóc. Đón nhận với tình yêu thương đối với các
em ngay từ khi chào đời phải là nét đặc biệt trong mọi gia đình Kitô hữu. Như
thế các trẻ em có thể lớn lên về khôn ngoan, vóc dáng và ân sủng trước mặt
Thiên Chúa và trước mặt người ta như Đức Giêsu khi còn sống ẩn dật tại Nadarét.
Vậy
mà khi một mối dây liên hệ ràng buộc trong đời sống hôn nhân bị lỏng lẽo thì
con cái bị tước đoạt tình cảm của bố hoặc mẹ nó, hay cả hai, và điều ấy hiển
nhiên ảnh hưởng đến sự tự tin, đến việc học hành và gây nên sự bất ổn trong tâm
hồn của chúng. Sự mất mát đối với trẻ em thì không thể bồi hoàn được. "Có
thể nói không ai chịu nhiều đau khổ hơn các em khi ba mẹ chúng ly dị. Các em là
nạn nhân chính trong các cuộc ly dị. Thật vậy, các em là của hy sinh cho sự yếu
hèn của cha mẹ. Ly dị được cảm nhận bởi các em như là một sự khước từ của cha mẹ
đối với chúng." (xem "Love is For Life" - Lá thư mục vụ của Hội
Đồng Giám Mục Ái Nhĩ Lan (1985)[44] .
Là nạn nhân trực tiếp nên các em sẽ gặp rất nhiều khó
khăn. Đành rằng, những người thay thế cho cha hay mẹ của các em sau này rất
quan tâm tới các em hoặc có những trường hợp ngược lại thì các em phải gánh
chịu cảnh đối xử tàn tệ hơn so với lúc các em còn sống với bậc đã sinh ra mình.
Lợi
ích của con cái ít khi được sử dụng để coi đó như một sự ép buộc cha mẹ không
được ly dị, nhưng ngược lại, nó được dùng để đấu tranh cho sự bền vững của mái
ấm. Có như thế mới đảm bảo cho việc giáo dục lành mạnh đối với các em. Cũng từ
đó, sự tương thân tương ái trong một gia đình mới được nâng đỡ.
3. Hậu quả đối với xã hội
Ly
hôn làm cho gia đình ra tan nát. Điều này trực tiếp làm mất đi sứ mệnh rất cao
quý của gia đình trong xã hội, đó chính là bổn phận và được mời gọi lãnh nhận
trách nhiệm về phần mình trong việc xây dựng một xã hội nhân bản hơn. Trách
nhiệm này có thể được cụ thể hóa ra theo nghĩa rộng như khả năng tham gia trong
các hoạt động chính trị để làm lợi ích cho xã hội và mưu ích cho gia đình, hay
bổn phận đối với những người đang gặp khó khăn trong cuộc sống. Và thật có lý
“nơi gia đình, người ta học biết trách nhiệm xã hội và tình liên đới”.[45]
Hơn nữa, gia đình là tế bào nền tảng của xã hội, là chiếc
nôi sự sống và tình yêu; nơi đó, con người được sinh ra và lớn lên. Khi các tế
bào nền tảng tan vỡ, thì cả thân thể xã hội cũng bị lâm bệnh. Con người lớn lên
từ chiếc nôi thiếu vắng tình yêu khó có thể có nhân cách trưởng thành, từ đó
gây ra những ảnh hưởng không tốt đến sự an sinh xã hội.[46]
Năm
1983, Tòa Thánh cũng đã công bố Bản Tuyên Ngôn về những quyền của gia đình liên
quan đến xã hội tự nhiên và phổ quát. Nó trở nên mẫu mực và một điểm quy chiếu
cho sự hình thành một bản hiến pháp và là một sự hướng dẫn cho những chương
trình hoạt động giúp cho gia đình, để họ ý thức hơn về vai trò không thể thay
thế được của vị thế gia đình, ước mong cho các gia đình biết liên kết với nhau
để cùng nhau bảo vệ và phát huy những quyền lợi của mình; cổ võ các gia đình
chu toàn những nhiệm vụ của mình để vai trò của gia đình có thể ngày càng được
coi trọng và nhìn nhận ở bất kỳ nơi nào khi có con người sinh sống, nhất là
trong việc giáo dục và nuôi dưỡng con cái.
IV. HƯỚNG KHẮC PHỤC
1. Dành thời gian cho nhau
Thời
gian là điều khan hiếm nhất trong thời buổi xã hội Công nghiệp hóa hiện đại hóa
ngày nay. Cả hai vợ chồng đều luôn bận rộn và hầu như không thể tìm ra thời
gian rảnh rỗi dành cho nhau. Họ quan tâm tới công việc và việc làm thế nào để
kiếm tiền hơn là quan tâm tới gia đình và hạnh phúc của chính họ. Tuy nhiên,
thực tế thì các cặp vợ chồng cần dành thời gian cho hôn nhân của mình. Đừng để
công việc sai khiến và kiểm soát cuộc sống của bạn.
2. Chấp nhận khuyết điểm của nhau
Khiếm
khuyết là một phần nằm trong định nghĩa của con người. Và một trong những viễn
cảnh tồi tệ nhất về hôn nhân là bị vợ hoặc chồng chỉ trích cả đời vì những
khiếm khuyết của mình. Điều này không có nghĩa là mỗi người không cần tự cải
thiện bản thân mình, nhưng đối với mối quan hệ hôn nhân, thì thái độ tích cực
của người vợ hoặc chồng nên là “khi đã chấp nhận một người, là chấp nhận cả ưu
điểm và khuyết điểm của người ta”[47].
3. Nhường nhịn, biết nghĩ đến người khác
Tục ngữ có câu: « Một điều nhịn, chín
điều lành ». Người vợ khôn là người biết trùng xuống khi chồng đang nóng
giận và sẽ nhẹ nhàng trao đổi với chồng khi cơn nóng giận đã qua. Nhường nhịn
là biết cho trước khi nhận, biết vui lòng chấp nhận phần thiệt, hy sinh, chịu
đựng ở mức có thể về mình để được những lợi ích về lâu dài. Nhường nhịn cũng
bao hàm không nóng tính, không dễ bị kích động làm cho nổi giận. Người vợ lý
tưởng cũng là người biết nghĩ đến lợi ích của người khác, không ích kỷ, có lòng
nhân hậu, vị tha và có khả năng cảm thông với hoàn cảnh của người khác.[48]
Và
nếu cần thì phải biết cãi nhau đúng cách, bởi tranh cãi là chuyện không thể
tránh khỏi trong hôn nhân. Vấn đề là với các cặp đôi biết cãi nhau đúng cách,
họ sẽ tháo ngòi căng thẳng, tiếp cận vấn đề với sự hài hước, và thực sự lắng
nghe phía bên kia. Họ sẽ tránh việc vì giận dữ mà lỡ lời hay trở nên độc địa.
Những đôi biết cãi nhau đúng cách cũng sẽ ít cãi nhau hơn, vì họ hiểu được phần
lớn các cuộc cãi nhau đều xuất phát từ những khác biệt cơ bản trong tính cách
của hai người. Điều này không thay đổi được, nên họ học cách chấp nhận, kiềm
chế và tránh việc cãi nhau nhiều lần về cùng một vấn đề.[49]
4. Điều kiện kinh tế
Khi
yêu nhau, người ta không kể đến vấn đề tiền bạc. Có những người còn cho rằng
tiền bạc không nên chen vào tình yêu. Thế nhưng câu chuyện của cuộc sống không
hề đơn giản và cũng không ngừng lại ở đó. Cụ thể là các cặp vợ chồng sau khi
lập gia đình, họ phải tự lo cho mái ấm của mình, điều kiện kinh tế chưa đảm bảo
cho cuộc sống riêng hoặc chưa có nghề nghiệp ổn định cùng với đó là sinh con
sớm, nên kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn.
Vì
thế, một đằng là phải có công việc ổn định bởi lẽ đó là điều tối thiếu để có
tiền lo cho việc sinh hoạt và trang trải trong cuộc sống; đằng khác là phải có
một sự quan tâm cần thiết đối với mỗi thành viên trong gia đình của mình.
5. Luôn chứng tỏ cho nhau tình yêu chân thành
và lòng chung thủy
Dẫu
hai vợ chồng có sống chung với nhau trong cùng một căn phòng, ăn cùng một bàn,
ngủ cùng một giường, nhưng họ biết về nhau được bao nhiêu? Cứ sự thường, họ chỉ
biết về những thói xấu của nhau như thích nắm quyền, thích phàn nàn, thích tiêu
tiền, thích rượu chè, không thích làm việc.... Cứ vậy sẽ dẫn đến những xung đột
trong gia đình. Vậy để xung đột không xảy ra, vợ chồng phải cùng nhìn về một
hướng, cùng nhắm đến những điều tốt của nhau.
Vợ
chồng cần quan tâm đến nhau, tìm hiểu những nhu cầu của nhau. Cố gắng đừng
hướng đến lợi ích cá nhân cho riêng mình. Cần loại bỏ những bất đồng ý kiến
những chán nản trong đời sống vợ chồng. Dành cho nhau nhiều thời gian hơn, loại
bỏ những căng thẳng từ công việc bằng cách tổ chức những chuyến du lịch ngắn
ngày để làm nóng lại những kỷ niệm, đến những nơi đầy ắp ký ức ngọt ngào để hâm
nóng lại tình yêu. Thêm thắp cho đời sống vợ chồng bằng những hương vị ngọt
ngào từ cuộc sống, kể cả việc “phòng the” của đôi bạn.[50]
6. Cầu
nguyện cùng nhau để gặp
gỡ Chúa mỗi ngày
Không có ơn Chúa, con người không thể hình thành và triển
nở được. Đời sống gia đình cần phải có nhiều ơn Chúa. Ơn Chúa luôn đầy tràn,
muốn lãnh nhận ơn Chúa, chỉ bằng cách cầu nguyện. Một cách cầu nguyện sinh
nhiều hoa trái vững bền là học hiểu và thực hành lời Chúa. Phúc âm phải được
vang lên trong gia đình vào mỗi buổi tối. Vì khi vợ chồng cùng đọc và tìm hiểu
Phúc Âm thì chính Chúa Thánh Thần sẽ thân hành dạy họ, dẫn dắt họ trên con
đường hoàn thiện.
Đọc
Phúc Âm trong gia đình không phải là điều gì khó thực hiện, nếu đôi bạn hằng
ngày để ra ít phút vào buổi tối sau bữa ăn hay là trước khi đi ngủ chẳng hạn.
Cùng nhau đọc Phúc Âm, thinh lặng suy niệm, bộc bạch tâm tư, cầu nguyện cho bản
thân cho người bạn đời, cho con cái, người thân, cho công việc tông đồ của Giáo
hội và nhất là cho các linh hồn.
Những
giây phút cùng nhau cầu nguyện là để tạ ơn Chúa. Chính sự cầu nguyện sẽ dẫn đến
bình an và nhận ra con người yếu hèn của mình. Giây phút ấy thật đẹp và linh
thiêng. Giây phút ấy là giây phút “chất
lượng”, là “phút hồi tâm”. Làm cho tình
cảm gia đình thêm keo sơn thắm thiết. Vì tất cả gia đình được liên kết với
Chúa. Đây là giây phút mà Lời Chúa thấm nhập tới từng ngóc ngách của tâm hồn
đôi bạn, chữa lành mọi vết đau thương, cũng là giây phút bên nhau nghỉ ngơi
trong Chúa, phó thác mọi sự cho Ngài và được Ngài bồi dưỡng lại sức sau một
ngày cần lao. Đức Giêsu đã mời gọi: “Những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy
đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”.
TẠM KẾT
Khi
xây dựng cuộc sống gia đình, tất cả các cặp vợ chồng đều ước mong hôn nhân được
hòa hợp, ấm êm, kinh tế ổn định, con cái ngoan ngoãn, vợ chồng yêu thương nhau
và được sống hạnh phúc cho đến trọn đời. Đây là quan niệm và ước vọng chung của
mọi người, mọi thời, bởi vì hôn nhân không chỉ đem hạnh phúc đến cho riêng cá
nhân của hai người, mà còn đáp ứng nhu cầu hạnh phúc của gia đình, gia tộc, họ
hàng, làng xóm và cho cả xã hội.
Tuy
nhiên, không phải ai cũng được toại nguyện vì “mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi
cảnh”. Có nhiều cặp gia đình ngày nay cũng được sống trong mái ấm gia đình,
nhưng cũng không ít những lứa đôi, luôn có sự mâu thuẫn và đi đến đổ vỡ. Nhìn
vào thực trạng ly hôn của Việt Nam hôm nay, qua thống kê các con số đang ở mức
báo động, không ai lại không đặt cho mình một dấu chấm hỏi (?) về các giá trị
của đời sống gia đình trong xã hội hôm nay. Do đâu mà thành những giá trị mới
ấy ? Xã hội Việt Nam hôm nay, dường như đang bị thống trị bởi một thứ văn hóa
ngoại lai đề cao chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa hưởng thụ và chủ nghĩa duy tương
đối. Chính những giá trị mới này đã xóa đi những hình ảnh, những giá trị tốt
đẹp nơi gia đình truyền thống.
Đứng
trước những hình thức mới và lệch lạc của xã hội hôm nay về đời sống gia đình,
thì quan niệm của Kitô giáo, sẽ giúp cho xã hội nhìn nhận ra được những giá trị
lệch lạc mình đang sống và tìm lại giá trị, ý nghĩa đích thực của đời sống gia
đình. Xã hội hôm nay coi việc ly hôn cũng là một sự tự do, hôn nhân gia đình
đối với họ cũng chỉ là một sự tương đối. Để thay đổi quan niệm này, Giáo hội
cho hay trong chương trình của Thiên Chúa, hôn nhân là một sự kết hợp vĩnh
viễn: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”. Hơn thế
nữa, hôn nhân không chỉ là hai người kết hợp với nhau, mà còn cao cả hơn, sâu
xa hơn là sự kết hợp với Thiên Chúa. Hôn nhân trở thành dấu chỉ của sự kết hợp
Thiên Chúa với Giáo hội. Hôn nhân theo
quan niệm Kitô giáo còn có giá trị là kiện toàn con người. Do đó, hai người phải
trao hiến, hy sinh, giúp đỡ nhau trong đời sống, không tìm tư lợi cho riêng
mình mà cần có trách nhiệm và bổn phận với nhau, với con cái, với xã hội và
Thiên Chúa. Trong những giá trị này mà ly hôn là một sự phản bội, phản bội
nhau, phản bội Chúa.
[1] Lm. Giuse Phạm Quốc Văn, OP., Mình Với Ta Tuy Hai Mà Một, Giáo trình Hôn
Phối, lưu hành nội bộ, 2012, tr. 79.
[2] X. Từ
Điển Tiếng Việt, Viện Ngôn Ngữ Học, Nxb Đà Nẵng, 2004, tr. 564.
[3] x. Lm Anphong Nguyễn Công Vinh, Hôn Nhân Và Gia Đình, Nxb Đông Phương,
tr. 60.
[4] Jean Louis Bruges, Từ Điển Luân Lý Công Giáo cuốn thượng A-L, Nxb không rõ, 1991, tr. 407.
[6].http://baotintuc.vn/y-kien/vi-sao-ly-hon-tang
0110216163520388.htm , truy cập ngày 3/10/2016.
[7] x. Cao Mai Trần, Chuẩn Bị Tiến Vào Thế Kỷ XXI…, tr. 181-183.
[8] X. Gm. Nguyễn Thái Hợp, OP., Một Cái Nhìn Về Giáo Huấn Xã Hội Công Giáo,
Nxb Phương Đông, 2010, tr. 422.
[9] https://vi.wikipedia.org/wiki/John_Donne,
truy cập ngày 3/10/2016.
[11] X. https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A1o_h%C3%A0nh_gia
_%C4%91%C3%ACnh , truy cập
ngày 4/10/2016.
[12] Sđd.,
[13] Sđd.
[14] X. http://www.thongthienhoc.com/y%20hoc%20bao%20hanh%20
trong%20gia%20dinh.htm , truy cập ngày 5/10/2016.
[17] x. Sđd.
[19] Sđd.,
[20] http://thamvantamly.net/101/1730/tu-van-tam-ly-hon-nhan/10-nguyen
-nhan-khien-hon-nhan-do-vo.htm , truy cập ngày 5/10/2016.
[21] X. HĐGMVN, UBBAXH, Tóm Lược Học Thuyết Xã Hội Của Giáo Hội Công
Giáo, NxbTG, 2007, tr. 167-168.
[22] X. Sách
Giáo Lý HTCG số 2364.
[23] X. Lm. An Phong Nguyên Công Vinh, Tình Yêu Hôn Nhân, tr. 95.
[24] X. Sđd., tr. 117.
[25] X. Lm. Giuse Phạm Quốc Văn, OP., Từ Cạnh Sườn Bị Đâm Thâu, Bí tích học
chuyên biệt, lưu hành nội bộ, 2012, tr. 345.
[26] X. Lm. An Phong Nguyễn Công Vinh, Tìm Hiểu Giáo Luật Về Hôn Nhân Và Gia Đình,
NxbTG Hà Nội, 2006, tr.15.
[27] X. Sách Giáo Lý HTCG, số 1644.
[28] X. http://xuanha.net/Giaohoang/gp2-Familiarisconsortio-tiengviet.htm
, truy cập ngày
5/10/2016.
[29] Lm. Luy Nguyễn Anh Tuấn, chuyển ngữ, Tình Yêu Và Hôn Nhân, Nxb Phương Đông,
2008, tr. 241.
[30] X. Phan Tấn Thành, Về Nguồn, tập 2, chân lý, 1998, tr. 267.
[31] X. Sđd., 74.
[32] Lm.P. Trần Mạnh Hùng - DCCT, Một Số Vấn Đề Luân Lý Trong Đời Sống Hôn
NHân Gia Đình, NxbTP.HCM, 1998, tr.18.
[33] X. Sđd., 19-20.
[34] X. Tóm
lược Học Thuyết Xã Hội…, tr. 160,165, 178, 182,185.
[35] Lm. An Phong Nguyễn Công Vinh, Tinh Yêu Hôn Nhân…, tr. 60-61.
[36] X. Lm.P. Trần Mạnh Hùng…, tr. 36.
[37] https://fr.wikipedia.org/wiki/Manon_Roland
, truy cập ngày 11/10/2016.
[38] X. Công Đồng Vaticanô II, GS
số 17.
[39] X. Công Đồng Vaticanô II, GS
số 29.
[40] X. Đạo
Đức Học Kitô Giáo, Thần Học Luân Lý Dưới Ánh Sáng Công Đồng Vaticanô II, Thần Học Luân Lý chuyên biệt 3, tủ sách
chuyên đề, Nxb không rõ, 1986, tr. 32.
[41] X. http://ngoisao.net/tin-tuc/hau-truong/12-vu-ly-hon-on-ao-cua-sao-viet-2558192.html
, truy cập ngày 6/10/2016.
[42] X. Cao Mai Trần, Chuẩn Bị Tiến Vào Thế Kỷ 21..., tr. 195-196.
[43] X. Sđd., tr. 196-197.
[45] HĐGMVN, UBBAXH, Tóm Lược Học Thuyết Hã Hội Của Giáo Hội Công Giáo, NxbTG,
2007, số 213, tr. 166.
[46] X. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông
Huấn Christifideles-Laici - Kitô Hữu Giáo
Dân, 1998, số 40.
[47] http://tamlyhoctoipham.com/lam-nao-de-lua-chon-ban-doi/,truy
cập 8/10/2016.
[48] http://www.baihocthanhcong.com/lua-chon-ban-doi/10-tieu-chuan-chon-ban-doi/
, truy cập ngày 8/10/2016.
[49] X. http://tamlyhoctoipham.com/lam-nao-de-lua-chon-ban-doi/
, truy cập ngày 8/10/2016.
[50] X. Trung Tâm Thần Học Sedes Sapientiae, Quê hương tôi có truyện trầu cau, tr.
56-57.
Đăng nhận xét