Người sống đời sống
thánh hiến
hiện hữu ở ngay giao điểm của sự đảo ngược Tin Mừng.
Đời sống “có phúc” của người sống đời thánh hiến
thiết yếu gắn với hành trình thập giá-Phục sinh,
gắn liền với sự từ bỏ liên lỉ, sám hối liên lỉ,
để đi vào quy trình đảo ngược kỳ diệu của ơn cứu độ.
hiện hữu ở ngay giao điểm của sự đảo ngược Tin Mừng.
Đời sống “có phúc” của người sống đời thánh hiến
thiết yếu gắn với hành trình thập giá-Phục sinh,
gắn liền với sự từ bỏ liên lỉ, sám hối liên lỉ,
để đi vào quy trình đảo ngược kỳ diệu của ơn cứu độ.
Lm. Giuse Nguyễn Trọng Viễn O.P.
Cha ông ta thường nói “tu là cõi phúc”. Chắc hẳn
nhiều bậc ông bà, cha mẹ khuyên con cháu đi tu cũng có
suy nghĩ mang máng như thế, và rất có thể cũng có một số người đi vào đời tu để
tìm thứ cõi phúc giông giống như vậy.
Tuy nhiên, có lẽ không nên dễ dàng suy
nghĩ đến thứ “hội nhập văn hóa” để quảng diễn sứ điệp Tin Mừng theo đường lối ấy.
Người Việt Nam nói riêng và các dân tộc ngoài Sách Thánh nói chung, chẳng những
không có một quan niệm về thế giới siêu nhiên, và chắc chắn lại càng không có
được một chân trời của Nước Thiên Chúa như trong Tân Ước. Do đó, “cõi phúc” mà
cha ông ta nói đến có lẽ bao gồm nhiều nội dung của một của một thứ an nhàn,
vang vọng ý nghĩa của một lý tưởng siêu thoát, đạt được một sự “an nhiên tự tại”
trong bản thân mình… Những điều như thế xuất phát từ tư tưởng giác ngộ, hoặc
tùy thuộc vào khả năng làm chủ bản thân, hoặc gặp được duyên may trong dòng cuộc
sống… chứ không phải do mối liên hệ ngã vị như trong linh đạo Do Thái – Kitô
giáo. Vì thế, hồng ân của đời sống thánh hiến dễ bị hiểu lầm….
1.
Trên nền tảng Kitô giáo
1.1
Hai loại “phúc”
Nếu trở lại với Tin Mừng của Đức
Giêsu, nhất là với Bài Giảng Trên Núi, ta sẽ thấy một sự đảo ngược kỳ lạ của
Tin Mừng. Sự đảo ngược ấy cho thấy sự khác biệt, có khi được diễn tả gần như đối
nghịch giữa hai chữ phúc; cái phúc của Tin Mừng khác biệt hoặc đảo ngược cái
phúc của người đời. Tính cách đảo ngược ấy quan trọng đến độ ta có thể nói một
khi người Kitô hữu chưa thấy được tính cách đảo ngược (métanoia) của Tin Mừng,
so với cách hiểu của người đời, thì nguy cơ hiểu sai, hoặc hiểu chưa tới, sẽ
chiếm phần trăm khá lớn.
Mặt khác, trong tư tưởng ngoại giáo, khi con người có được
ánh sáng giác ngộ, hoặc đạt được khả năng làm chủ bản thân vững chắc thì con
người ấy đạt được một “đẳng cấp” vững bền, một tình trạng “dư đầy” của chính
mình. Từ đẳng cấp ấy, người “đắc đạo” có thể siêu vượt, an toàn trước những biến
động ở bên ngoài…. Trong khi đó, hành trình sống mối phúc Kitô giáo thì chẳng
bao giờ đưa tới một năng lực vững bền; chẳng bao giờ người tín hữu có thể an ổn
ở “đẳng cấp” cao mà “khinh địch”… Ở cội nguồn, năng lực cho hành trình đức Tin
lại bao hàm thái độ chân nhận sự “thiếu thốn” của chính mình. Linh đạo Kitô
giáo mang dáng dấp ngược đời : “Vì khi
tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10), được tha thứ nhiều thì yêu mến
nhiều (X. Lc 7,47)….. Thế đứng ấy của người Kitô hữu không phải là một dáng dấp
hùng dũng trên “đôi chân” của mình, mà là chơi vơi trên “giây treo”, gắn liền
hành trình của mình với một Thực Tại tuyệt đối. Tình trạng này làm cho thế đứng
của người Kitô hữu chẳng những không có được trạng thái vững bền tự tại, nhưng
gắn liền với tâm trạng “kính sợ”. Đây không phải là thứ “sợ” về một “đối tượng”
đe dọa bên ngoài, mà là thứ “sợ” về sự bấp bênh của bản thân mình : “Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì
hãy coi chừng kẻo ngã”. (1 Cr 10,12). Đó là thứ sợ dựa trên tâm trạng “mắc
nợ nghĩa tình”, đưa đến lòng tri ân và thôi thúc phải “cẩn trọng” giữ gìn… Đây
là thứ “run rẩy” trước một hồng ân được tặng không, một hồng ân lớn lao mà
chính bản thân mình không được lấy công đức, tài năng, địa vị nào để đòi hỏi hoặc
đảm bảo được cho mình được… Hành trình đời sống đức Tin không phải là một chiến
tay đôi giữa “bản lĩnh tinh thần” nội tại và những “biến động” ngoại tại của thế
giới bên ngoài; nhưng là một hành trình trong thế tay ba, hành trình “đu giây”,
bám chắc vào “điểm mốc siêu việt” để lướt qua những gai góc vẫn luôn rình rập ở
dưới chân… Hành trình ấy thôi thúc người Kitô hữu, càng bám chắc vào điểm móc
trên cao và càng vươn cao hơn, thì lại càng tránh xa được hầm chông lởm chởm;
hành trình tiến đến gần “cảnh vật thần linh” thì càng xa lành được “cảnh vật thế
gian”.
Nhưng cần lưu ý rằng, ở đây, “điểm mốc
siêu việt” không phải là một sự vật, sự vật hiểu như là những gì khác với ngã vị,
cho nên việc gọi là “bám chắc vào” không phải là nhờ vào năng lực của chính
mình, không phải là nhờ tới một phương pháp…, nhưng tùy thuộc vào ý muốn của ai
khác. Chính điều ấy, một cách nào đó, lại càng gia tăng tính bấp bênh của hành
trình đức Tin. Cũng cần lưu ý rằng tính cách “thế gian” ở đây không đồng nhất
hoàn toàn với thực tại trần thế; nhưng thế gian ở đây là “tinh thần thế gian”,
là thứ hư hoại lôi kéo thực tại thế gian, vốn tốt lành vì là tạo vật của Chúa,
rơi vào quy luật thực dụng, rồi rớt vào tình trạng sa đọa của satan. Hành trình
của đức Tin Kitô giáo không phải là một chiều hướng thoát tục, nhưng chính là
chiều hướng dấn thân.
1.2
Giống mà không giống
Có một cách hiểu quan trọng trong suy
tư Kitô giáo: suy tư loại suy (analogue), nghĩa là một thứ so sánh không phải dị
nghĩa (équivoque) mà cũng không phải đồng nghĩa (univoque). Đây là một thứ so
sánh do triết gia Aristote đề ra, nhưng được thánh Thomas nâng lên tầm quan trọng
đặc biệt để con người có thể hiểu về thế giới siêu nhiên và tìm ra nẻo đường đến
với Thiên Chúa.
Lý do sâu xa là, theo đức Tin Kitô giáo, Thiên
Chúa sáng tạo mọi sự trong Ngôi Lời (X. Ga 1,3); và Thiên Chúa cứu độ mọi sự
trong Ngôi Lời Nhập Thể (X. Ga 1,16). Nước Thiên Chúa, do đức Giêsu tỏ bày và
thông ban cho con người tiếp tục công trình đã được sáng tạo, sửa chữa lỗi lầm
do tội tổ tông gây ra, và nâng cấp lên một đẳng cấp cao hơn. Do đó, thực tại Nước
Trời vừa giống vừa khác với thực tại “tự nhiên”. Thánh Thomas đã nói lên châm
ngôn vàng : “…ân sủng không thủ tiêu, một
là kiện toàn tính tự nhiên…” (ST I, q.1, a.8, ad 2).
Như thế, chúng ta hiểu rằng tính cách
đảo ngược của Tin Mừng không phải là một sự ngang ngược, không phải xuất phát từ
một Thiên Chúa muốn khẳng định quyền bính trổi vượt của mình, muốn làm gì thì
làm, muốn đổi trắng thay đen tùy ý Ngài… Ngược lại, “cái lý”, “cái tình” của
Thiên Chúa cũng phản ảnh trong cái lý cái tình của tâm thức con người; cho nên
cách Thiên Chúa đảo ngược, nói chung, đối với lương tri ngay thẳng, sẽ đưa đến
cảm nhận thán phục vì điều tuyệt vời của Chúa, chứ không phải một thứ ngang ngược
ép buộc lý trí con người phải ấm ức chấp nhận. Nước Trời không phải là một thực
tại hoàn toàn xa lạ, và đời sống đức Tin Kitô giáo không phải là một thứ “đạo
chịu vậy”.
Cũng thế, đời sống thánh hiến là hành
trình xuất phát từ lòng khao khát vượt lên mà không loại bỏ những nhu cầu tự
nhiên nhất của bản chất người. Ba lời khấn của người sống đời sống thánh hiến,
một cách chính yếu, không phải là sự trốn chạy trần gian, nhưng là một sự dấn
thân, là chấp nhận và làm chứng về giải pháp Tin Mừng cho những thực tại căn bản
nhất của cuộc sống con người: của cải, tình yêu và chính trị. Giải pháp của Tin
Mừng vừa giống vừa khác với giải pháp trần gian, nghĩa là vừa nối tiếp, vừa gạt
bỏ những điều không thích hợp, vừa nâng cấp lên một đẳng cấp cao hơn.
Chỉ riêng trong lãnh vực những thực tại
căn bản của đời sống con người, của cải, tình yêu, chính trị, không kể những
lãnh vực của nề nếp tu trì, trách nhiệm học hành, lao động… người ta đã có thể
thấy đời sống thánh hiến quả thực là một hành trình thập giá. Điều đó không giống
với thứ phúc mà người đời thường nghĩ.
1.3
Khát vọng tuyệt đối
Đồng thời, vị thế nghèo khó lại thôi
thúc người Kitô hữu “tham lam” hơn nữa, mong ước nhiều hơn nữa, van xin những hồng
ân lớn lao hơn nữa. “Trong các ân huệ của
Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất…”. (1 Cr
12,31). Hành trình ấy là hành trình vươn lên không có điểm dừng, xét theo khả
năng lãnh nhận của con người. Hành trình ấy mở ra chân trời vô biên của Tuyệt Đối.
Mức độ của đời sống Kitô hữu nói chung, đặc biệt của người sống đời sống thánh
hiến là không có mức độ. Lập trường của người tín hữu không phải là “khéo ăn
thì no, khéo co thì ấm”, không phải là thái độ “liệu cơm gắp mắm”… nhưng một
cách nào đó, hơi giống với thái độ “được voi đòi tiên”… Chân trời mà Thánh Thần
Thiên Chúa mở ra trong tâm hồn người tín hữu thôi thúc vượt qua mọi nhãn giới
“đụng trần”, hoặc tự giới hạn những khao khát bên ngoài, để tìm sự an ổn, thanh
thản trong tâm hồn… Trên nền tảng linh đạo Kitô giáo, người sống đời sống thánh
hiến không thể đơn giản chỉ tìm cái phúc trong đời sống tương đối an nhàn,
trong sự thoát khỏi những xót xa của tình trường, trong vị thế được trọng vọng
ít nhiều, trong nét thanh thản bên ngoài của nề nếp tu trì.
Tâm trạng Kitô giáo vừa là một sự bình
an, lại vừa là tình trạp bấp bênh; nói đúng hơn là một sự bình an giữa những bấp
bênh và cả những sóng gió trong cuộc đời. Niềm bình an Kitô giáo không dựa vào
sự bình lặng bên ngoài, không phải nhằm tới một sự “yên hàn trong trật tự”,
nhưng được xây dựng trên lòng trông Cậy, được “bảo đảm” nhờ một Ai Khác chứ
không phải nhờ vào những cái gì. Nền tảng của sự bình an Kitô giáo là lời hứa của
Chúa, dựa trên nền tảng của giao ước và hướng tới một thực trạng “thuộc về
nhau”.
2.
Hành trình của mối phúc Kitô giáo
Đời sống thánh hiến là một hiện hữu ở
ngay giao điểm của sự đảo ngược Tin Mừng. Do đó, người sống đời sống thánh hiến
luôn phải chiến đấu, một cuộc chiến đấu gay gắt, đụng chạm đến những thực tại
thiết thân nhất của đời sống con người. quả thật, cái phúc của đời sống thánh
hiến Kitô giáo không phải là thứ phúc trong quan điểm đời thường hoặc quan điểm
của “thế gian”; nhưng cũng không phải là một thứ phúc xa xôi, lạ lẫm với thực tại
con người.
Để đạt được mối phúc của Tin Mừng, con
người không thể tự mình tu luyện hay giác ngộ, nhưng cần đến một hồng ân tặng
không của Thiên Chúa. Đời sống thánh hiến là một hồng ân tặng không và hồng ân
này bao gồm một “hành trình” không đơn giản.
2.1
Từ tầng sự kiện đến tầng ý nghĩa
Điều dễ thấy và điều đầu tiên con người
cảm nhận được chính là những thực tại “hữu hình” trong thế giới này. Ta tạm gọi
đó là thế giới trên tầng sự kiện, tức những gì xẩy ra trong khung cảnh của thế
giới thường ngày, được xác định trong hệ thống không gian và thời gian. Sung sướng
chẳng hạn, là một thực tại trên tầng sự kiện. Sung sướng là điều có thể đo đếm
được. Mối phúc đời thường phần lớn là những gì thuộc về tầng sự kiện mả bất cứ
người nào cũng có thể thấy một cách rõ ràng, có thể xác định chính xác. Tuy
nhiên, tầng sự kiện không phải là tất cả thực tại đời người. Tầng sự kiện của đời
sống là một chuỗi những biến cố bất tận. Người ta giải quyết sự kiện này, rồi lại
gặp sự kiện khác, hết khó khăn này rồi lại khó khăn kia….để rồi kết thúc với
cái chết như một thực tại dở dang. Trên tầng sự kiện bản chất người không thể
nào thoát khỏi kết cục dở dang.
Do đó, “ngõ thoát” của đời người không
phải ở tầng sự kiện mà ở một thực tại khác mang phẩm giá người, thực tại của ý
nghĩa. Thật sự “ý nghĩa” không phải là cái gì thêm vào, không phải là điều viển
vông, không phải khía cạnh râu ria, tùy phụ, nhưng là điều mang lại “bản chất”
đích thực cho thế giới ở đẳng cấp người. Trong khi thực tại ở tầng sự kiện là
điều con người “phải” chấp nhận, thì ở thực tại ở tầng ý nghĩa là là điều biểu
lộ chủ thể tính, biểu lộ tính tự do và địa vị cao cả của con người giữa lòng thế
giới. Ý nghĩa là điều phải do chính con người, tuy không phải là sáng tạo nên,
nhưng vẫn là khám phá trong tự do của chính mình.
Ngoài khả năng dùng lý trí để thống trị
thế giới, con người còn có một khả năng khác, khả năng sống với những ý nghĩa
do chính tâm hồn con người “sáng tạo” nên. Có những điều tốt đẹp trên tầng sự
kiện nhưng lại là điều xấu xa hoặc nhục nhã đối với con người đứng ở tầng ý
nghĩa. Được ăn ngon thì thân xác thoả mãn, đó là sung sướng; nhưng có khi không
được ăn, thân xác khổ sở mà con người lại nhận được hạnh phúc, nhờ khám phá được
ý nghĩa chân thật và sâu xa…
Để đón nhận được mối phúc của Tin Mừng,
con người không thể chỉ đứng ở tầng sự kiện, nhưng cần phải biết “chìm” xuống tầng
ý nghĩa. Người ta chẳng bao giờ có quyền nói rằng : đi tu, được đủ ăn đủ mặc;
được học hành, được kính trọng, được cung phụng mọi sự…còn đòi hỏi gì nữa ? Tất
cả những điều ấy chỉ là những thực tại của tầng sự kiện. Chỉ ở trong “tầng” diễn
tả phẩm giá người, tầng ý nghĩa, người Kitô hữu mới có thể bước vào cánh cửa của
sự “đảo ngược Tin Mừng”.
2.2
Từ ý nghĩa về bản chất đến ý nghĩa tương quan ngã vị
Vị thế của con người giữa lòng thế giới
là thế đứng chênh vênh giữa hai thực tại, như triết gia B. Pascal từng cảm nhận
: “Con người không phải là thiên thần, cũng không phải là thú vật” (Les
Pensées, s. 176); con ngưòi “là hư vô đối với vô hạn, là tất cả đối với hư vô,
là một trung điểm giữa hư vô và tất cả” (Les Pensées, s. 84)… Con người hiện diện
giữa thế giới không phải như thực tại bên cạnh những thực tại khác. Con người vừa
mang bóng dáng một vị thần thống trị, đặt tên cho muôn vật (X. St 2, 19-20), lại
vừa đứng trước cám dỗ muốn tự mình quy định thiện ác cho vũ trụ (St 3, 4-5). Do
đó, sự vật được trao cho con người để được “đặt tên”, nhưng con người vẫn phải
dùng tự do của mình mà đưa ra đáp án chân thực về “tên” của muôn vật. Tính chủ
thể của con người không phải là tuyệt đối. Nếu thế kỷ XX đã vượt qua được não
trạng coi con người là một bài toán thực nghiệm, nghĩa là con người không phải
là sản phẩm tất yếu của những phản ứng
khoa học thực nghiệm, khiến cho người ta trở nên sản phẩm của tất định
thuyết…; thì thế kỷ XX lại đưa con người và một thái cực khác, thái cực tự coi
mình là chủ nhân ông toàn quyền trên thế giới. Theo đó, ý nghĩa về bản chất sự
vật thuộc về tự do hoặc thuộc về một thứ giá trị mà con người ngẫu hứng gán cho
sự vật…
Tuy nhiên, thật sự con người không tự
sáng tạo nên chính mình, nhưng được sáng tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa (X.
St 1,27). Điều thực sự làm thoả lòng con người cũng mang dáng vẻ Thiên Chúa, một
Thiên Chúa của tình yêu, nghĩa là mang tính chất của thứ tạm gọi là tương quan
ngã vị.
Đức Tin Kitô giáo mời gọi con người chủ
động, không phải để “sáng tạo” theo nghĩa tuyệt đối, mà là chủ động khám phá,
trong tự do, ý nghĩa của sự vật, đặc biệt là ý nghĩa trong mối tương quan ngã vị.
Bản chất của sự vật chỉ trọn vẹn ý nghĩa khi được con người sử dụng để tạo nên
mối tương quan chân thật với ai khác. Đối với con người như một chủ thể, cái
bánh, chẳng hạn, có thể sinh sôi vô cùng ý nghĩa : lương thực, sức lao động,
tài năng, đẳng cấp phú quý….; đó là tài năng lớn lao của con người. Nhưng chỉ
có ý nghĩa tương quan ngã vị chân thật mới có thể làm sáng lên bản chất người
và mang lại ý nghĩa đích thực của sự vật. Ở đây, bài toán của thực tại không phải
là chuyện tay đôi giữa con người với sự vật, nhưng là thế đứng “tay-ba” : người
trao tặng cái bánh - cái bánh - và người
lãnh nhận cái bánh…:
“Con
người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người
không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng…” (St 2, 20)
Thế đứng vượt trội của con người trong
thế giới không chỉ là khả năng của lý trí trừu tượng hơn con vật, không phải là
khả năng thống trị thế giới, nhưng nhất là ở chỗ con người có khả năng thổi ý
nghĩa nhân sinh, ý nghĩa tương quan ngã vị, ý nghĩa yêu thương cho sự vật. Vai
trò của con người không phải là hưởng thụ sự vật, mà là dùng sự vật để xây dựng
tình nghĩa, tình nghĩa nhân bản…
“ Con
người nói : phen này, đây là xương bổi xương tôi, thịt bởi thịt tôi !” (St
2, 23)
2.3
Từ ý nghĩa tự nhiên đến ý nghĩa siêu nhiên
Khát vọng tuyệt đối trong tâm hồn con
người, con người mang hình ảnh Thiên Chúa, sẽ là động lực đưa hành trình đời
người và một nẻo đường siêu việt tuyệt đối, nẻo đường tìm về với Thiên Chúa.
Nhân học Kitô giáo cho thấy con người được sáng tạo nên “giống hình ảnh Thiên
Chúa”, điều đó bao hàm ý nghĩa sâu xa rằng con người chỉ có thể hoàn thành cuộc
đời mình khi “chơi với Chúa”. Nói cách khác, ý nghĩa tương quan ngã vị mà con
người khám phá ra trong thế giới con người với nhau chỉ có thể được hoàn tất
khi đạt đến mối tương quan ngã vị với Chúa, chứ không phải bị sa đà vào mối
tương quan thực nghiệm của mỗi người với sự vật vô ngã. Công đồng Vatican II diễn
tả ơn gọi mang tính siêu nhiên của con người:
“Thực vậy, mầu nhiệm về con người chỉ thực
sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể” (MV 22)
Sự “hiện diện” của
nhãn giới “siêu nhiên” trong truyền thống Do
Thái - Kitô giáo là một nét độc đáo mà không nơi nào khác có được; và chỉ trong
nhãn giới siêu nhiên này, ý nghĩa hồng ân của đời sống thánh hiến mới được
tỏ lộ.
3.
Một hồng ân…
Người sống đời sống thánh hiến hiện hữu
ở ngay giao điểm của sự đảo ngược Tin Mừng. Đời sống “có phúc” của người sống đời
thánh hiến thiết yếu gắn với hành trình thập giá-Phục sinh, gắn liền với sự từ
bỏ liên lỉ, sám hối liên lỉ, để đi vào quy trình đảo ngược kỳ diệu của ơn cứu độ.
Người sống đời sống thánh hiến luôn mang vác những “cái dằm” trong thân xác như
thánh Phaolô mà chẳng bỏ đi được (2 Cr 12,7). Quả thật, để nhận ra được cái
phúc của Tin Mừng Nước Trời, người sống đời thánh hiến không thể nào không đón
nhận được chính Thần Khí của Đức Giêsu.
Con người sống theo tính tự nhiên thì không đón nhận những gì của Thần Khí
Thiên Chúa, vì cho đó là sự điên rồ; họ không thể biết được, bởi vì phải nhờ Thần
Khí mới có thể xét đoán. Nhưng con người sống theo Thần Khí thì xét đoán được mọi
sự, mà chẳng có ai xét đoán được người đó (1 Cr ,
14-15).
Hồng ân của đời sống thánh hiến không
phải là một thực tại rõ ràng mà ai cũng thấy được, người tu sĩ nào cũng đón nhận
được… : “Thật vậy, anh em đã chết, và sự
sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa” (Cl
3,3). Hồng ân ấy là một sự sống mới tiềm tàng, được tỏ lộ trong một hành trình
lịch sử, gắn liền với tính chủ thể của mỗi cá nhân, và nhất là luôn hàm chứa
thái độ “rộng mở” với thế giới siêu nhiên. Bầu khí của tu viện không phải là một
phương pháp đã hoàn hảo và tự an ổn trong chính mình, nhưng cần luôn rộng mở những
“cánh cửa” đợi chờ. Người sống đời sống thánh hiến cũng không phải là người cắm
đầu vào thực tại mang qui luật thực nghiệm của thế giới tự nhiên, nhưng là người
ngửa mặt đón chờ hồng ân tặng không của một Ai Khác.
Tạm kết
Nhìn lại đời sống thực tế của người sống
đời sống thánh hiến, ta cũng thấy khá rõ sự đảo ngược của tinh thần Tin Mừng. Hồng
ân đấy, nhưng cũng khổ cực đấy; vui đấy, nhưng cũng đầy rẫy nỗi đau đấy; được đấy,
những cũng mất đấy… Cuộc sống thánh hiến có hai hệ số thường tỷ lệ nghịch với
nhau : sung sướng và hạnh phúc. Khốn khổ cho những tu sĩ nào vừa không được
sung sướng mà cũng chẳng thấy hạnh phúc. Cũng khốn khổ cho những ai chỉ thấy có
sung sướng và tưởng đó là hạnh phúc thực…
Một cách nào đó,
nói đời sống thánh hiến là một hồng ân là đụng chạm đến thách đố căn bản của đời
sống đức Tin Kitô giáo, đụng chạm đến phẩm tính căn bản của đức Tin Kitô giáo,
đụng chạm đến sinh-huyệt, hoặc tử-huyệt của đời sống thánh hiến trong Giáo hội
tại Việt Nam.
Đăng nhận xét