Thách đố trở nên những người kiến tạo tình hiệp thông

Sự hiệp thông huynh đệ mang tính nội tại
của đời sống thánh hiến trong các cộng đoàn.
Mỗi cá nhân, trong tư cách là những nhân vị, có quyền
và cũng đòi hỏi trách nhiệm và bổn phận với cộng đoàn.
Đinh Trí Dũng, OP.

 Trong Tông thư gửi tất cả các người tận hiến nhân dịp năm đời sống thánh hiến (21.11.2014), Đức Thánh Cha Phanxicô viết rằng:
Các tu sĩ và những người được tận hiến được mời gọi trở nên những “chuyên viên hiệp thông”. Vì thế, tôi mong rằng “linh đạo hiệp thông” mà thánh Gioan Phaolô II đã chỉ ra, sẽ trở thành thực tại, và anh chị em sẽ là những người đầu tiên đón nhận ‘sự thách đố lớn lao ở trước mặt’ trong ngàn năm mới: “làm cho Giáo hội là ngôi nhà và trường học của hiệp thông.”[1]
Do vậy, những người sống đời thánh hiến được mời gọi trở nên những con người của sự hiệp thông. Việc sống tình hiệp thông ngày nay quả là một thách đố lớn lao cho các người sống đời tận hiến. Bên cạch những thách đố khác, thách đố kiến tạo tình hiệp thông trong cộng đoàn cần được nhấn mạnh hơn hết trong đời sống thánh hiến, vì đó là dấu chứng cho sự hiện diện của Nước Thiên Chúa ngay giữa lòng thế giới hôm nay.
1. Đời sống thánh hiến trong mầu nhiệm hiệp thông Ba Ngôi
Mở đầu Tông huấn Vita consecrata, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho thấy mối liên hệ đời sống thánh hiến với mầu nhiệm Ba Ngôi rất sâu sắc:
Đời sống thánh hiến, bén rễ sâu trong gương sống và giáo huấn của Chúa Kitô, là một ân huệ Thiên Chúa Cha ban cho Giáo hội Người qua trung gian của Thánh Linh... Qua các thời đại, luôn có những người nam nữ sẵn sàng nghe theo tiếng gọi của Chúa Cha và sự thúc đẩy của Thánh Linh, đã chọn con đường đặc biệt để bước theo Đức Kitô để tự hiến cho Chúa với một con tim không chia sẻ... Như thế họ đã góp phần vào việc biểu lộ mầu nhiệm và sứ mạng của Giáo hội bằng muôn vàn đặc sủng thuộc đời sống tâm linh và tông đồ mà Thánh Linh đã ban cho họ, và nhờ đó, họ cũng góp phần vào việc canh tân xã hội.[2]
Tiếp theo, ở chương II với tựa đề Signum Fraternitatis, Đời sống thánh hiến, dấu chỉ hiệp thông trong Giáo hội, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho thấy rằng ý tưởng chủ chốt thông hiệp (koinonia, communio) bắt nguồn từ sự thông hiệp Ba Ngôi Thiên Chúa:
Đời sống huynh đệ, nhờ vậy những người được thánh hiến cố gắng sống “một lòng một ý” trong Đức Kitô (Cv 4,32), cũng là một lời tuyên xưng về Ba Ngôi đậm đà ý nghĩa. Đời sống huynh đệ tuyên xưng Chúa Cha, Đấng muốn cho mọi người thành một gia đình duy nhất; tuyên xưng Chúa Con nhập thể, Đấng quy tụ những người được cứu chuộc và chỉ cho thấy con đường hợp nhất bằng gương sáng, kinh nguyện, lời nói và nhất là bằng cái chết của Người, là nguồn mạch ban ơn hòa giải cho nhân loại đã bị chia rẽ và phân tán; tuyên xưng Chúa Thánh Thần là nguyên lý hiệp nhất trong Giáo hội, nơi mà Người không ngừng khởi xướng những gia đình thiêng liêng và những cộng đoàn huynh đệ[3].
Trong số các văn kiện Toà thánh bàn về đời sống cộng đoàn, Huấn thị Đời sống Huynh đệ trong cộng đoàn, do Bộ các hội dòng tận hiến và tu đoàn tông đồ phát hành ngày 02/02/1994, cho thấy rõ nguồn gốc của đời sống huynh đệ trong đời sống thánh hiến họa lại hình ảnh sống động và ý muốn của Ba Ngôi Thiên Chúa:
Vì thế, không thể nào hiểu được cộng đoàn tu trì nếu chúng ta không bắt đầu từ bản chất của cộng đoàn như là một ân huệ trên cao ban xuống, như một mầu nhiệm, bắt nguồn từ chính trọng tâm mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi chí thánh và là Đấng thánh hóa, Đấng hằng mong muốn cộng đoàn tu trì trở nên thành phần của mầu nhiệm Giáo hội nhằm phục vụ đời sống con người...Thiên Chúa, Đấng sáng tạo, đã mặc khải chính Người là Tình Yêu, là Ba Ngôi, là Sự Hiệp Thông, đã mời gọi họ tham dự vào mối tương quan thâm sâu với chính Người và vào mối hiệp thông liên vị trong tình huynh đệ đại đồng giữa người với người.[4]
Lại nữa, khi bàn về đời sống huynh đệ trong cộng đoàn, Bộ các hội dòng tận hiến và tu đoàn tông đồ đã nhấn mạnh tầm quan trọng chiều kích mầu nhiệm của cộng đoàn tu trì như sau:
Cộng đoàn tu trì không đơn thuần là tập hợp các Kitô hữu để tìm kiếm sự hoàn thiện cá nhân. Sâu xa hon nhiều, đó là sự thông phần và là chứng ta đặc biệt của Giáo hội mầu nhiệm, bởi vì nó là biểu hiện sống động là sự hoàn thành ưu việt của “sự thông hiệp” đặc biệt, koinonia, của Ba Ngôi cao cả; Chúa Cha muốn những người nam và người nữ được dự phần vào sự sống thông hiệp đó, trong Chúa Con và Chúa Thánh Thần.[5]
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cũng nhắc đến mối liên hệ giữa việc sống đời thánh hiến với mầu nhiệm Ba Ngôi như sau:
Trong đời sống thánh hiến, các Kitô hữu dưới tác động của Thánh Thần, sẵn sàng theo sát Đức Kitô hơn, tự hiến cho Thiên Chúa là Đấng được yêu mến trên hết mọi sự và theo đuổi đức ái hoàn hảo để phục vụ Nước Trời, bày tỏ và loan báo trong Hội Thánh sự vinh quang của thế giới tương lai.[6]
Tiếp nữa, trong tông thư gửi tất cả các người tận hiến nhân dịp năm đời sống thánh hiến (21/11/2014), Đức Thánh Cha Phanxicô cũng nói đến Chúa Ba Ngôi như khuôn mẫu cho tình hiệp thông trong cộng đoàn:
Anh chị em hãy sống huyền nhiệm của sự gặp gỡ: “khả năng lắng nghe người khác, khả năng cùng nhau tìm ra con đường, phương pháp”, hãy để cho mình được chiếu sáng bởi mối tương quan tình yêu đã xuyên qua Tam Vị (xc. 1 Ga 4, 8) như khuôn mẫu cho mọi tương quan liên bản vị[7].
Như vậy, đời sống thánh hiến bén rễ sâu trong mầu nhiệm Ba Ngôi và từ mầu nhiệm hiệp thông của Ba Ngôi, người tận hiện nhận ra những phương cách hữu hiệu và thích hợp để kiến tạo sự hiệp nhất trong cộng đoàn mình.
2.      Sự cần thiết của hiệp thông cộng đoàn trong đời sống thánh hiến và trong Giáo hội
Trong văn kiện “Tu sĩ và sự thăng tiến con người”, Bộ các tu hội tận hiến và tu đoàn tông đồ đã nêu bật tính cách hiệp thông trong cộng đoàn như chứng từ sống động của đời sống tận hiến:
Do kinh nghiệm hằng ngày về sự hiệp thông đời sống, kinh nguyện, tông đồ, được coi như yếu tố căn bản và đặc biệt của hình thức đời sống thánh hiến, các tu sĩ tạo thành một “dấu chỉ hiệp thông huynh đệ.” Thật thế, trước một thế giới chia rẽ trầm trọng, và trước mặt cả những anh em trong niềm tin, họ chứng minh khả năng của sự hiệp thông của cải, tình yêu huynh đệ, kế hoạch đời sống và hoạt động, có thể có được là nhờ đã biết đón nhận lời mời gọi tự do theo Chúa Kitô sát hơn, Đấng đã được Chúa Cha sai đến để trở thành trưởng tử của một đoàn em đông đúc, hầu thiết lập một sự hiệp thông huynh đệ mới nhờ hồng ân của Chúa Thánh Thần”[8]
Chân phước Giáo Hoàng Phaolô VI nhấn mạnh sự cần thiết của đời sống hiệp thông huynh đệ trong đời sống dâng hiến như sau:
Nếu có ít nhiều tu sĩ tỏ ra chán ngán đời sống cộng đoàn thì ai sẽ đem lại cho họ sự phát triển? Phải chăng trong đời sống cộng đoàn họ đã không tìm được mối thông cảm nuôi dưỡng niềm hy vọng? Không còn ai nghi ngờ được rằng tinh thần nhóm, những mối liên lạc huynh đệ, sự tương trợ trong cũng một hoạt động tông đồ, cũng như sự nâng đỡ lần nhau trong đời sống chung đa lựa chọn để phụng sự Đức Kitô một cách hoàn hảo hơn, là nguồn trợ lực quý giá trong đời sống hằng ngày.[9]
Tiếp đến, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho thấy tầm quan trọng của tình yêu huynh đệ trong cộng đoàn có giá trị lớn lao ra sao trong đời sống thánh hiến khi ngài viết:
Khi thường xuyên cổ võ tình yêu huynh đệ, nhất là dưới dạng đời sống chung, đời thánh hiến cho thấy rằng việc tham dự vào tình hiệp thông Ba Ngôi có thể thay đổi những mối tương quan nhân loại, và tạo ra một kiểu tình liên đới mới. Nhờ thế, đời thánh hiến làm cho loài người thấy được vẻ đẹp của sự hiệp thông huynh đệ và của những con đường cụ thể đưa tới đó. Quả thế, những con người tận hiến sống “cho” Thiên Chúa và sống “bởi” Thiên Chúa, và chính vì thế, họ có thể tuyên xưng quyền năng hòa giải của ân sủng, là tiêu diệt các lực lượng gây chia rẽ nằm trong trái tim con người và trong những tương quan xã hội.[10]
Tiếp đó, trong bài giáo huấn về đời sống thánh hiến, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng tái khẳng định vai trò quan trọng của đời sống hiệp nhất huynh đệ trong cộng đoàn:
Công Đồng nói về ‘sự hiệp nhất về tinh thần’. Đó là sự hiệp nhất cắm rễ sâu trong Chúa Thánh Thần, Đấng tuôn đổ tình yêu vào lòng chúng ta và thúc giục những người khác biệt cùng giúp nhau trong hành trình tiến tới sự trọn hảo, thiết lập và duy trì giữa họ bầu khí đoàn kết và hợp tác. Cũng như Chúa Thánh Thần đã bảo đảm sự hiệp nhất trong toàn thể Giáo hội thế nào, thì Ngài cũng thiết lập và duy trì sự hiệp nhất, kể cả dưới hình thức chặt chẽ, trong cộng đoàn đời thánh hiến như vậy.[11]
Ngoài ra, sự hiệp thông huynh đệ trong cộng đoàn còn góp phần củng cố, canh tân và làm phong phú đời sống Giáo hội. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho thấy ý nghĩa quan trọng của việc sống hiệp thông nơi người tận hiến đối với Giáo hội khi viết:
Những người tận hiến được yêu cầu trở thành những chuyên viên về hiệp thông và thực hành linh đạo hiệp thông, như ‘những chứng nhân và những người kiến tạo kế hoạch hiệp thông, đỉnh cao của lịch sử nhân loại theo ý muốn của Thiên Chúa’. Cảm thức về hiệp thông trong Giáo hội, khi trở thành linh đạo hiệp thông, cổ võ một lối suy nghĩ, nói năng và hành động giúp cho Giáo hội tiến về chiều sâu và chiều rộng. Quả thật, đời sống hiệp thông trở thành một dấu chỉ cho thế giới và một sức mạnh thu hút người ta tin vào Đức Kitô… Như thế, sự hiệp thông đưa tới sứ vụ, và biến thành sứ mạng, hoặc đúng hơn “sự hiệp thông sinh ra sự hiệp thông và chủ yếu của nó là hiệp thông sứ vụ.”[12]
Sự hiệp thông của những người tận hiến góp phần thúc đẩy sự hiệp thông huynh đệ trong Giáo hội phổ quát. Thật vậy,
Những người tận hiến được kêu gọi trở thành chất men hiệp thông sứ vụ trong Giáo hội phổ quát, vì các đoàn sủng khác nhau của các tu hội khác nhau được Chúa Thánh Thần ban cho là để mưu ích cho toàn Nhiệm Thể, nên họ phải phục vụ công việc của Nhiệm Thể”[13] hay “Giáo hội ký thác cho các cộng đoàn sống đời thánh hiến bổn phận đặc biệt: đó là phát triển linh đạo hiệp thông trước tiên trong chính cộng đoàn của họ, kế đến trong cộng đồng Giáo hội và vượt cả biên giới này nữa, bằng cách kiên trì theo đuổi cuộc đối thoại bác ái, nhất là tại những nơi hiện đang bị xâu xé bởi sự hận thù chủng tộc hay nạn bạo lực điên rồ… các cộng đoàn sống đời thánh hiến, nơi mà những con người khác nhau về tuổi tác, ngôn ngữ và văn hóa lại gặp nhau như những anh em chị em, trở thành những dấu chỉ chứng minh rằng luôn luôn có thể đối thoại được với nhau, và có thể hài hòa được nhờ có hiệp thông.[14]
3. Thách đố
          trở nên những người kiến tạo tình hiệp thông
Những chuyển biến mau lẹ của xã hội hiện đại tạo nên những thách đố không nhỏ cho những người sống đời thánh hiến. Họ phải giữ được sự cân bằng trong các mối tương quan: với Chúa, với cộng đoàn, với bản thân và với tha nhân qua sứ vụ của mình. Đây không phải là điều dễ thực hiện nếu không có ơn Chúa và sự phân định đúng đắn nơi những người tận hiến. Những thách thức của xã hội hiện nay có thể gây nên những khó khăn đòi hỏi những người sống đời thánh hiến phải vượt qua nhưng chúng cũng đưa đến những cơ hội quý báu cho việc canh tân và thúc đẩy sứ vụ của Giáo hội nơi những người sống thánh hiến.
a. Những thách đố ngoại tại của việc sống linh đạo hiệp thông
Tác động của hoàn cảnh xã hội mới trong đời sống huynh đệ cộng đoàn
Trước đây, môi trường hoạt động chẳng hạn như công tác xã hội, y tế, giáo dục thường gắn liền với những hoạt động của các tu sĩ. Rất nhiều những cơ sở như trường học, bệnh viện và tổ chức bác ái do các tu sĩ đứng ra điều hành và trông coi. Thế nhưng, trong những thập niên gần đây, số lượng các cơ sở hoạt động như thế đang có chiều hướng giảm sút đi, đặc biệt nơi các quốc gia phát triển ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Có nhiều nguyên do để lý giải sự sụt giảm trên: chẳng hạn như việc nhà nước tiếp quản những cơ sở như thế, số lượng tu sĩ giảm đi tại các quốc gia này khiến cho các trường học và bệnh việc bị quốc hữu hóa, mức độ “già hóa” nơi những cộng đoàn tu trì làm cho mức độ dấn thân giảm đi rất nhiều. Những cộng đoàn còn đông tu sĩ cố trụ lại và duy trì chứ ít có cơ hội phát triển và gia tăng.
Ngược lại, ở những cộng đoàn nhỏ hơn, nhiều tu sĩ đã nghĩ ra những đường hướng phục vụ Giáo hội mới và thiết thực hơn trước những nhu cầu của Giáo hội, xã hội và con người nên họ có thể bám trụ và phát triển tốt hơn. Những công tác mục vụ với sinh viên, di dân, doanh nhân, những người làm công tác truyền thông… là những môi trường mới để thi hành công tác mục vụ. Điều này mở ra những chân trời mới cho những người sống đời thánh hiến. Tuy nhiên, họ cần trưởng thành hơn để cân bằng giữa việc giữ đời sống cộng đoàn và việc tham gia sứ vụ của mình nếu không muốn bị vong thân và trở nên những người chỉ biết làm việc tông đồ mà quên đi căn tính đời tu. Mẹ Têrêsa đã từng nhắc nhở các chị em của mẹ rằng: “Chúng ta không phải là những nhân viên làm công tác xã hội mà chúng ta là những hiền thê của Đức Giêsu Kitô”. Đời sống hiệp thông với Chúa và với anh chị em trong cộng đoàn vẫn cần được duy trì và củng cố như nền tảng vững chắc nâng đỡ tòa nhà sứ vụ của người tu sĩ.
Sự gia tăng những đòi hỏi của con người thời đại
Việc gia tăng những đòi hỏi khẩn thiết hầu mục vụ cho những nhu cầu của Giáo hội và con người cần được lưu tâm nhưng không làm đánh mất tính cách hiệp thông cộng đoàn. Những công tác giúp đỡ những người nghèo, người nghiện, người tị nạn, người bị gạt ra bên lề xã hội, người tàn tật và bệnh nhân, người tri thức… không ngừng đòi hỏi các tu sĩ phải dấn thân hơn nữa trong các công tác mục vụ. Điều này đòi hỏi một sự đáp trả quyết liệt và hiến thân không ngừng để có thể mang Chúa đến cho con người thời đại.
Việc thay đổi những hình thức hoạt động tông đồ sao cho phù hợp với nhu cầu của Giáo hội và xã hội là cần thiết nhưng không thể bỏ qua nền tảng của đời sống thánh hiến. Hoạt động tông đồ không tách biệt tu sĩ ra khỏi cộng đoàn nhưng mời gọi họ sống mầu nhiệm hiệp thông trong chính cộng đoàn của mình. Thật vậy, “sự hiệp nhất huynh đệ loan báo Chúa Ki-tô đã đến và phát sinh một năng lực tông đồ mãnh liệt.”[15]
Cách suy nghĩ và lối sống trong môi trường tục hóa
Các tu sĩ thường xuyên làm việc trong những môi trường bị coi là tục hóa vì thiếu vắng đi ý thức về Thiên Chúa. Các chủ thuyết vô thần, bất khả tri và cá nhân chủ nghĩa được đề cao thái quá trong xã hội hiện nay. Những chủ thuyết này đa phần muốn khử thiêng tục hóa, loại bỏ Thiên Chúa và những gì là thiêng liêng mà chỉ gắn bó với những gì đã có và hiện có. Điều này làm suy yếu đi lý tưởng của đời sống cộng đoàn hiệp thông huynh đệ và sự dấn thân của các tu sĩ.
Thêm nữa, những chủ nghĩa hưởng thụ và chủ nghĩa khoái lạc dần len lỏi vào đời sống thánh hiến nơi các cộng đoàn. Do không bén rễ sâu trong đức tin và thích thượng tôn ý riêng, nên những người theo lối sống này thích sự an nhàn và thoái mái hơn là dấn thân và tận hiến cho sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo hội và cộng đoàn. Đây là một thách đố không nhỏ cho những cộng đoàn tu trì.
Vì thế, việc giáo dục tư tưởng nhân bản và đức tin là điều cần thiết để làm phát triển ý thức cộng đoàn và hiệp thông huynh đệ. Chính nhờ những cảm nghiệm thực sự về sự cố kết liên vị và tương quan, những người theo những chủ thuyết này mới dần có khả năng thoát ra khỏi cái “vỏ ốc” cố hữu của mình để sống tình huynh đệ bằng hữu chân chính.
b. Những thách đố nội tại của việc sống linh đạo hiệp thông
Một quan niệm mới về con người cần được lưu ý
Công đồng Vaticanô II nhấn mạnh nhiều đến giá trị của ngôi vị và những sáng kiến cá nhân trong đời sống cộng đoàn. Đây được coi như một nét son để giữ được sự quân bình đời sống cá nhân riêng tư và đời sống cộng đoàn. Đời sống huynh đệ cộng đoàn không phải là một cản trở cho việc phát triển nhân vị hay những sáng kiến hữu ích của cá nhân. Trái lại, đời sống huynh đệ cộng đoàn nâng đỡ và hiệu chỉnh những khả năng và sáng kiến này phù hợp với đời sống cộng đoàn hơn. Cũng vậy, mỗi nhân vị không phải là đơn lẻ nhưng là nhân vị có tính cộng đoàn, nghĩa là nhân vị trong tương quan. Không thể có chủ nghĩa độc tôn hay độc quyền trong đời sống huynh đệ cộng đoàn. Mọi người đều có quyền có tiếng nói, đều có quyền được biết và được đón nhận. Tuy nhiên, những sáng kiến hay những đổi mới này phải phù hợp và xây dựng trên tinh thần huynh đệ cộng đoàn, vì ích chung.
Vì vậy, sự hiệp thông huynh đệ mang tính nội tại của đời sống thánh hiến trong các cộng đoàn. Mỗi cá nhân, trong tư cách là những nhân vị, có quyền và cũng đòi hỏi những trách nhiệm và bổn phận với cộng đoàn. Thiếu đi ý thức trách nhiệm và tự do, người sống đời thánh hiến không thể xây dựng tình huynh đệ cộng đoàn chân chính được.
Điều quan trọng trong việc gây dựng tình hiệp thông huynh đệ là việc chấp nhận những sự khác biệt của người khác. Mỗi người là một huyền nhiệm và mỗi người là một ẩn số. Do vậy, những quá khứ, văn hóa, nghề nghiệp, gia đình, bạn bè, ý thức hệ… không phải là những thứ để mổ xẻ hay lên án, nhưng là những chất liệu để gầy dựng nên sự đa dạng phong phú trong đời sống chung. Chúng ta “hiệp nhất trong sự đa dạng”, điều này ngược với sự “đồng nhất tập thể”, tức là tất cả mọi người trong cộng đoàn đều phải như nhau.  
Cơ cấu tổ chức cần đổi mới
Sắc lệnh về canh tân thích nghi dòng tu Perfectae caritatis có nói đến một yêu cầu quan trọng trong việc xây dựng tình huynh đệ trong đời sống cộng đoàn nơi các người sống đời thánh hiến như sau: “Để tình huynh đệ giữa các tu sĩ được mật thiết hơn, hãy để những anh em trợ sĩ, hay gọi bằng những tên tương tự, được liên kết chặt chẽ hơn với cuộc sống và hoạt động của cộng đoàn.”[16]
Như vậy, đời sống cộng đoàn không phải có sự khác biệt về lời khấn hay quyền lợi, nhưng khác nhau do việc phân phối các công tác đòi hỏi, công tác mà mỗi người lãnh nhận tùy theo ơn Chúa ban cho mỗi người. Chính khi sống như thế, cộng đoàn mới tạo nên sự đồng tâm nhất trí, một lòng một ý để thi hành sứ vụ và trở nên chứng tá cho sự hiện diện của Chúa giữa lòng thế giới.
Thêm nữa, một cơ cấu tổ chức quá nặng tính hình thức mà thiếu nội dung cũng đang bào mòn các cộng đoàn tu trì. Thay vì xây dựng tình thương, sự đối thoại và lòng bao dung trong cộng đoàn, nhiều người lại chủ trương xây dựng những “tường thành khép kín và kiên cố” trong những cơ cấu tổ chức. Nhân danh đức vâng phục, thay vì phục vụ lại dùng như một quyền lực riêng, nhiều bề trên và những người có trách nhiệm đang làm phân rẽ cộng đoàn và tạo nên những rạn nứt trong các tương quan với các anh chị em khác. Vì vậy, đời sống thánh hiến mời gọi kiến tạo sự hiệp nhất ngay tại chính cộng đoàn hơn là ở những môi trưởng bên ngoài. Qua đối thoại và nhờ sống phong phú tinh thần bác ái, người tận hiến nhận ra vẻ đẹp của Thiên Chúa hiện diện nơi cuộc đời xuyên qua những cảnh huống khác nhau và những cơ cấu khác nhau.
Thách đố của lối sống dửng dưng trong cộng đoàn
Một trong số những vấn nạn ngày nay nơi các tu sĩ là thái độ dửng dưng. Có lẽ họ vẫn có niềm tin vào Thiên Chúa nhưng đức tin đó chưa được bén rễ sâu và chưa được đào luyện. Mất đi cảm thức về những sự thánh thiêng thuộc về Thiên Chúa, nhiều tu sĩ cũng mất đi cảm thức thánh thiêng về con người. Họ chẳng thèm quan tâm đến những người xung quanh vì sợ mất lòng, vì sợ liên lụy, vì sợ làm phiền. Các tương quan liên vị trở nên yếu đi gây nên những xáo trộn trong cộng đoàn. Thái độ “mạnh ai nấy sống” làm mất đi tình huynh đệ chân chính.
Sự dửng dưng có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng sâu xa hơn hết là thói ích kỷ của bản thân. Thói xấu này bén rễ nơi việc đề cao chính bản thân mà quên lãng đi sự hiện diện của những người khác. Do đó, để tránh thái độ dửng dưng trong cộng đoàn cần phải xây dựng một nền văn minh tình thương dựa trên sự liên đới. Theo Đức Thánh Cha Phanxicô, đó là việc “đón tiếp và quan tâm lẫn nhau, thực hành sự chia sẻ những tài nguyên vật chất và tinh thần, sửa bảo huynh đệ, tôn trọng những người yếu đuối…”[17] Hay nói cách khác, chúng ta phải nhận ra rằng:
Không ai xây dựng tương lai một cách biệt lập, hoặc với sức lực riêng của mình, nhưng cần biết nhận ra chân lý của sự thông hiệp khiến ta mở rộng đến gặp gỡ, đối thoại, lắng nghe, giúp đỡ lẫn nhau, và như vậy giúp chúng ta phòng ngừa khỏi bệnh tự kỷ.[18]
Tóm lại, đời sống thánh hiến khởi phát từ tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi và được phong phú không ngừng nhờ sức tác động của Ba Ngôi. Một chứng tá sống động của đời sống thánh hiến cho thế giới hôm nay là chứng tá về sự hiệp thông huynh đệ trong cộng đoàn. Tu sĩ được mời gọi trước hết sống hiệp thông trong chính cộng đoàn của mình, sau đó chiếu tỏa niềm vui của sự hiệp thông đó đến cho mọi người. Thêm nữa, sự hiệp thông trong cộng đoàn những người sống đời thánh hiến còn góp phần củng cố và làm phong phú sự hiệp thông trong Giáo hội.
Với tư cách là những “chuyên viên hiệp thông”, những người tận hiến được mời gọi trở thành những chứng nhân và người kiến tạo “kế hoạch hiệp nhất” trong Giáo hội, trong cộng đoàn các tín hữu và trên thế giới. Những thách đố trong xã hội hiện nay mặc dù phần nào tạo nên những khó khăn cho việc sống đời thánh hiến nhưng cũng là cơ hội cho các tu sĩ khám phá và củng cố đoàn sủng của mình qua việc sống đời sống huynh đệ. Tu sĩ sẽ không thể nhận ra căn tính đích thực của mình khi chối bỏ đời sống huynh đệ cộng đoàn. Đời sống huynh đệ cộng đoàn là nguồn trợ lực cho việc thực thi sứ vụ đồng thời cũng giúp nuôi dưỡng và phát triển ơn gọi. Những yếu tố ngoại tại và những yếu tố nội tại cần phải được dung hòa sao cho hợp lý. Thêm nữa, người tận hiến cần bén rễ sâu trong tương quan với Thiên Chúa, Đấng yêu thương và trung tín muôn đời để có thể vượt thắng những thử thách, khó khăn và cám dỗ nguy hại của thời đại hôm nay. Quả thế, sự cân bằng trong đời tận hiến chỉ có được khi người tu sĩ sống đúng đắn các mối tương quan: với Chúa, với cộng đoàn, với bản thân và với tha nhân.



[1] Tông thư của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi tất cả các người tận hiến nhân dịp năm đời sống thánh hiến (21/11/2014), phần II, mục 3.
[2] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu thượng hội đồng giám mục về Đời sống Thánh hiến Vita Consecrata, số 1.

[3] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu thượng hội đồng giám mục về Đời sống Thánh hiến Vita Consecrata, số 21.
[4] Bộ các hội dòng tận hiến và tu đoàn tông đồ, Huấn thị Đời sống Huynh đệ trong cộng đoàn (2/2/1994), số 8 và 9.
[5] Ibid, số 2.
[6] GLHTCG, số 916.
[7] Tông thư của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi tất cả các người tận hiến nhân dịp năm đời sống thánh hiến (21/11/2014), phần I, mục 2.
[8] Bộ các hội dòng tận hiến và tu đoàn tông đồ, Văn kiện Tu sĩ và việc thăng tiến con người (12/8/1980), số 24.
[9] ĐGH Phaolô VI, Tông huấn “Chứng tá Phúc Âm”, (29/06/1971), số 39
[10] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu thượng hội đồng giám mục về Đời sống Thánh hiến Vita Consecrata, số 41.
[11] Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, bài giáo huấn số 11: Đời sống chung dưới ánh sáng Tin Mừng (14/12/1994), được ghi lại trong sách “Những văn kiện đời tu: Theo Chúa Kitô”, tập II, trang 63.
[12] ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu thượng hội đồng giám mục về Đời sống Thánh hiến Vita Consecrata, số 46.
[13] Ibid, số 47.
[14] Ibid, số 51.
[15] CĐ. Vaticanô II, Sắc lệnh về việc canh tân thích nghi Dòng tu Perfectae caritatis, (28.10.1965), số 15.
[16] CĐ. Vaticanô II, Sắc lệnh về việc canh tân thích nghi Dòng tu Perfectae caritatis, (28.10.1965), số 15.
[17] ĐGH Phanxicô, Tông thư của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi tất cả các người tận hiến nhân dịp năm đời sống thánh hiến (21/11/2014), phần II, mục 3.
[18] Ibid, mục 3.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn