Với ơn kính sợ, Chúa Thánh Thần tác động
trong toàn bộ chương trình huấn luyện một con người,
kể cả người huấn luyện.
Đứng trước hồng ân cao cả ấy của ơn thánh,
nhà đào tạo cũng như người thụ huấn cảm thấy bị thách đố. Khi nhà đào tạo cảm thấy sợ thật sự,
họ đang hụt hơi trong công tác đào tạo.
trong toàn bộ chương trình huấn luyện một con người,
kể cả người huấn luyện.
Đứng trước hồng ân cao cả ấy của ơn thánh,
nhà đào tạo cũng như người thụ huấn cảm thấy bị thách đố. Khi nhà đào tạo cảm thấy sợ thật sự,
họ đang hụt hơi trong công tác đào tạo.
Giuse Cù Hồng Phúc
Tu Hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn
DẪN NHẬP
Ai trong cuộc đời cũng có thể cảm nghiệm được rằng, từ khi được
sinh ra cho lúc đến chết đi, công việc vất vả nhất chính là học để làm người.
Đúng vậy, để trở nên một người trưởng thành là một hành trình dài có khi là cả
một đời người. Dĩ nhiên, không phải lớn tuổi là được gọi đã trưởng thành, có những
người tuổi còn nhỏ đã lớn, nhưng cũng không thiếu những người đã lớn nhưng vẫn
còn ấu trĩ. Quả là khó khăn!
Khó khăn hơn nữa khi chúng ta bàn đến việc đào tạo ra những tu sĩ,
linh mục cho hội Dòng và cho Giáo hội. Khi nói đến đào tạo chúng ta nghĩ ngay đến
một chương trình huấn luyện từ đệ tử đến nhà tập, khấn tạm, khấn trọn và thường
huấn. Chúng ta còn nghĩ đến những nhà huấn luyện, những người thụ huấn. Ngoài
ra còn có những môi trường đào tạo như cộng đoàn huấn luyện, mục vụ, truyền
giáo...
Tuy nhiên một nhâh tố không thể không nói đến trong huấn luyện
chính là Ba Ngôi Thiên Chúa. Chính Ba Ngôi là tác nhân chính trong tất cả công
trình huấn luyện mà Người đã khởi xướng và hoàn tất cho từng cá nhân. Trong đó
hoạt động của Chúa Thánh Thần làm cho người ta trở nên ngày càng giống tâm tình
của Chúa Giêsu hơn đã trở nên thiết thân và gần gũi hơn bao giờ hết. Với ơn
kính sợ, Chúa Thánh Thần tác động trong toàn bộ chương trình huấn luyện một con
người, kể cả người huấn luyện.
Đứng trước hồng ân cao cả ấy của ơn thánh, nhà đào tạo cũng như
người thụ huấn cảm thấy bị thách đố. Khi nhà đào tạo cảm thấy sợ thật sự, họ
đang hụt hơi trong công tác đào tạo. Khi người thụ huấn cảm nhận được sự sợ hãi
ngay sát bên mình, người thụ huấn đang chơi vơi trên đôi chân của họ, họ không
để cho ơn kính sợ hoạt động với tâm tình là người con thảo của Thiên Chúa, của
hội Dòng. Cứ như thế, ơn kính sợ đi vào trong chương trình huấn luyện cách cụ
thể của mỗi cá nhân, của mỗi giai đoạn đào tạo của các hội Dòng.
I.
VAI TRÒ CỦA CHÚA THÁNH THẦN
1.
Vai
trò của Chúa Thánh Thần trong huấn luyện
Từ khởi đầu, khi sáng
tạo con người giống hình ảnh của Chúa. Thiên Chúa đã uốn nắn dạy dỗ con người,
từ quyền sở hữu muôn loài, muôn vật, từ cách sử dụng những gì Thiên Chúa đã tạo
ra để phục vụ cho cuộc sống của mình. Cho đến khi con người đầu tiên ấy đã phá
vỡ tương quan mật thiết với Thiên Chúa, thế nhưng, Thiên Chúa đã không bao giờ
bỏ rơi con người.
Chương trình cứu độ của
Người đã bắt đầu được thực hiện khi Người tuyển chọn một dân tộc, khi Người
tuyển chọn một người Mẹ cho Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Và cho đến
hôm nay Thiên Chúa vẫn còn đang huấn luyện con người qua những hiện tượng thiên nhiên, qua những người sống
xung quanh, qua những “dấu chỉ thời đại” mà con người cần phải đọc ra.
Cách riêng trong việc huấn luyện, trong việc đào tạo các tu sĩ,
Chúa Cha uốn nắn người thụ huấn theo hình ảnh của Chúa Con, nhờ tác động của
Chúa Thánh Thần.[1] Có thể nói rằng, thời đại chúng ta đang sống là thời đại của
Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần nhắc lại những gì Đức Kitô đã rao giảng. Ngài
gắn kết các chi thể của Đức Kitô với những đặc sủng cho từng người. Đặc biệt
trong việc đồng hành thiêng liêng, cần phải đồng hành với Thánh Thần và trong
Thánh Thần, nghĩa là người đồng hành phải nhận ra và giúp cho người thụ hướng
nhận ra Thánh Thần đang hoạt động trong họ, để họ ngoan ngoãn bước theo đường lối Thánh Thần hướng dẫn,
và can đảm thực thi thánh ý Thiên Chúa.[2]
Chúa Thánh Thần tác động cả nơi người hướng dẫn lẫn người thụ huấn.
Qua bảy ơn thánh, Chúa Thánh Thần tác động cách đặc biệt trong môi trường huấn
luyện. Ơn kính sợ giúp con người tránh đi sự xúc phạm, sự làm buồn lòng
Thiên Chúa với tâm tình của người con thảo. Ơn đạo đức giúp con người nhận ra
Thiên Chúa thật sự là Cha của chúng ta và chúng ta trở nên con cái thật của
Người. Thánh Phaolô cũng đã xác quyết cho chúng ta: “chính Thần Khí chứng thực
cho thần trí của chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa”[3].
Ơn hiểu biết là ơn mà nhờ đó Chúa Thánh Thần đem đến cho chúng ta một sự phán đoán
ngay thẳng và vững chắc, về những sự thật thuộc trật tự suy cứu hoặc trật tự
thực tế, cũng như tất cả những gì đã được tạo dựng. Ơn sức mạnh đổ tràn vào
linh hồn một sự tin tưởng và một lòng dũng cảm siêu phàm, để nó hoàn thành
những việc trọng đại cho Thiên Chúa, vượt qua mọi hiểm nguy và mọi trở ngại và
kiên trì trong mọi thử thách đau thương. Ơn lo liệu là ơn mà nhờ đó Chúa Thánh
Thần hướng dẫn chúng ta trong các phương cách phải làm để đạt tới mục đích cuối
cùng của chúng ta. Ơn thông hiểu là một ánh sáng trội vượt mà nhờ đó Chúa Thánh
Thần ban cho linh hồn một sự hiểu biết thân mật về những sự thật siêu phàm,
bằng cách làm cho linh hồn hiểu được qua trực giác. Ơn khôn ngoan là một sự
hiểu biết bằng kinh nghiệm về những sự việc của Thiên Chúa, hoặc, một sự xức
dầu thiêng liêng, đem đến cho chúng ta sự hiểu biết về những sự việc của Thiên
Chúa, và cho ta được thưởng thức những điều đó.[4]
Chúng ta vừa đi qua cách tóm tắt bảy ơn thánh của Chúa Thánh Thần. Bảy ơn thánh
đi vào công cuộc huấn luyện cách hiển nhiên. Tuy nhiên ở đây chúng ta chỉ bàn
đến Ơn kính sợ trong công cuộc huấn luyện mà thôi.
2.
Tìm hiểu về ơn kính sợ
Bản chất của ơn
kính sợ
Theo tác giả Ernest
Manise, không thể có các ơn khác của Chúa Thánh Thần, nếu người ta chưa có ơn
kính sợ. Ý tưởng này đã được Kinh Thánh nói đến: “Đầu mối khôn ngoan là kính sợ Đức Chúa”.[5]
Quả thật theo một hướng đi lên, từ con người lên tới Thiên Chúa, thì ơn kính sợ
trở thành khởi điểm cho con người. Thánh Tôma đã phân biệt sự kính sợ của kẻ nô lệ và sự kính sợ
của người con thảo.[6]
Sự kính sợ của kẻ nô lệ chỉ nhìn thấy hình phạt phải chịu và chính
Thiên Chúa là tác giả của những hình phạt ấy. Chính khi sợ bị hình
phạt mà con người chạy đến Thiên Chúa, bám vào Thiên Chúa như là một phương
tiện tối ưu để tránh khỏi hình phạt.[7]
Sự kính sợ này không phải là xấu. Công đồng Trentô khẳng định như sau: “Sự lo
buồn, mà người ta thấy được trong sự sợ hãi hỏa ngục, là một ơn của Thiên Chúa,
và một hiệu quả của sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, Người muốn, nhờ phương thế
này, chuẩn bị con người cho việc tha tội cho nó”.[8]
Sự kính sợ của kẻ nô lệ tuy là đến từ Chúa Thánh Thần nhưng đó không phải là ơn
của Chúa Thánh Thần.
Sự kính sợ của tình con
thảo thì hoàn hảo hơn nhiều. Đối tượng của nó, không phải là hình phạt, mà là
sự xúc phạm, sự làm buồn lòng nó gây cho Thiên Chúa. Có một điểm tích cực hơn
nhiều so với sự kính sợ của kẻ nô lệ. Thế nhưng để đạt được sự kính sợ của tình
con thảo thường ta cần ngang qua sự kính sợ của kẻ nô lệ. Trong bản chất mỏng
dòn của con người, ta không thể tách rời hai sự kính sợ này.[9]
Ơn kính sợ là
khởi điểm cho hành trình huấn luyện
Điều đầu tiên trong việc
huấn luyện có lẽ là một sự hoán cải tận căn của người hướng dẫn cũng như người
thụ huấn. Sự hoán cải ấy đã được thể hiện nơi các vị thánh trong Giáo hội. Một
Phaolô hăng say bắt bớ những người tin vào Chúa Kitô trở thành một tông đồ
nhiệt thành trong việc loan báo Tin Mừng. Một Augustinô đắm mình trong những
hoan lạc trần thế trở thành một tiến sĩ Hội Thánh để lại cho hậu thế biết bao
kinh nghiệm và học thuyết về Thiên Chúa. Một Vinh sơn Phaolô chạy theo tiền tài
vật chất trong những năm đầu đời linh mục đã trở thành một tông đồ rao giảng và
giúp đỡ cho những người nghèo khổ nhất. Hầu hết tất cả các vị thánh đều có một
cuộc hoán cải tận căn như thế. Cho nên chúng ta để bàn về hay để thực hiện công
việc huấn luyện cũng cần có một sự hoán cải nhất định.
Chính ơn kính sợ sẽ khởi đầu cho sự hoán cải bằng
cách: 1/ Tội lỗi phải ra khỏi tâm hồn; 2/ Không bao giờ cho phép nó trở lại.[10]
Như chúng ta đã nói ở trên, tình cảm đầu tiên của người tội lỗi quay về với
Chúa chính là sợ sự công thẳng của Thiên Chúa. Đó là ơn của Thiên Chúa. Không
phải ai cũng có thể thấy được hình phạt để rồi quay về với Thiên Chúa. Thế
nhưng, điều cần thiết hơn là không cho tội
lỗi quay lại tâm hồn để rồi phải khốn hơn trước đây. Ơn kính sợ Chúa sẽ như là
kẻ canh gác không cho tội lỗi đến gần linh hồn chúng ta. Muốn được như thế,
chúng ta phải cảnh giác với những đam mê, xa lánh dịp tội, siêng năng đến với
Chúa qua cầu nguyện, lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể và Hòa Giải.
Các phương thế để đạt tới Ơn kính sợ
Thứ nhất là nuôi dưỡng trong linh hồn tinh thần đền tội hoặc thống
hối ăn năn. Nhớ lại những tội đã phạm để cầu xin Chúa thứ tha và để bản thân lo
sợ những gì đã qua mà không dám phạm tội nữa. Thứ hai là thường
xuyên và chăm chú suy gẫm về những sự thật của ơn cứu chuộc: sự chết, sự phán
xét, hỏa ngục và sự đời đời kiếp kiếp. Luôn nhắc nhở mình có một sự thưởng phạt
của đời sau là phương thế khá hiệu quả để người ta sống tốt hơn, quyết tâm từ bỏ tội lỗi. Thứ ba nghe lời Thánh Tông Đồ: “Ai
tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã”.[11]
Thứ bốn là phải yêu mến Chúa ngày một hơn và cầu xin Chúa Thánh Thần ban cho ơn
kính sợ.[12]
Nếu không yêu mến Chúa, không xin ơn với Chúa Thánh Thần thì tất cả những
phương thế trên đều vô hiệu. Bởi thế ta có thể nói được rằng mọi phương thế dù
xuất phát từ sự sợ hãi hay từ tình con thảo đối với Thiên Chúa thì ta cần có
lòng yêu mến và ao ước ơn kính sợ và Chúa sẽ ban cho những ai cầu xin cùng
Người.
Quả thật ơn kính sợ rất cần thiết cho đời sống Kitô hữu, đặc biệt
cần thiết cho những ai đang trong giai đoạn huấn luyện, từ huấn luyện sơ khởi
cho đến huấn luyện liên tục, từ nhà huấn luyện cho đến người thụ huấn. Bởi vì,
chính ơn kính sợ là khởi điểm cho tất cả tiến trình huấn luyện ấy. Đồng thời,
chính ơn kính sợ trở thành thách đố không cho những ai tham gia vào việc huấn
luyện. Sau đây, chúng ta cùng nhau tìm hiểu những thách đố của ơn kính sợ đối với
nhà huấn luyện.
II. ƠN KÍNH SỢ: THÁCH ĐỐ CỦA CÁC NHÀ HUẤN LUYỆN
1.
Vai trò trung gian của nhà huấn
luyện
Trong tất cả chương trình, đối tượng của huấn luyện thì chính
Thiên Chúa là nhà huấn luyện duy nhất. Chúa Thánh Thần đã không ngừng thánh
hóa, canh tân công việc huấn luyện trong các hội Dòng của Giáo hội. Có rất nhiều
cách thế và trung gian Thiên Chúa đã dùng để huấn luyện con người. Theo dòng lịch
sử chúng ta thấy có ba loại trung gian đã được dùng trong huấn luyện các dòng
tu: nhà huấn luyện, cộng đoàn huấn luyện và môi trường huấn luyện.[13]
Một trung gian mà Thiên Chúa rất ưa thích dùng để huấn luyện con
người đó là dùng một người để đến với những người khác. Thông thường những
trung gian ấy thua kém xa so với những mục tiêu của Thiên Chúa, hay chỉ là “đầy
tớ vô dụng”[14]. Môsê
được giao phó việc dẫn dắt Israel chống lại Pharaô, đưa dân ra khỏi Ai-cập. Cho
dù Môsê có được đào tạo trở thành một chiến binh trong hoàng cung Ai-cập thì
cũng không thể chống lại với thiên binh vạn mã của Pharaô. Nhưng Thiên Chúa vẫn
dùng ông, ông trở thành trung gian giữa Thiên Chúa và dân Israel, trở thành vị
lãnh đạo, trở thành người nói Lời của Thiên Chúa cho dân. Thế đấy, những trung
gian Thiên Chúa đặt để thường cảm thấy mình bất xứng trước vai trò và công việc
mà Thiên Chúa giao phó. Những nhà huấn luyện hôm nay cũng được kêu gọi như vậy.
Làm rõ khái niệm trung gian để người thụ huấn biết được một mặt
không thể thay thế được của những người trung gian, mặt khác người thụ huấn sẽ
không đặt quá nhiều kỳ vọng và cầu toàn về một người trung gian hoàn mỹ. Ngày
nay những người gia nhập vào các dòng tu thường đã học xong một văn bằng nơi
các trường đại học hay cao đẳng. Họ có kiến thức và họ đòi hỏi nơi người huấn
luyện phải có đủ những phẩm chất hoàn hảo, ít ra thì cũng phải hơn được họ. Dĩ
nhiên để làm công tác huấn luyện nhà dòng phải lựa chọn những thành viên có đủ
năng lực nhất. Một số tiêu chí có thể đề ra:
Ø Nhờ hiểu biết về đức tin của Giáo hội cách
tường tận, vị đồng hành (hay người huấn luyện) có thể giúp người khác sống đức
tin trong tinh thần tự do con cái Chúa chứ không phải tinh thần sợ hãi, nệ luật.
Ø Hiểu biết về thần học cách vững chắc sẽ
giúp cho vị đồng hành có thể đối thoại với người có tôn giáo khác mà không sợ
đánh mất chính mình, đồng thời có thể nhận thức được những lời phát biểu tín lý
đã chịu ảnh hưởng của nền văn hóa, tư tưởng triết lý hay tôn giáo nào.
Ø Những kiến thức về thần học luân lý là điều
cần thiết giúp cho vị đồng hành khả dĩ hướng dẫn người khác có những thực hành
luân lý đúng đắn, phù hợp với đời sống đức tin.[15]
Ngoài ra, người huấn luyện cần có những đức tính sau: khả năng trực
giác và cởi mở; kinh nghiệm sâu xa về Thiên Chúa và về cầu nguyện; Khôn ngoan,
nhờ biết lắng nghe và nghiền ngẫm Lời Chúa; yêu thích phụng vụ và ý thức được
vai trò của nó trong việc giáo dục đời sống tâm linh; có trình độ văn hóa cần
thiết; có thời giờ và thiện chí để chăm sóc tất cả và từng thụ huấn sinh, chứ
không chỉ giáo dục tổng quát, chung chung cả nhóm.[16]
Đó là những tiêu chí lý tưởng cho một người huấn luyện. Sẽ rất khó
khăn để tìm một người lý tưởng như thế. Bởi thế, người thụ huấn chấp nhận một
người huấn luyện bất toàn cũng có nghĩa là người ấy đang để cho Chúa huấn luyện
họ. Đồng thời người huấn luyện cũng cần khiêm tốn trước những giới hạn của bản
thân trong công tác huấn luyện. Người huấn luyện xác định vai trò trung gian để
đừng chất thêm những gánh nặng cho mình với những trách nhiệm quá sức nặng nề,
mà nên thanh thản chấp nhận rằng họ chỉ là một đầy tớ phải thi hành nhiệm vụ
cho đến cùng và cảm thấy mình đã hoàn thành bổn phận mà thôi.[17]
Tuy nhiên ở đây chúng ta cũng nên biết một số khó khăn của những nhà huấn luyện
trong bối cảnh Việt Nam được viết ra trong một “khóa bồi dưỡng huấn luyện” dành cho các tu sĩ đang phụ trách đào tạo
vào năm 1999 và 2000:[18]
Ø Nhiều người cảm thấy thiếu kiến thức
chuyên môn, ít kinh nghiệm, tay nghề yếu, kém khả năng đối thoại và chưa đáp ứng
yêu cầu của người trẻ. Do đó chưa thể đồng hành thực sự và đáp ứng nhu cầu của
các thụ huấn sinh. Thành ra, họ chỉ đề cập đến vấn đề kỷ luật hay nhắc nhở
chung chung cho cả lớp.
Ø Vì khả năng và kiến thức quá giới hạn mà
phải đảm trách công tác đào tạo cho một thế hệ trẻ kiến thức cao hơn và trong một
xã hội thay đổi không ngừng, nên một số người cảm thấy hụt hơi.
Ø Có người tự cảm thấy chưa đủ nội lực và an
bình nội tâm để giúp người thụ huấn đón nhận và lớn lên trong ân sủng.
Ø Theo một số người, khoảng cách về tuổi tác
và trình độ văn hóa làm cho khó đối thoại, gần gũi và cảm thông với các em.
Ø Đại đa số quá bận rộn, không còn thời giờ
để trao đổi và đồng hành với từng em.
Tuy đã qua nhiều năm nhưng những khó khăn đã nêu trên thiết nghĩ vẫn
còn đâu đó của các nhà huấn luyện nơi các Dòng tu. Thấy được khó khăn, hạn chế
như thế, chúng ta sẽ có cái nhìn lạc quan hơn khi thấy các nhà huấn luyện của
chúng ta đang ngày càng tự rèn luyện bản thân cho phù hợp với vai trò của mình.
Và còn lạc quan hơn nữa khi thấy Chúa Thánh Thần đang hoạt động trong các môi
trường đào tạo, trong các nhà huấn luyện. Sau đây, chúng ta sẽ đi vào cách cụ
thể những công việc của những người trung gian này và sẽ thấy ơn kính sợ của
Thánh Thần hoạt động và thách đố như thế nào trong việc đào tạo.
2. Ơn kính sợ thể hiện trong
trách nhiệm huấn luyện
2.1.
Giáo dục
Giáo dục (educere) có nghĩa là lôi kéo sự thật của người thụ huấn
ra hay đào bới sự thật của người ấy lên, đó là sự thật mà họ ý thức hay không ý
thức, cùng với lịch sử đời mình và những tổn thương, các tài năng và nhược điểm,
bởi vì họ có khả năng biết mình và phát huy các tiềm năng của mình tới mức viên
mãn nhất.[19] Ở trên
là định nghĩa về giáo dục và những công việc của nhà huấn luyện. Quả là một
công việc rất khó khăn và đầy tế nhị. Công việc tưởng chừng như khó ai có thể
nói lời tự nguyện để làm. Công việc đụng chạm đến một con người, đụng chạm đến
một quá khứ, đến những tổn thương mà họ đang muốn chôn vùi. Tuy nhiên nhà huấn
luyện phải làm những công việc này để ước mong rằng những người thụ huấn có những
bước tiến xa hơn trên con đường trưởng thành nhân bản và tu đức. Hơn hết phải
có ơn Chúa, cụ thể là ơn kính sợ mà chúng ta đang bàn đến, thì may thay người
huấn luyện và người thụ huấn sẽ đạt được sự thành công nào đó. Bởi vì đây chính
là công việc của Thiên Chúa, Đấng đã lôi kéo muôn loài từ sự hỗn mang và ban
cho chúng sự sống, Đấng đã lôi kéo dân Israel khỏi vòng nô lệ, Đấng đã lấy lòng
nhân hậu để lôi kéo dân đến với Người nhưng cũng khiển trách và sửa dạy dân mỗi
khi dân đi lạc sai đường lối của Người. Người huấn luyện phải tự nhắc nhở mình
sao cho được ơn kính sợ của Chúa Thánh Thần để nỗ lực cộng tác trong việc huấn
luyện và tự huấn luyện. Khi chấp nhận công việc huấn luyện, người huấn luyện
đang tham gia vào công trình tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa. Ơn kính sợ
đòi buộc người huấn luyện lo sợ sao cho công việc của mình luôn đi theo đường lối
của Thiên Chúa đối với từng thụ huấn sinh. Do đó, người huấn luyện cần phải được
đào tạo.
Người huấn luyện cần biết mình
Biết mình là cả một hành trình dài khám phá, cần phải gọi tên, xác
định và tôn trọng con người phức tạp của mình trong bất cứ giai đoạn nào.[20]
Cái hành trình dài khám phá ấy có khi là cả một đời người. Nhưng không phải vì
thế mà không khám phá chính mình. Hy vọng biết được mình một chút trong quá khứ
để cảm nhận được hiện tại và thấy được tương lai. Đó là điều mà bất kỳ ai cũng
có quyền mơ ước. Tuy nhiên, biết mình không phải là chuyện đơn giản như chúng
ta lật một trang sách tâm lý nào đó và rồi thấy mình trong đó. Hành trình khám
phá bản thân bắt chúng ta đi lại những biến cố trong cuộc sống từ trong quá khứ,
những biến cố nào có ảnh hưởng lên đời sống, những biến cố nào đã đi vào vô thức
của chúng ta. Những biến cố ấy dường như ngày hôm nay chúng bộc lộ ra mà chúng
ta lại không hay biết.
Lôi ra những ký ức ấy làm chúng ta khó chịu và có khuynh hướng
tránh né. Ai cũng không muốn nhắc lại những biến cố đau thương, những lỗi lầm
trong đời. Khơi lại nỗi đau lại là thêm một lần đau. Thế nhưng trong lần khơi lại
này, chúng ta đang cảm nhận nỗi đau ấy bằng cả tính chất chủ quan lẫn khách
quan. Chủ quan vì ta đang cảm nhận thực sự nỗi đau ấy đang tồn tại và chi phối
ta. Khách quan vì ta đang làm công việc quan sát nỗi đau ấy bằng những khía cạnh
khác nhau mà đôi khi cuộc sống đã dạy ta cho đến bây giờ. Khi để cho Thần khí sự
thật ở trong ta, ta đã một lần biết mình qua những biến cố. Điều quan trọng là
ta biết được Thiên Chúa đang muốn nói gì với ta trong giây phút hiện tại với biến
cố ở quá khứ đó.
Không chỉ là khám phá lại những nỗi buồn, niềm đau, những thất bại
ê chề mà còn là những lúc hạnh phúc, những niềm vui và những thành công mà ta
đã đạt được trong đời. Đi lại những điều ấy ta sẽ thấy rõ hơn đời sống là những
chuỗi dài những biến cố vui buồn lẫn lộn, thành công thất bại đan xen nhau.
Quan trọng là chúng ta biết sửa đổi chính mình, biết để Chúa Thánh Thần biến đổi
bản thân. Và ta sẽ dễ dàng hơn để cảm thông cho những người mà ta đang gặp gỡ
hôm nay.
Nếu không biết mình, người huấn luyện cũng không thể hiểu biết được
người khác, không thể hiểu chương trình Thiên
Chúa dành riêng cho họ. Một khi không biết mình, người huấn luyện dễ có cảm
nghĩ làm được mọi chuyện, ngay cả chuyện tiếm quyền Thiên Chúa trong việc đồng
hành, thấy khả năng lý trí còn vượt trổi hơn cả ân sủng.[21]
Do đó, người huấn luyện cần phải biết mình để rồi đón nhận người thụ huấn với tất
cả những khác biệt của họ.
Người huấn luyện cần biết phân định
Phân định là một việc thật sự khó khăn và không phải ai cũng có thể
làm được việc này. Phân biệt đâu là ý Chúa, đâu là ý riêng; đâu là việc làm của
Chúa, đâu là việc làm của con người. Quá khó khăn. Phải cần đến ơn Chúa mới có
thể làm được. Bởi thế, trước hết, phân định phải là ơn ban của Chúa cho một số người.
Ta hay thường nói hãy đến người khôn ngoan để hỏi chuyện, vì nơi họ có ơn phân
định.[22]
Hơn ai hết, người huấn luyện phải cầu xin sao có ơn phân định. Trước một ứng
sinh với rất nhiều những khía cạnh, những xáo trộn, những tâm tư, những đường
hướng khác nhau, người huấn luyện phải phân định được đâu là điều người ứng
sinh này đang cần cho ơn gọi của họ, đâu là điều họ phải làm, đâu là điều họ
không nên làm theo như Thánh ý Chúa.
Thật không dễ dàng để ta có thể hiểu được sự phân định. Theo một định
nghĩa của E. Malatesta, dòng tên:
Qua từ ‘phân định thần khí’, người ta hiểu đó là tiến trình
qua đó chúng ta xem xét, dưới ánh sáng của đức tin và trong độ tương hợp của đức
ái, bản chất của những tâm trạng thiêng liêng mà chúng ta cảm thấy nơi chính
mình và được người khác cảm nhận. Mục đích của việc xem xét ấy là xác định,
trong chừng mực có thể được, đâu là những tâm trạng đưa dẫn chúng ta đến với
Thiên Chúa để phục vụ Người và tha nhân trong một sự toàn thiện lớn hơn, và đâu
là những tâm trạng đưa đẩy chúng ta đi xa mục đích đó.[23]
Xét cho cùng, sự phân định nhằm làm theo ý Chúa. Thế nhưng, đời sống
con người không đơn thuần chỉ một ý Chúa chi phối. Con người còn có rất nhiều
những khuynh hướng, những ham muốn, những ý nghĩ xuất phát từ thần dữ, từ thế
gian, từ thân xác mà đôi khi những điều này lại mạnh hơn ý Chúa trong lương tâm
của con người. Do đó, điều cần thiết phải có một tiêu chuẩn để phân định đâu là
thần khí của Chúa, đâu là thần khí xấu, đâu là thần khí con người.[24]
Thần khí của Chúa
·
Đối với
lý trí: thần khí Chúa dạy chân thật (chứ không giục làm điều xấu), thúc đẩy ta
ngoan ngoãn, khiêm nhường, thận trọng kín đáo (chứ không hão huyền, nông nổi),
mang lại ánh sáng cho tâm hồn.
·
Đối với
ý chí: thần khí Chúa mang lại bình an, khiêm tốn chân thành (chứ không giả dối);
tín thác vào Chúa (chứ không cậy sức mình); bén nhạy tuân theo ý Chúa và cũng sẵn
sàng vâng lời bề trên; ý định ngay thẳng khi làm việc; kiên nhẫn khi gặp đau khổ;
đơn sơ, thành thực, trung tín.
Thần khí xấu
· Đối với lý trí: gợi
lên những điều sai lạc, nông nổi, hão huyền; những tư tưởng phô trương, huyênh
hoang.
·
Đối với
ý chí: gợi lên tính kiêu căng, cố chấp, tự mãn. Từ đó, sinh ra tính giả dối bên
ngoài, hoặc bất ổn bên trong tâm hồn. Thiếu nhẫn nhục khi gặp nghịch cảnh. Hăng
say trái mùa hoặc nhất thời. Không tha thiết với việc noi gương Chúa Giêsu.
Thần khí con người
Sách Gương Chúa Giêsu
(De imitatione, III, 54) vạch ra những khuyết điểm sau đây: chỉ thích tìm cái
gì có lợi cho bản thân mình, thích được danh dự trọng vọng; thích an nhàn khoái
lạc; thích được mọi người biết đến và thán phục.
Các dấu hiện trên có thể cho người huấn luyện một số tiêu chuẩn để
giúp phân định cho người thụ huấn. Thế nhưng, hơn ai hết, người huấn luyện cũng
cần phải phân định chính mình. Muốn như thế người huấn luyện phải có những phẩm
tính cần thiết để phân định chính mình. Theo Thomas Green nói tới ba phẩm tính
căn bản:[25]
·
Phẩm
tính thứ nhất là người phân định phải có ý muốn làm theo thánh ý Thiên Chúa. Điều
này giả thiết người phân định phải có một đức tin sống động, khát khao tìm kiếm
và thi hành ý Chúa trong những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống.
· Phẩm tính thứ hai là
phải có sự cởi mở với Thiên Chúa, nghĩa là sẵn sàng để Người dạy dỗ, hướng dẫn.
Điều này nhắc nhở rằng rất thường khi con người làm việc cho Chúa, nhưng lại chỉ
cậy dựa vào sức riêng mình, vào tài khéo của mình. Một khi để Thiên Chúa “thất
nghiệp” như thế, thì khó lòng có được sự phân định đúng đắn.
·
Và phẩm
tính thứ ba là, sau khi hội đủ hai yếu tố trên, người phân định còn phải “biết”
Thiên Chúa; điều này hệ tại ở chính kinh nghiệm gặp gỡ và yêu mến Người. Những
ai không có kinh nghiệm về Thiên Chúa, thì dù có nghe tiếng Người cũng không dễ
dàng gì có thể nhận ra.
Như vậy, người huấn luyện cần phải biết phân định cho chính mình
và như thế họ sẽ có thể phân định cho người thụ huấn cách chắc chắn và theo ý
Chúa nhiều hơn.
Người huấn luyện cần cho huấn sinh một
phương pháp
Người huấn luyện cần cho huấn sinh một phương pháp để họ tự khám
phá chính mình.[26] Nói điều
này có cảm tưởng như người huấn luyện cho một
bửu bối để thụ huấn sinh cứ thế áp dụng. Thế nhưng sẽ không có một giải pháp
chung cho mọi vấn đề của thụ huấn sinh. Hơn nữa, việc khám phá chính mình có lẽ
nỗ lực bản thân là quan trọng nhất. Những người hướng dẫn, họ vẫn chỉ là hướng
dẫn, đưa ra những phương hướng giải quyết có thể.
Điều quan trọng để người huấn luyện có thể đưa ra những chỉ dẫn có
tính thực tiễn đối với thụ huấn sinh đó là biết lắng nghe. Lắng nghe là việc
làm vô cùng quan trọng trong bất cứ một quan hệ nào. Người biết lắng nghe sẽ tạo
ra một không gian trò chuyện tin tưởng và cởi mở. Hơn thế nữa, trong cuộc gặp gỡ
giữa người huấn luyện và thụ huấn sinh, lắng nghe là điều cần phải có để có thể
tạo nên mối tương quan giữa hai người.
Lắng nghe điều gì?
Lắng nghe những khát vọng của
tâm hồn. Mỗi người đều có một khát vọng, một ước mơ nằm ẩn sâu trong tâm hồn.
Khát vọng này không phải lúc nào cũng có thể gọi tên chúng được. Ngay chính
đương sự không dễ dàng diễn tả những khát vọng của họ. Nhất là các vấn đề có
liên quan đến việc đồng hành trong huấn luyện. Do đó, người huấn luyện phải
giúp cho thụ huấn sinh khám phá ra đâu là khát vọng sâu xa của họ. Nhờ nhận ra
những biểu hiện, những tâm tình của thụ huấn sinh trong khi lắng nghe, cùng với
sự phân định, người huấn luyện khám phá ra những khát vọng sâu xa trong tâm hồn
của thụ huấn sinh. Sự khám phá này không đơn giản là sự bộc lộ cách chân thành
của thụ huấn sinh, mà còn đôi khi thông qua những kinh nghiệm vui buồn, thành
công, đổ vỡ, thất bại, tội lỗi, khủng hoảng, những xu hướng bản thân, những cơn
cám dỗ thường xuyên phải đối mặt, kinh nghiệm chiến đấu thiêng liêng, kinh nghiệm
cầu nguyện, kinh nghiệm gặp gỡ Chúa...[27]
Rõ ràng là những vấn đề không đơn giản để thụ huấn sinh có thể bộc lộ những tâm
tình như thế.
Do đó, việc nhận diện những ước muốn nền tảng của thụ huấn sinh
không dễ dàng chút nào.[28]
Đôi lúc trong suốt buổi gặp gỡ, thụ huấn sinh chỉ nói những gì họ muốn nói.
Nghĩa là những gì họ trình bày đã có chọn lọc cách ý thức. Còn có những điều họ
che dấu, hơn nữa còn có những điều nằm trong vô thức. Tất cả những điều đó làm
cho người huấn luyện không thể hiểu được người đang đối diện. Cho nên, công việc
của người huấn luyện là nhạy bén quan sát, lắng nghe để hướng dẫn thụ huấn sinh
đi vào những điều trọng tâm, những điều chính yếu. Hay khơi gợi lên những gì
đang nằm đằng sau những thái độ, hành vi của họ. Như thế, người huấn luyện có
thể từng bước giúp cho thụ huấn sinh nhận ra và đón nhận con người thật của
mình và từ đó khám ra kế hoạch của Thiên Chúa, đồng thời giúp họ lắng nghe tiếng
Chúa.
Lắng nghe tiếng Chúa.
Việc nhận ra và chấp nhận
bản thân là một bước khó khăn, nhận ra và chấp nhận ý Chúa qua tình trạng cụ thể
bản thân là cả một hành trình dài và khó khăn. Bởi vì chấp nhận ý Chúa là để
cho Chúa hướng dẫn để đi vào con đường hoán cải. Do đó, người huấn luyện cần
giúp cho thụ huấn sinh ý thức chính Thiên Chúa đang hoạt động trong họ và Người
luôn muốn điều tốt đẹp cho cuộc đời họ.[29] Tất
cả những khó khăn, những nỗi đau, những mất mát trong quá khứ là những gì Thiên
Chúa đang hướng dẫn họ đi vào con đường của Người. Hiểu được như thế, thụ huấn
sinh mới có cơ may đi vào con đường hoán cải. Thiên Chúa đã không thất vọng về
con người thì con người cũng không thất vọng về chính mình. Đó là điều mà có lẽ
nhiều người đã quên về một Thiên Chúa nhân hậu và nhẫn nại, quên về khả năng của
bản thân có một sức sống tiềm tàng mà ở đó chính ơn Chúa đang hoạt động.
Lắng nghe tiếng Chúa không phải là việc chỉ riêng cho thụ huấn
sinh. Người đồng hành cũng phải lắng nghe tiếng Chúa để hiểu được chương trình
của Chúa muốn thể hiện nơi người thụ huấn. Còn người thụ huấn lắng nghe tiếng
Chúa nơi người đồng hành và nơi sâu thẳm tâm hồn mình.[30] Lắng
nghe như thế là thuận theo kế hoạch của Thiên Chúa và nỗ lực biến đổi bản thân.
Lắng nghe “sự sống chuyển
mình”. Sau
khi lắng nghe bản thân, lắng nghe tiếng Chúa thì điều cần thiết phải có như một
hệ quả tất yếu là lắng nghe được sự sống đang chuyển mình.[31] Sự
sống mà ở đó người thụ huấn đang đi vào tiến trình hoán cải cụ thể. Tiến trình
này diễn ra mỗi người một khác, mỗi người một đặc tính. Do đó, thật khó để diễn
đạt sự biến đổi này cách rõ ràng. Tuy nhiên, theo tác giả Phạm Quốc Văn, có thể
mượn hình ảnh bộ tranh “Mục ngưu đồ” của Phật giáo để diễn tả lại tiến trình thật
ra rất khó diễn tả:
Có thể tạm dùng những hình ảnh trên mà diễn tả tiến trình
hoán cải, hay sự biểu lộ của người thụ hướng. Khởi đi từ quá trình khát khao
tìm kiếm, khám phá khát vọng thâm sâu của mình (tìm trâu), trải qua cuộc đồng
hành, người thụ hướng được hướng dẫn, phân định để nhận ra (dắt trâu), và chấp
nhận con người thật của mình (luyện trâu); từ đó lắng nghe tiếng Chúa nói trong
hoàn cảnh cụ thể mình đang sống (thuần trâu). Một khi nhận ra được con đường
Chúa muốn mình đi, người thụ hướng thoát ra khỏi cái tôi ích kỷ, khỏi sự thương
tật của mình (buông trâu, quên người), và sau cùng hoàn thành vận mệnh đời mình
theo kế hoạch ân sủng của Thiên Chúa (hòa với thiên nhiên, thõng tay vào chợ).[32]
Những nguyên tắc căn bản để lắng nghe
Lắng
nghe nhưng không xét đoán. Lắng nghe là kỹ năng
quan trọng nhất trong các kỹ năng tư vấn.[33]
Tuy nhiên, có nhiều trở ngại làm cho người huấn luyện không lắng nghe hết được
những gì thụ huấn sinh muốn trình bày. Chúng ta sẽ nghe lời khuyên của Richard
P.Vaughan, S.J:
Khi bạn lắng nghe trong tư cách là một nhà tư vấn thì bạn sẽ
vận dụng tất cả sự chú ý của mình để tập trung không chỉ vào điều đang được nói
mà còn tập trung vào cách thế mà điều đó đang được nói nữa. Thậm chí bạn còn
lưu ý cả đến những gì không được nói ra nữa. Bạn không chú đến việc bạn sẽ nói
điều gì tiếp đó, như thói thường vẫn xảy ra trong giao tiếp hàng ngày. Bởi vì
trong lúc này bạn phải ngưng hết mọi việc phân loại và chẩn đoán. Bạn không đưa
ra một lời phán xét nào. Bạn chỉ thuần túy lắng nghe xem người kia đang nói gì
và rồi bạn tự hỏi đương sự đang cảm nghiệm gì lúc này và đã cảm nghiệm gì trong
quá khứ.[34]
Quả là một lời khuyên hữu ích cho những người đang làm công tác huấn
luyện. Chỉ khi nghe mà không kết án hay đưa ra một lời khuyên vội vàng thì người
huấn luyện sẽ khả dĩ có được sự phân định chính xác. Tuy nhiên để có được thái
độ lắng nghe như thế, người huấn luyện cần phải ý thức mình chỉ là dụng cụ của
Thiên Chúa.
Ý thức mình chỉ là dụng cụ của
Thiên Chúa. Trong việc huấn luyện, chính Thiên Chúa là thầy dạy cho tất cả
chúng ta đối với các giai đoạn huấn luyện.
Do đó, người huấn luyện cũng chỉ là khí cụ[35] để
Thiên Chúa dùng trong công cuộc huấn luyện của Người. Nói như thế không phải
người huấn luyện không làm gì, không biết gì. Bằng tất cả những sự sáng tạo và
khôn ngoan Thiên Chúa đã ban cho người huấn luyện, họ dẫn đưa người thụ huấn đến
với Chúa bằng những con đường khác nhau. Cho nên, khi khiêm tốn nhận rằng mình
chỉ là dụng cụ của Thiên Chúa, người huấn luyện sẽ trở nên lắng nghe tốt hơn, lắng
nghe tiếng Chúa nói với mình, lắng nghe và thấu cảm được người mà Chúa đã sai đến
để được đồng hành và giúp đỡ.
Người huấn luyện biết cách giúp người thụ huấn giải quyết
những khó khăn của mình
Sau khi lắng nghe và phân định, người huấn luyện có thể đưa cho một
phương pháp khả dĩ nào đó cho thụ huấn sinh. Thế nhưng, để giải quyết những khó
khăn, thụ huấn sinh không nên nghĩ rằng họ có thể giải quyết vấn đề một lần cho
tất cả (không bao giờ làm được điều này). Điều quan trọng là họ phải ý thức và
có trách nhiệm hơn, ít lệ thuộc và ít lặp lại những điều ấu trĩ hơn.[36] Đối
với người huấn luyện cũng sẽ không đưa ra những mục tiêu bất khả thi hay hứa hẹn
những điều mơ hồ cả trên bình diện tâm lý hoặc thiêng liêng.
Thụ huấn sinh nên chấp nhận yếu đuối của bản thân. Họ phải trải
nghiệm bằng chính kinh nghiệm cá nhân về tội lỗi cũng như ơn tha thứ của Thiên
Chúa. Điều đó giúp họ chấp nhận mình và có thể chấp nhận người khác dễ dàng
hơn. Đây có lẽ là mục đích cho lối giáo dục mà người huấn luyện đề ra cho những
người trẻ. Khám phá và chấp nhận sự thật về mình trong đời sống nhất là trong cầu
nguyện. Chính sự gặp gỡ Thiên Chúa thường xuyên qua kinh nguyện sẽ càng làm
tăng thêm lòng khiêm tốn để chấp nhận mình và người khác.
2.2.
Huấn Luyện
Trong công tác huấn luyện, giáo dục thôi vẫn chưa đủ. Người huấn
luyện cần cho người thụ huấn một khuôn mẫu cụ thể như là lý tưởng để vươn tới
trong đời sống thánh hiến. Người thụ huấn cần được huấn luyện theo một khuôn mẫu
cụ thể. Sau khi khám phá được chính mình, người thụ huấn cần một định hướng cụ
thể, để từ những gì là của bản thân sẽ vươn lên trong cuộc sống. Định hướng đó
là một khuôn mẫu lý tưởng. Nếu chỉ là giáo dục, chỉ dạy cho người thụ huấn nhận
biết về chính mình thì đôi lúc có thể làm cho người thụ huấn sống theo chiều
ngang, thể hiện chính mình, không quan tâm hay thậm chí xúc phạm người khác. Thế
nhưng, khi người huấn luyện đưa cho thụ huấn sinh một khuôn mẫu lý tưởng thì cuộc
đời họ sẽ bị thu hút bởi chính đối tượng ấy.[37] Đối
tượng ấy chính là Đức Kitô. Đấng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống cho những
ai muốn theo Người.
Người thụ huấn bị lôi cuốn bởi chính Chúa
Kitô. Đấng đã hằng luôn kêu mời chúng ta trở thành môn đệ của Ngài. Và không ai
khác ngoại trừ Ngài có thể huấn luyện con người đi đến đích điểm trong công cuộc
huấn luyện. Rõ ràng huấn luyện là một chương trình thật dài, không phải trong một
hai giai đoạn nào đó trong đời sống tu trì mà là cả cuộc đời của người thánh hiến.
Không một vị huấn luyện nào có đủ khả năng và kiên nhẫn để theo đuổi một sự huấn
luyện đầy khó khăn như thế trừ Đức Kitô.
Như thế, trong khi giáo dục liên quan đến sự thật về con người thì
huấn luyện khơi lên một khía cạnh khác của ơn gọi. Khi khám phá Đức Kitô như là
khuôn mẫu của đời thánh hiến, người thụ huấn thấy được những động lực mới, những
tình yêu mới phát sinh cách mạnh mẽ mà đôi khi họ không thể ngờ tới được. Chính
lúc cảm nghiệm được con người Đức Kitô, người thụ huấn sẽ phát huy cách tối đa,
mở ra hết những năng lực của bản thân. Họ sẽ cảm thấy vui mừng và lo sợ, phấn
khởi và cũng đầy căng thẳng trước những chân trời mới của đời sống thánh hiến.[38]
Vâng, trong sự huấn luyện tuyệt vời của Đức Kitô người thụ huấn sẽ cảm nhận được
những điều đó. Đối với những nhà huấn luyện thì sao? Họ là những trung gian của
Đức Kitô và những trung gian ấy đóng vai trò không nhỏ trong việc huấn luyện.
Người huấn luyện có thể can thiệp vào hai
bình diện sau đây.
Trên bình diện khách quan, nhà huấn luyện giúp người thụ huấn hiểu
rõ Chúa Kitô là Chân - Thiện - Mỹ và tâm tình của Người là giá trị tối cao của
đời sống họ.[39] Nói như
thế không có nghĩa là những người khác không có giá trị nào. Tất cả những vị
thánh trong Giáo hội, những vĩ nhân trên thế giới, những con người hằng ngày
đang nêu những gương sáng bằng chính đời sống phục vụ của họ, đặc biệt là người
huấn luyện đều là những trung gian tuyệt vời để rồi qua họ, Chúa đang huấn luyện
người thụ huấn một điều gì đó. Cho nên, để giúp cho thụ huấn sinh chân nhận được
những giá trị trong Chúa Kitô, người huấn luyện: Thứ nhất, nhà huấn luyện phải
thực sự say mê vẻ đẹp của Chúa Kitô và những điều họ đề nghị với người thụ huấn,
thì chính họ đã cảm nghiệm như là những điều đáng khao khát và là nguồn mạch
cho sự viên mãn và toại nguyện. Thứ hai, người huấn luyện có khả năng chia sẻ với
người khác về niềm hạnh phúc được thuộc về Thiên Chúa.[40]
Có thể một vị thánh sống đời khắc khổ, hy sinh mà không vui tươi là một vị
thánh đáng buồn. Người huấn luyện cũng thế, họ cảm nhận được sự Chân - Thiện -
Mỹ từ Thiên Chúa và họ sống một đời thanh thản, vui tươi, họ sẽ làm tốt công
tác huấn luyện.
Trên bình diện chủ quan thì hành động của người huấn luyện có tính
lây lan: Điều đó muốn nói rằng, hành động của nhà huấn luyện là một trung gian
làm cho người thụ huấn nhận ra căn tính của mình nơi Chúa Kitô.[41]
Điều xấu dễ học, điều tốt khó làm. Cho nên, đời sống của người huấn luyện phải
là một niềm vui thực sự và sâu xa trong Chúa Kitô. Có như thế, đời sống của họ
sẽ có tính lây lan cách mãnh liệt và đầy thuyết phục đối với thụ huấn sinh. Để
rồi cuối cùng, đời sống của người thụ huấn cũng sẽ thấm nhuần niềm vui sâu xa ấy.
Do đó, người huấn luyện cần tác động trên toàn thể năng lực của thụ huấn sinh:
Tác động trên trái tim, để họ say mê Thiên Chúa; tác động trên trí tuệ, để họ
có thể chiêm ngắm Thiên Chúa; và tác động trên ý chí, để họ biết khao khát như
Thiên Chúa khao khát.[42]
Quả là một công việc đầy khôn ngoan và tế nhị. Người huấn luyện làm trong sự tự
nguyện của bản thân, tự nguyện để Chúa biến đổi và tự nguyện làm công việc biến
đổi người khác cho Chúa. Tuy nhiên, để biến đổi người khác, ngoài công tác giáo
giục và huấn luyện, người huấn luyện cần phải đồng hành với người thụ huấn.
Chúng ta sẽ tìm hiểu khái niệm cũng như công việc đầy khó khăn này.
2.3.
Đồng hành
Khái niệm đồng hành
Từ thời Trung Cổ, hạn từ đồng hành trong tiếng
La Tinh (cum-panio) nghĩa là “chung một tấm
bánh”. Đồng hành với người thụ huấn muốn sống đời thánh hiến không chỉ là
người hướng dẫn (linh hướng) họ trong đời sống tâm linh, dạy dỗ, hay thiết lập
tương quan một chiều với họ, nhưng là cùng nhau thực hiện hay cử hành một kinh
nghiệm, mà kinh nghiệm này sẽ luôn tươi mới, bởi vì đó là kinh nghiệm về Thiên
Chúa mà hai người đã bắt đầu và đang tiếp tục tiến bước hướng về Người.[43]
Người đồng hành không chỉ là nhà giáo dục, nhà huấn luyện mà còn là người dám
chia sẻ đời sống với người thụ huấn. Đặc biệt là chia sẻ một kinh nghiệm sống động
về Thiên Chúa. Kinh nghiệm ấy, người huấn luyện trong vai trò của mình sẽ làm
cho thụ huấn sinh cảm nhận và yêu mến Thiên Chúa nhiều hơn, để cho Thiên Chúa
huấn luyện mình hơn nữa.
Vai trò của người đồng hành
Thứ nhất là chia sẻ đời sống
cụ thể.[44] Để có thể quan sát cách tỉ mỉ và chính
xác, người huấn luyện cần chia sẻ cuộc sống hằng ngày với thụ huấn sinh. Khi
kinh nguyện, khi làm việc, khi thể thao... tất cả đều để lại một dấu ấn nào đó
của cá nhân. Những phản ứng, những biểu lộ cảm xúc lúc vui, lúc buồn, những lúc
phải đưa ra một quyết định dù là nhỏ nhặt trong ngày... tất cả là một bản tường
trình về cá nhân ấy. Người huấn luyện khi chia sẻ trong cầu nguyện, trong lao động
cũng như học tập sẽ có cơ may đọc được bản tường trình trên một cách cụ thể và
chính xác hơn.
Thứ hai
người huấn luyện phải có năng lực. Tuy là “nghề dạy nghề” nhưng dứt khoát người
huấn luyện phải được đào tạo thường xuyên và có hệ thống.[45]
Họ không chỉ thông thạo về các khoa tâm lý hay tư vấn, họ còn là những người
thuộc về Chúa Thánh Thần, Đấng là vị Đồng Hành của tất cả mọi người. Bởi thế,
năng lực của nhà huấn luyện về chuyên môn phải có, nhất là trường huấn luyện
trong cầu nguyện, nơi đó, nhà huấn luyện tự đào tạo chính mình. Để rồi mục đích
cuối cùng phải đạt đến là họ phải có khả năng can thiệp cách tối đa, không những
chỉ cho người thụ huấn biết đích điểm, mà còn nắm bắt được sự thật của họ, trên
bình diện ý thức hay vô thức, ngõ hầu đưa ra cho họ một phương pháp để giải quyết
các vấn đề của mình và giúp họ sẵn sàng để cho Chúa Thánh Thần huấn luyện, bằng cách
khắc phục
những kháng cự và sợ hãi.[46]
Trên tất cả, việc đồng hành chính là hình thức mà Chúa Giêsu đã thực
hiện với hai môn đệ trên đường Emmaus.[47]
Trong đó, vai trò của Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng. Chính Ngài là Đấng uốn
nắn khuôn mặt mỗi người theo hình ảnh Chúa Kitô một cách sáng tạo vô cùng. Qua
những ơn thánh của Ngài, đặc biệt ơn kính sợ, đã uốn nắn người thụ huấn trở nên
người con thảo của Chúa. Nhờ đó, họ trở nên những người dễ thương đối với người
huấn luyện, đối với cộng đoàn và với tất cả những người họ gặp gỡ.
Một vài nhận định về ơn kính sợ trong vai trò của nhà huấn
luyện
Như thế, ẩn đằng sau tất cả những yếu tố nói về người huấn luyện
là ơn kính sợ của Chúa Thánh Thần đang hoạt động. Trong yếu tố giáo dục, ơn
kính sợ làm cho người huấn luyện biết hoán cải tận căn khi người huấn luyện học
để biết mình, học để biết phân định cho chính mình và cho người thụ huấn. Trong
yếu tố huấn luyện, người huấn luyện cảm nhận được tình Phụ Mẫu của Thiên Chúa đối
với họ là những người con trong Đức Kitô, họ sẽ giới thiệu cho người thụ huấn về
Đức Kitô như là khuôn mẫu tuyệt vời cho đời sống dâng hiến. Trong yếu tố đồng
hành, ơn kính sợ thể hiện rõ nét khi người huấn luyện thấy được vai trò trung
gian của mình. Chúa Thánh Thần là Vị Đồng Hành thần linh cho tất cả mọi người.
Ngài sẽ ban ơn soi sáng để người huấn luyện biết kính sợ để đạt tới sự khôn
ngoan của Ngài trong công tác đồng hành. Đồng thời Ngài cũng ban ơn cho người
thụ huấn biết được vai trò thiết yếu của người huấn luyện.
Trước những đòi hỏi của ơn kính sợ đối với người huấn luyện, người
huấn luyện cảm thấy được những thách đố rất cụ thể trong công việc của mình.
Thách đố từ chính bản thân, khi họ chưa cảm thấy thông suốt trước những ẩn trắc
của quá khứ, trước những lo lắng của tương lai. Những thách đố còn đến từ phía
khách quan, khi họ đối diện với từng con người
cụ thể, khi họ phải có những quyết định liên quan đến con người, đến tương lai
và có thể nói là ảnh hưởng đến cuộc sống của người ấy. Như thế, những thách đố
này sẽ không bao giờ chấm dứt bao lâu người huấn luyện còn làm công việc của họ,
bao lâu họ để cho ơn kính sợ hoạt động trong tiến trình huấn luyện.
Người thụ huấn đã nhận được sự hướng dẫn của người huấn luyện cũng
như tất cả những thành viên khác trong cộng đoàn huấn luyện. Quan trọng nhất vẫn
là nỗ lực của bản thân với ơn của Chúa trong tiến trình đào tạo. Chúng ta sẽ
bàn về người thụ huấn trong phần kế tiếp để thấy được những khát vọng, những sẵn
sàng, những nỗi sợ hãi và những chiều kích căn bản của một thụ huấn sinh. Qua
đó, ta sẽ thấy ơn kính sợ của Chúa Thánh Thần hoạt động và thách đố như thế nào
trong những cách thế khác nhau của đời sống tâm linh của người thụ huấn.
III. ƠN KÍNH SỢ: THÁCH ĐỐ
CỦA NGƯỜI THỤ HUẤN
1.
Sẵn sàng với tiến trình huấn luyện
Sau khi đã bàn về người huấn luyện cũng như những đòi hỏi của người
huấn luyện, chúng ta sẽ thấy một điều quan trọng hơn đó là người thụ huấn. Nếu
có một người huấn luyện dày dặn kinh nghiệm và đầy khôn ngoan thì không hoàn
toàn đưa đến một kết quả mỹ mãn trong huấn luyện. Người thụ huấn trở nên yếu tố
nền tảng để tiến trình huấn luyện đưa đến thành công hay thất bại. Nói như thế
cho thấy có những thụ huấn sinh sẵn sàng để được huấn luyện nhưng cũng có những
người lại không có sự sẵn sàng ấy. Họ tìm cách tránh né, luồn lách trong suốt
quá trình được huấn luyện. Đôi lúc họ thể hiện một phong thái bình thản trong
cuộc sống hàng ngày. Phong thái ấy có thể đánh lừa một vị huấn luyện chưa đủ nội
lực nào đó, để rồi nhận định rằng người ấy ổn định và bình an.[48]
Hay đôi khi, dù rất muốn đi trọn con đường dâng hiến, trong họ vẫn có một vùng
tối nào đó mà không ai có thể đi vào được. Thái độ cứng cõi đã làm cho họ thiếu
sẵn sàng cho tiến trình giáo dục, huấn luyện và đồng hành.
1.1.
Từ ngoan ngoãn tới mềm dẻo
Ngày xưa, người ta gọi sự sẵn sàng này là ngoan ngoãn (docilitas),
đức tính này chắc hẳn có giá trị tích cực của nó. Tuy nhiên, người ta dễ dàng
phong thánh cho sự nhu nhược, thụ động khi dựa vào sự ngoan ngoãn này. Tác giả
Amedeo Cencini đã đề nghị một hạn từ khác: sự
mềm dẻo (docibilitas).[49] Hạn từ này hình như diễn tả rõ hơn khái niệm
tiến trình huấn luyện. Trong đó, người thụ huấn đóng vai trò chủ động và tích cực
hơn. Tự bản thân của người thụ huấn sẽ phải tạo ra sự mềm dẻo cần thiết này.
Không ai có thể thay thế họ trong một tiến trình huấn luyện mà chính họ là tác
nhân chính.
Bởi thế, chúng ta sẽ lần lượt khảo sát ba
lãnh vực: cái tôi hiện thực (actual
self), cái tôi lý tưởng (ideal self)
và cái
tôi tương quan (relational), tương ứng với ba năng động sư phạm là giáo dục (education), huấn luyện (formation) và đồng hành (accompanying).[50]
Sự thật của cái tôi hiện thực
Khám phá bản thân là bắt đầu cho một tiến trình huấn luyện. Biết
mình, người thụ huấn nhận ra được điểm mạnh, điểm yếu của bản thân để từ đó đáp
lại tiếng Chúa, dù biết rằng giữa con người hiện thực và dự phóng của Thiên
Chúa vẫn là một con đường dài.[51]
Điều quan trọng là người thụ huấn phải biết về những “vùng tối” của bản thân,
nơi mà họ rất dễ bị tổn thương và rất khó kiểm soát. Những điều đó có thể chi
phối người thụ huấn trong những tương quan với Chúa, với người khác cũng như với
chính mình, đồng thời ảnh hưởng không nhỏ không những trong quá khứ mà còn ở hiện
tại và tương lai.
Khám phá sự thật của cái tôi hiện thực đã là công việc của giáo dục.
Educere là lôi kéo sự thật của chủ thể ra, làm cho chủ thể nhận được sự thật về
chính mình. Đó là công việc rất khó khăn. Nhưng người thụ huấn phải chấp nhận để
có thể đặt mình vào trong tiến trình huấn luyện của Thiên Chúa qua vị hướng dẫn.
Nếu người thụ huấn chưa sẵn sàng cho một sự khám phá như thế, họ sẽ không thu
được kết quả gì trong quá trình huấn luyện.
Sự tự do của cái tôi lý tưởng
Sự mềm dẻo của người thụ
huấn còn thể hiện nơi sự tự do để thuộc về Đức Kitô, tự do để cho tâm tình của
Đức Kitô chiếm trọn con tim. Nếu người thụ huấn không cảm thấy tự do để bị lôi
cuốn bởi vẻ đẹp của Chúa Kitô, để được nên giống Người thì không thể nói tới việc
huấn luyện.[52] Quả thật,
mục tiêu của huấn luyện là đề nghị cho người thụ huấn một khuôn mẫu lý tưởng
làm căn tính cho đời thánh hiến. Và nếu khuôn mẫu lý tưởng là tâm tình của Đức
Kitô thì thụ huấn sinh phải đạt đến sự tự do để đến, học nơi Đức Kitô. Cho nên,
khi người thụ huấn chưa sẵn sàng trong sự tự do để Đức Kitô uốn nắn, tiến trình
huấn luyện sẽ bất thành. Người huấn luyện trở nên sự lệ thuộc trong sự gò bó,
trong sự nhỏ hẹp với cái tôi của mình mà thôi.
Sự cởi mở của cái tôi tương quan
Trong hành trình huấn luyện, để đạt tới sự tự do đến với Đức Kitô,
người thụ huấn cần được nâng đỡ cũng như được chỉ dẫn cách cụ thể của người huấn
luyện. Đồng hành là điều không thể thiếu trong huấn luyện. Tuy nhiên để sự đồng
hành đạt kết quả, người thụ huấn cần phải cởi mở cái tôi để tương quan với
Chúa, tương quan với người huấn luyện. Mặc dù người huấn luyện có bất toàn thì
trong cái nhìn của đức tin, người thụ huấn phải thấy được đằng sau người huấn
luyện là chính Chúa Thánh Thần, Đấng huấn luyện duy nhất. Bởi thế, họ cần cởi mở
chính mình và khiêm tốn để cho người huấn luyện soi xét cách tỉ mỉ con người của
mình hầu mong đạt tới sự trưởng thành hơn trong đời sống dâng hiến.[53]
Sự mềm dẻo của người thụ huấn được thể hiện bằng ba khía cạnh đã
nêu trên. Như thế, sự mềm dẻo là điều hết sức cần thiết cho tiến trình huấn luyện.
Có mềm dẻo người thụ huấn sẽ mong đạt được cái gì đó trong việc khám phá chính
mình, trong việc tự do theo mẫu mực lý tưởng, trong sự cởi mở cái tôi đối với
Chúa và đối với người huấn luyện. Tuy nhiên, cũng có những thụ huấn sinh chưa sẵn
sàng cho tiến trình huấn luyện bản thân. Vậy làm sao để nhận biết là họ chưa sẵn
sàng?
1.2.
Từ sợ hãi đến cứng cỏi
Đối lại với sự mềm dẻo là sự cứng cỏi. Có sự khác biệt rõ ràng giữa
một người mềm dẻo, người sẵn sàng và người cứng cỏi, không sẵn sàng. Nhưng
trong một người cũng có sự mềm dẻo và sự cứng cỏi đan vào nhau. Trong một khía
cạnh nào đó, chúng ta tỏ ra sẵn sàng và trong một khía cạnh khác, chúng ta lại
tỏ ra cứng cỏi. Vậy sự cứng cỏi phát xuất từ đâu? Trên căn bản, sự cứng cỏi
phát xuất tự sự sợ hãi. Sợ chính mình, sợ người khác, sợ ngay cả Thiên Chúa và
những Lời của Người.[54]
Sau đây, chúng ta sẽ thử tìm hiểu thêm về ba khía cạnh của sự cứng
cỏi trong thế đối lập với ba khía cạnh của sự mềm dẻo.
Cái tôi lạc lối
Thay vì tìm hiểu sự thật về cái tôi hiện thực, có những người
trong huấn luyện lại đi xa cái tôi hiện thực ấy. Có lẽ họ chưa xác tín được rằng
cần phải phân tích và nhìn rõ bản thân không chỉ là nơi những gì giác quan có
thể cảm nhận mà còn nằm trong vùng vô thức. Họ đã không thể biết được đâu là điểm
mạnh, điểm yếu của bản thân. Có chăng là một
cái biết hời hợt về chính mình. Những người này thường thấy rằng họ không bị khủng
hoảng bao giờ. Họ thấy không cần phải đi xa hơn nữa trong việc khám phá chính
mình. Họ không sẵn sàng để hoán cải.[55]
Đôi khi họ có dáng dấp của một người xa lạ với chính mình. Không biết mình đang
muốn gì, đang tìm kiếm gì. Vì thế, họ không có một tương quan tốt với người
khác.
Những người này như con chiên lạc lối mà lại không muốn người chủ
tìm thấy. Họ núp đàng sau cái tôi khép kín, hời hợp của bản thân. Họ không muốn
người khác phải sửa dạy. Một thụ huấn sinh bắt đầu chương trình giáo dục như thế,
họ sẽ không bao giờ bắt đầu được.[56]
Cái tôi lơ đãng
Trong trường hợp “cái tôi lạc lối”, người thụ huấn thiếu điểm xuất
phát thì với “cái tôi lơ đãng”, họ thiếu mục tiêu hay xác định mục tiêu không
rõ ràng. Trường hợp này rất thường gặp nơi người thụ huấn. Họ lơ đãng không phải
vì họ thiếu chú ý, nhưng trong tương quan đời sống họ bị trục trặt cái gì đó mà
họ đã không cảm thấy bị lôi cuốn về cái tôi lý tưởng, điều mà lẽ ra họ phải
làm. Có một sự hòa hợp không nên có giữa căn tính mới là trở nên đồng hình đồng
dạng với Đức Kitô và căn tính cũ của bản thân. Căn tính mới thì không được chú
ý đủ để phát triển còn căn tính cũ thì được giữ kín và âm thầm nuôi dưỡng. Do
đó, người thụ huấn sẽ không còn nhận ra mục tiêu chính của đời mình.[57] Họ
trở nên yếu nhược trong đời sống thiêng liêng, cũng như đời sống cộng đoàn.
Trong tiến trình huấn luyện, sự tự do của cái tôi lý tưởng không
còn. Thay vì say mê vẻ đẹp của Đức Kitô, họ lại bị thúc bách đi tìm cái tôi thể
hiện chính mình mà không chắc là mình có thể đạt được hay không. Sống thiếu mục
tiêu chính yếu, người thụ huấn trở nên khép kín. Như thế tiến trình huấn luyện
kể như thất bại.[58]
Cái tôi cứng cỏi
Đối lập với sự cởi mở của cái tôi tương quan là cái tôi khép kín.
Người thụ huấn sợ phải mở lòng mình ra và càng sợ hơn nữa khi phải trao
phó bản thân cho người khác. Nỗi sợ hãi
này có thể bắt nguồn từ những tương quan trong quá khứ với những người khác. Đã
có những đổ vỡ trong quá khứ tác động mạnh mẽ làm cho người thụ huấn trở nên
phòng thủ và hầu như không tin vào ai, kể cả Thiên Chúa.[59] Bộ
giáp phòng thủ ấy được mặc dưới nhiều hình thức:[60]
Loại người bình lặng: Đó
là loại người cô độc, cảm thấy mọi sự đều xuôi chảy, và không hiểu sự cần thiết
của việc đồng hành.
Loại người cầu toàn: Đó là loại người đạo đức giả, chỉ sẵn sàng cởi mở với
một người đồng hành hoàn thiện (mà họ thường đi tìm ở nơi khác).
Loại người lẩn tránh: Dè
dặt, hơi giống mafia một chút, họ trốn tránh vì sợ phải đối đầu.
Loại người lữ hành: Lanh
lợi, có nhiều bạn tâm tình để trao đổi những khía cạnh khác nhau của cuộc sống,
nhưng họ không trao phó hoàn toàn cuộc sống mình cho một ai.
Loại người bất khả thẩm thấu:
Tính cách kiên quyết, họ đến gặp người đồng hành vì họ phải đến, nhưng không để
cho ai khảo sát đời sống nội tâm của mình và họ phản đối bất cứ ai dám làm như
thế.
Loại người không lay chuyển thì trái ngược: Họ như thể được làm bằng cao
su. Trên lý thuyết thì họ để cho mình được
xem xét kỹ lưỡng. Họ cũng đồng ý với các nhận định của người đồng hành, nhưng
sau đó thì trả lại mọi thứ cho người đồng hành, mà chẳng mảy may để cho mình bị
tác động, trái tim họ như thể được làm bằng nhựa dẻo.
Rất khó khăn để có thể đồng hành với những thụ
huấn sinh như thế. Người đồng hành phải tinh tế để nhận ra đằng sau sự đường bệ,
bình an tuyệt đối đó là cả những vấn đề hết sức căn bản trong việc đồng hành,
huấn luyện. Những người như thế, nếu không thay đổi được, họ trở nên vô phương
trong bất cứ tác động nào của người huấn luyện. Họ đã dựng lên một hàng rào bảo
vệ vững chắc trong tương quan với người khác, với Thiên Chúa. Và hàng rào đó sẽ
không bị phá vỡ cho đến khi họ thật sự muốn hoán cải, và trở nên đồng hình đồng
dạng với Đức Kitô.
Chúng ta đã nói về một số những biểu hiện của sợ hãi của người thụ
huấn trong việc họ không sẵn sàng với tiến trình huấn luyện. Tuy nhiên để biết
rõ ràng hơn nguyên nhân của sự sợ hãi, chúng ta sẽ bàn về sự sợ hãi do thiếu
trưởng thành về: 1/ Chiều kích nhân bản; 2/ Chiều kích chuyên môn; 3/ Chiều
kích tâm linh; 4/ Chiều kích mục vụ.
2.
Sợ hãi nhiều hơn... do thiếu trưởng thành về:
2.1.
Chiều kích nhân bản
Đào tạo nhân bản
Việc đào tạo nhân bản là yếu tố thiết yếu cho một hành trình ơn gọi.
Phải là một người trưởng thành về mặt nhân bản thì mới có cơ may trở thành một
Kitô hữu tốt, một tu sĩ tốt. Ân sủng Chúa cần một mảnh đất màu mỡ để phát triển.
Mảnh đất ấy chính là sự trưởng thành nhân bản. Bởi thế, Bộ các Dòng tận hiến và
các Tu đoàn tông đồ nhắc nhở chúng ta:
Yêu cầu trước tiên đối với các ứng sinh là tư cách nhân bản
và Kitô. Thật vậy, nhiều thất bại trong đời tu có thể nói được là hậu quả của
những khuyết điểm trong lãnh vực này, mà đã không được nhận ra hay không được sửa
chữa. Nền tảng nhân bản và Kitô đó không những cần được kiểm chứng khi bước vào
đời tu, nhưng còn bảo đảm có những điều chỉnh hữu ích trong suốt tiến trình đào
tạo tùy theo sự phát triển của con người và những biến đổi của các biến cố.[61]
Như thế, người tu sĩ phải là người trưởng
thành nhân bản, hay ít ra cũng có ý muốn ngày càng được trưởng thành hơn. Nói như thế không thể hiểu là
một người trưởng thành nhân bản một lần là đủ, nhưng tiến trình này kéo dài có
khi suốt cả cuộc đời. Có những người lớn tuổi nhưng chưa trưởng thành, nhưng
cũng có những người ít tuổi hơn lại có được sự trưởng thành nào đó. Ta không thể
nhìn vào độ tuổi thể lý để nói về một người trưởng thành, ta cần nhìn vào một số
biểu hiện của người trưởng thành nhân bản:[62]
1. Khả
năng yêu thương. Người
trưởng thành là người biết yêu và trách nhiệm về chính bản thân: có nhiệm vụ
làm cho mình lớn lên và triển nở tới mức độ sung mãn. Dĩ nhiên đây không phải
là thứ tình yêu khép kín và quy ngã, mà là thứ tình yêu rộng mở. Từ kinh nghiệm
nền tảng là yêu thương và trách nhiệm với chính mình, chúng ta sẽ mở rộng và đi
tới tha nhân.
2. Ý
thức. Người trưởng thành
là người luôn ý thức về chính mình và về vai trò, sứ vụ của mình. Đó là người
có khả năng trả lời cho những câu hỏi nền tảng: tôi là ai? tôi là gì? Đó cũng
là người luôn biết đặt câu hỏi tại sao cho bản thân trước mọi sự kiện, hành vi,
cảm xúc, trước những gì mình nghĩ, mình làm. Ý thức hay đúng hơn là tự ý thức
là khởi điểm của người trưởng thành. Tự ý thức để nhìn thấy bản thân là một hữu
thể độc nhất vô nhị trên trần gian này. Chúng ta có tên tuổi, gia đình, quê
hương, kinh nghiệm tuổi thơ, tính tình, năng khiếu, địa vị xã hội, tôn giáo...
Nhờ ý thức được như thế, chúng ta có khả năng lượng giá về những hành vi, chọn
lựa, quyết định, vai trò, sứ vụ của mình.
3.
Thái độ cởi mở. Con người là một hữu thể mang tính xã hội.
Sau khi ý thức được chính mình, con người cần phải mở ra trong tương quan với Đấng
Khác, người khác và cái khác. Chính những mối tương quan liên vị giúp ta trở
thành người hơn, được lớn lên, được phong phú hóa và triển nở dưới nhiều góc độ.
4.
Chấp nhận thực tế. Người có cái nhìn đúng đắn và thực tế về
bản thân: Không tự cao tự đại, mà cũng chẳng giả bộ hạ mình một cách kịch cỡm.
Người trưởng thành biết chấp nhận hoàn cảnh, môi trường, cuộc sống, người khác
và chính bản thân mình trong thực tại khách quan của chúng. Không đeo mặt nạ và
cũng chẳng khiên cưỡng đóng kịch để che giấu con người thật của mình, trái lại
biết chấp nhận con người thật của mình với ưu và khuyết điểm, ánh sáng cũng như
bóng tối. Thái độ chấp nhận thực tại này không những sẽ giải thoát chúng ta khỏi
những nỗi lo sợ vô ích, mà con giúp ta tìm gặp niềm bình an nội tâm. Đây là khởi
điểm của một tiến trình phát triển lành mạnh.
5. Cảm
xúc. Con người không thể
sống thiếu tình yêu. Nhưng tình yêu trưởng thành là làm cho người khác lớn lên,
chứ không biến họ thành đối tượng chiếm hữu. Người trưởng thành là người biết sống
yêu thương chan hòa đúng mức, là người có khả năng mở rộng tâm hồn cho người
khác và đón nhận người khác đến với mình một cách thanh thản.
6. Xác tín. Người trưởng thành dám nói lên xác tín của mình và cố gắng sống
trung thực với chính mình. Khi sống thật, chúng ta sẽ thấy mặt sáng và mặt tối
của chính bản thân, nhờ đó nhận diện rõ hơn chính mình và tìm đường hướng để
vươn lên.
7. Trách
nhiệm về những gì mình đã
làm, về cuộc sống và chọn lựa của mình. Con người sẽ trở nên chính mình khi có
khả năng sống chân thành và trọn vẹn thiên chức của mình, phù hợp với hoàn cảnh,
giai đoạn và vị thế. Người trưởng thành cũng là người có khả năng trả lời những
mong đợi của tha nhân.
8. Thích
nghi. Đây là một tiến
trình tiệm tiến, gian lao, trắc trở và luôn đòi hỏi những bước nhảy vọt quyết định.
Cần phải có sự mềm dẻo để phù hợp với từng hoàn cảnh, từng giai đoạn. Và cần phải
có những lúc can đảm chết đi để bước vào cuộc sống mới, đoạn tuyệt với cái cũ để
bước vào giai đoạn trưởng thành.
9. Nét
nổi bật nơi trưởng thành nhân bản là mức
độ quân bình và thái độ trung dung. Chắc chắn cuộc sống sẽ có nhiều khó
khăn, thách đố, với những chọn lựa và quyết định phức tạp, nhiều khi mâu thuẫn.
Không có sự chọn lựa nào mà không cảm thấy mất mát và phải trả một giá nào đó.
Điều quan trọng là làm sao thực hiện được chính mình và giữ được mức quân bình
cần thiết: quân bình giữa tâm và thể; giữa tình và lý; giữa bổn phận và quyền lợi;
giữa làm việc và nghỉ ngơi; giữa dấn thân mục vụ và đời sống cộng đoàn.
Đào tạo Kitô giáo
Đào tạo nhân bản và đào tạo Kitô giáo luôn đi kèm với nhau, không
tách rời nhau. Khởi điểm của đời tu không chỉ là đào tạo để làm người hơn mà
còn là một người Kitô hữu. Một người muốn dấn thân vào con đường tu trì, họ phải
có một số kiến thức hay kỹ năng nào đó về Kitô giáo. Số vốn kiến thức về giáo
lý, kinh thánh, những thực hành đạo đức, kinh nguyện... Tất cả những yêu cầu đó
là cần thiết cho đời tu. Thế nhưng trước hết, chúng ta bàn về đức tin. Rõ ràng
đây mới là yếu tố quyết định. Dấn thân vào đời tu mà không có một đức tin Kitô
vững mạnh thì cầm chắc mọi việc trở nên vô ích. “Vô tri bất mộ”, không biết,
không tin thì không thể yêu. Không yêu thì không thể sống chung, và dĩ nhiên
không thể sống với người mình không ưa thích. Ngoài ra đức tin còn dạy ta ý
nghĩa của cuộc đời làm người và của những biến cố của Lịch sử Cứu độ, một lịch
sử ta đang được mời gọi bước vào. Đức tin giúp ta thấy được Thiên Chúa hiện diện
trong mọi sự, khám phá ra Đức Kitô trong mọi người, tìm kiếm ý Thiên Chúa trong
cuộc sống ta, biết được giá trị đích thật của các sự việc. Không có chiều kích
đức tin, thì cả đời tu lẫn ơn gọi tu trì sẽ chẳng có ý nghĩa gì hết.[63]
Giới răn mến Chúa yêu người đã trở thành hành động cho niềm tin của
Kitô hữu. “Đức tin hoạt động nhờ đức ái”[64].
Đời sống người Kitô hữu biểu lộ tình yêu nhưng không của Thiên Chúa đối với những
anh chị em khác. “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết”.[65]
Do đó, trong việc đào tạo Kitô giáo, người thụ huấn cần có một hiểu biết căn bản
về đức tin Công Giáo. Việc dạy giáo lý cũng thế. Cần cung cấp cho người thụ huấn
một số kiến thức có thể giải đáp một số thắc mắc về đời sống Kitô hữu trước khi
họ đi đến những câu hỏi đặc biệt của đời tu. Ngoài ra, một số yếu tố quan trọng
khác cần phải có khi người thụ huấn bước vào giai đoạn Tập viện[66],
giai đoạn của một bước ngoặc quan trọng trong đào tạo của các Dòng tu, nơi đó
người tập sinh trưởng thành hơn trong linh đạo của Hội Dòng:
Cầu nguyện: hãy dạy cho các ứng sinh siêng năng cầu
nguyện không chỉ trong các giờ cầu nguyện của cộng đoàn, mà còn trong các giờ cầu
nguyện riêng- khuyến khích ứng sinh thực hành tâm nguyện.
Đời sống bí tích: tập cho ứng sinh siêng năng lãnh nhận
các bí tích, nhất là việc rước lễ hằng ngày có chuẩn bị chu đáo và thường xuyên
xưng tội.
Việc hướng dẫn bản thân: hỏi ứng sinh xem họ có được hướng dẫn về
thiêng liêng trước khi gia nhập không. Nếu không, giúp họ thói quen này.
Thái độ đối với Hội Thánh: Họ có thái độ nào đối với Hội Thánh? Nếu
họ không theo giáo huấn của Hội Thánh, thì phải sửa dạy họ đúng lúc.
Kinh Thánh: nội tâm hóa những giá trị của đức tin
Kitô giáo bằng cách tập lắng nghe Lời Chúa, tham dự phụng vụ, nhất là phụng vụ
Thánh Thể.
2.2. Chiều kích chuyên môn
Bước vào thế kỷ XXI, nhân loại đang sống trong thời đại công nghệ
cao. Các thiết bị viễn thông phát triển không ngừng làm cho thế giới càng nhỏ hẹp
hơn. Lúc trước, ngồi trước máy tính ta có thể biết được những biến đổi trên thế
giới. Hôm nay, chỉ cần một điện thoại thông minh cầm trên tay, ta đã có thể làm
được việc đó. Việc áp dụng công nghệ vào y tế, giáo dục đã nâng con người lên một
tầm mức mới. Các bác sĩ không còn phải mổ bằng dao cho hết các ca mổ nữa, họ đã
dùng đến mổ nội soi hay mổ bằng robot với độ chính xác cao và phạm vi ảnh hưởng
của vết thương càng thu hẹp. Trong giáo dục, công nghệ làm cho người học trở
nên thú vị hơn, nhiều kiến thức hơn. Người học tiếp thu ngay cả những công nghệ
họ đang tiếp xúc. Người trẻ hôm nay có khả năng tiếp thu rất tốt những khoa học
kỹ thuật. Những câu chuyện của họ thường xoay quanh những vấn đề về phát triển
công nghệ và kinh tế.
Thế nên, trong đào tạo dòng tu cần phải cho người thụ huấn có một
kiến thức chuyên môn nào đó. Nói chung về mặt bằng kiến thức ít ra cũng có thể
bằng với các bạn trẻ bên ngoài. Tuy biết rằng, người tu sĩ, linh mục phải là những
chuyên viên về các môn thần học nhưng họ cũng cần phải biết những chuyên môn
khác trong cuộc sống để có thể hiểu và cảm thông với những người khác. Chưa nói
đến việc đứng lên giảng dạy cho một nhóm người mà người tu sĩ, linh mục không
có một sự hiểu biết về những gì họ đang làm hay đang trải qua thì không thể nói
cho người khác hiểu được điều họ đang muốn nghe.
Về mặt bằng tri thức là phải có. Hơn nữa, người tu sĩ nam nữ cần
có một nghề nghiệp. Nghề nghiệp để ít ra có thể cộng tác với nhà dòng trong việc
nuôi thân, trong việc thánh hóa bản thân, trong việc đóng góp sức lực vào những
ưu tư chung của Hội Dòng, của cộng đoàn. Đang khi một người trẻ bên ngoài phải
lo toan với cuộc sống bằng nghề nghiệp của họ, thì những người thụ huấn lại cộng
tác phần chuyên môn của mình trong các công việc của nhà dòng. Điều đó tạo nên
một thế cân bằng nào đó về tâm lý cho thụ huấn sinh. Họ vào nhà dòng không phải
vì không có nghề nghiệp, không phải vì không có chuyên môn... Họ vào nhà dòng
vì ơn gọi của Chúa và họ sống sung mãn ơn gọi đó qua những đóng góp của họ.
Nói như vậy không có nghĩa là tất cả các tu sĩ sẽ trở thành kỹ sư,
tiến sĩ hay ông cử, bà cử. Tuy nhiên, thời đại mới và yêu cầu tông đồ trong
tương lai yêu cầu người tu sĩ một trình độ tương xứng nào đó ngõ hầu có thể trả
lời cho những thách đố của thời đại. Một thế hệ tu sĩ có tư duy mới, biết sáng
tạo, năng động, có khả năng đem chất xám vào hoạt động tông đồ mục vụ... phải
chăng đó là một trong những thách đố của công tác đào tạo hôm nay. Vấn đề đào tạo
chuyên môn vì vậy trở thành một nhu cầu cấp bách, mặc dù, nhìn từ ơn gọi tu trì
nó chỉ là một nhu cầu phương tiện để phục vụ sứ vụ tông đồ.[67]
2.3.
Chiều kích tâm linh
Việc đào tạo chiều kích tâm linh trong chương trình huấn luyện là
điều cần thiết và rất quan trọng. Ngay cả khi đang trong giai đoạn đào tạo những
chuyên môn thì cũng cần phải nhấn mạnh đến việc đào tạo chiều kích tâm linh.
Các thụ huấn sinh không chỉ được đào tạo kiến thức về chuyên môn nghề nghiệp
nhưng luôn hướng đến một đời sống trưởng thành nhân cách, hình thành một thái độ
sống và một cách thế sống. Qua thời gian huấn luyện, qua việc gặp gỡ với các vị
huấn luyện, qua việc cọ sát trong đời sống cộng đoàn và mục vụ, người thụ huấn
phải được đưa đến một nhân cách mới. Một người có cái nhìn, phán đoán và nhận định
theo ánh sáng của Tin mừng.[68]
Ngày nay sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đời sống thực dụng
và tiêu thụ làm cho con người bị chi phối. Các mối quan tâm trở nên nhiều hơn,
quan tâm cho người khác thì ít mà quan tâm cho bản thân thì nhiều. Quan tâm xem
trên thị trường loại điện thoại nào mới nhất, tính năng làm sao, giá cả bao
nhiêu? Rồi nếu được thì “tậu” một cái đem ra “bấm” cho có anh, có
em...vân..vân.. Nhiều lúc các tu sĩ chạy theo thời đại làm đánh mất căn tính của
mình. Lời khấn khó nghèo luôn được giải thích theo nhiều kiểu cách khác nhau.
Các linh mục trẻ trở nên giàu có hơn, nhiều tiện nghi hơn... đôi lúc lại trở
thành một động cơ không ngay lành cho những ai mới bước vào đời tu.
Đức Cha Nguyễn Thái Hợp đã có một lối ví von: phát triển kinh tế
và tiến bộ khoa học kỹ thuật được ví như con ngựa bất kham. Người kỵ sĩ lại
không đủ mạnh để trị con ngựa bất kham ấy.[69] Bởi
vì người kỵ sĩ thiếu đời sống tâm linh. Sắc lệnh về Canh tân thích nghi đời sống dòng tu đã nói về ưu tiên của đời sống
thiêng liêng:
Những ai khấn giữ các lời khuyên Phúc Âm đều phải tìm kiếm
và yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, vì Người đã yêu chúng ta trước (x. 1 Ga
4, 10); trong mọi hoàn cảnh, họ phải cố gắng phát triển đời sống ẩn dật cùng
Chúa Kitô trong Thiên Chúa (x. Cl 3,3), vì đó là nguồn mạch và động lực phát
sinh tình yêu tha nhân nhằm cứu rỗi nhân loại và xây dựng Giáo hội.[70]
Tiến trình trưởng thành tâm linh là một tiến trình tiệm tiến.
Trong ta luôn có một vài khía cạnh nào đó chưa hoàn thiện. Nhân vô thập toàn,
không ai có thể tự xưng là đã trưởng thành. Chính Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn
và đưa những góc cạnh chưa tốt của chúng ta ra ánh sáng. Nếu chúng ta hợp tác với
ân sủng của Người, chúng ta sẽ đạt đến tầm mức trưởng thành hơn trong đời sống
tâm linh. Dưới đây là một số biểu hiện của đời sống tâm linh phong phú:[71]
· Niềm tin và thái độ tin vào Thiên Chúa tạo
nên sức mạnh và mức độ trưởng thành của đời sống tâm linh.
· Khả năng đối thoại với Thiên Chúa, lắng nghe
và đáp lại tiếng Ngài kêu gọi.
· Từ đó khám phá ra sự thật về chính mình và
khả năng để thực hiện chính mình.
· Con người tâm linh không nhìn và đánh giá
vạn sự theo cái logích nhân loại, mà theo logích của Tin Mừng, theo ánh sáng của
Bát Phúc, theo tiêu chuẩn của lòng từ bi nhân hậu, theo sức mạnh của sự tha thứ,
theo sự điên rồ của Thập giá...
· Người tâm linh không nhất thiết là người sống
tách rời với thực tại trần thế và chối từ tư cách nhân loại của mình, mà là người
nhìn và đảm nhận thực tại trần thế với tiêu chuẩn của người có niềm tin nơi
chương trình yêu thương của Thiên Chúa.
· Người tâm linh nhìn và đánh giá cuộc sống
(thế giới, xã hội, con người, biến cố lịch sử, Giáo hội, hội Dòng, giáo xứ...)
dưới ánh sáng của Lời Chúa.
· Theo quan điểm của thánh Phaolô, mục đích
của đào tạo là giúp người thụ huấn “mặc lấy
những tâm tình của Đức Kitô” (Rm 13,14), can đảm “để Thần Khí đổi mới tâm trí và mặc lấy con người mới, là con người đã
được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thực sự sống công chính và thánh thiện”
(Ep 4, 23-24).
· Con người trưởng thành tâm linh là người
triệt để hướng tới việc đồng hóa với Chúa Kitô. Đây là con người đã đặt cả vận
mệnh đời mình trong bàn tay nhân ái của Chúa: bước đi trên con đường cứu độ của
Đức Kitô, đi vào trong kinh nghiệm của Ngài, chia sẻ những thao thức của Ngài,
hăm hở vì sứ vụ như Ngài và sẵn sàng vác thập giá với Ngài.
Như vậy để có được sự trưởng thành tâm linh
chúng ta cần được đào tạo Kitô giáo. Vấn đề này ta đã bàn ở trên.
2.4.
Chiều kích mục vụ
“Anh em hãy đi khắp tứ phương
thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”.[72] Lệnh
truyền của Chúa Kitô trước khi về trời trở thành căn tính cho người Kitô hữu.
Quả thế, công việc truyền giáo đã được Giáo hội thực thi cho đến ngày nay. Dù
phải trải qua những cuộc thăm trầm, máu các thánh Tử đạo đã đổ ra được ví như
chất nuôi dưỡng cho Giáo hội phát triển đến hôm nay.
Tự bản chất người Kitô hữu
là truyền giáo. Hơn nữa, người tu sĩ cần phải thực thi lệnh truyền của Chúa hơn
bao giờ hết. Công đồng Vatican II đã mời gọi:
Các tu sĩ phải đem hết tâm lực làm cho Giáo hội, qua con
người của họ, thực sự biểu dương Chúa Kitô ngày một hoàn hảo hơn cho các tín hữu
cũng như các lương dân: biểu dương Chúa Kitô đang cầu nguyện trên núi, hoặc
đang loan báo Nước Thiên Chúa cho dân chúng, hoặc chữa lành những kẻ đau yếu
tàn tật, hay hoán cải các tội nhân trở lại đời sống phong phú, hoặc đang chúc
phúc cho trẻ em, ban ơn lành cho mọi người, và trong mọi sự luôn vâng phục
thánh ý Chúa Cha, Đấng đã sai Người đến.[73]
Sắc lệnh “Canh tân thích
nghi đời sống dòng tu” còn nhắc nhở riêng cho từng Hội Dòng trở về đặc sủng
riêng trong công cuộc loan báo Tin Mừng:
Chính để mưu ích cho Giáo hội nên mỗi dòng có tính cách và
phận vụ riêng. Do đó, phải trung thành nhận thức và noi giữ tinh thần cùng ý hướng
đặc biệt của các Đấng Sáng Lập cũng như tất cả các truyền thống lành mạnh, vì tất
cả những yếu tố đó tạo nên di sản của mỗi hội dòng.[74]
Trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, các hội dòng đang có chiều hướng
vươn ra các chân trời mới của công việc mục vụ. Đức Cha Nguyễn Thái Hợp đưa ra
một số biên cương tiêu biểu mà các tu sĩ đang hoạt động hay đang nhắm tới:[75]
· Biên
cương của bất công, nghèo khó và loại trừ. Đất nước bước vào công nghiệp hóa, kinh tế phát triển
hơn, nhiều người giàu hơn và cũng làm cho nhiều người nghèo hơn. Tình trạng thất
nghiệp vẫn xảy ra khi máy móc đang dần thay thế nhân công, khi các công ty bị
phá sản do không trụ nổi với sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường. Sự bất
công đối với người nghèo, sự loại trừ những người đau khổ, bệnh tật vẫn đang xảy
ra trên quê hương chúng ta, nhất là ở các thành phố lớn.
Hiện tượng di dân đang là mối bận tâm lớn cho công việc mục vụ ở
các thành phố lớn, nhất là thành phố Hồ Chí Minh. Hiện tượng di dân tạo nên nhiều
phức tạp về môi trường, xã hội, văn hóa. Dù thế nào chăng nữa, trong tiến trình
hội nhập, anh chị em di dân luôn chịu nhiều áp lực về tâm lý, tình cảm, kinh tế,
xã hội và cả trong đời sống luân lý đức tin.[76]
Do đó, sự hiện diện của di dân nghèo khổ kêu gọi ý thức bác ái huynh đệ nơi các
cộng đoàn Giáo hội tiếp nhận. Trong việc phục vụ di dân, như kinh nghiệm làm chứng,
cũng tạo dịp để cộng tác chung vai sát cánh với tôn giáo bạn và các tổ chức thiện
nguyện xã hội, một dạng thực tế của đối thoại liên tôn và đại kết; sự hiện diện
của Kitô hữu di dân trong nhiều môi trường không công giáo nhiều khi lại là cơ
may truyền giáo quý giá được ban tặng cho Giáo hội Việt Nam.[77]
· Biên cương giữa sống và chết. Có một sự đòi hỏi dấn thân thật sự nơi
các tu sĩ khi phục vụ cho những bệnh nhân AIDS. Việt Nam là một trong những nước
có người nhiễm HIV/AIDS khá cao. Các con bệnh bị xã hội xa lánh, loại trừ. Giáo
hội đang cần nhiều tu sĩ nam nữ nhiệt tâm và có chuyên môn trong việc phục vụ
những người cùng khổ này.
· Biên cương kinh nghiệm tôn giáo. Châu Á được coi là cái nôi của các tôn
giáo lớn. Thế nhưng, Kitô giáo vẫn đang là thiểu số so với các tôn giáo khác.
Do đó, sự gặp gỡ giữa các tôn giáo hay nói cách khác, công cuộc tân phúc âm hóa
đã trở nên khẩn cấp. Các Kitô hữu đều phải có nhiệm vụ truyền giáo giữa môi trường
của mình sống, làm cho tinh thần Tin Mừng, ơn cứu độ của Thiên Chúa được biểu lộ
giữa các tôn giáo khác. Trong đó, các tu sĩ phải là người tiên phong trong những
phong trào liên tôn hay đại kết này.
· Biên
cương sứ vụ “thừa sai” hay “truyền giáo” theo nghĩa cổ điển: đi đến những vùng đất và những nơi mà Tin Mừng
chưa được rao giảng.
· Biên
cương văn hóa. Đây là những
môi trường văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật... đang cần ánh sáng Tin Mừng. Sự
Hội nhập văn hóa phải là ưu tư hàng đầu cho các xứ truyền giáo như ở Việt Nam.
Làm sao cho Tin Mừng thấm vào văn hóa và nâng văn hóa địa phương lên một tầm
cao mới. Các ngành khoa học kỹ thuật nếu được ánh sáng Tin Mừng soi dẫn người
ta sẽ không còn bàn cãi về y đức, đạo đức sinh học... Người tu sĩ dấn thân
trong các lãnh vực này cần một số chuyên môn nào đó để có thể làm tốt công việc
hội nhập này.
Chúng ta vừa bàn về những chiều kích căn bản trong sự huấn luyện
cho các thụ huấn sinh. Những chiều kích này có thể nói là nguyên nhân cho những
sợ hãi của người thụ huấn. Rõ ràng là nếu không được đào tạo đàng hoàng hay
đúng hơn là không tự mình biến đổi, tự mình hoán cải theo những chiều kích căn
bản ấy, người thụ huấn sẽ cảm thấy sợ hãi khi đối diện với đời sống tu trì, đời
sống mục vụ, truyền giáo. Người viết xin đưa ra một số nhận định về sự sợ hãi của
người thụ huấn dựa trên bốn chiều kích căn bản trên.
2.5. Một vài nhận định về những
nỗi sợ hãi của người thụ huấn
Đối việc với việc đào tạo nhân bản
Một thụ huấn sinh nếu không được đào tạo tốt về nhân bản cũng như
Kitô giáo thì họ sẽ có những thái độ sợ hãi. Người thụ huấn không có khả năng
yêu thương, họ sợ trải lòng ra với chính mình và như thế họ sợ đến với người
khác. Người thụ huấn không có ý thức về mình, họ không biết mình, họ sợ phải đảm
nhận những vai trò trách nhiệm. Người thụ huấn không cởi mở, họ sợ phải đối diện
với Thiên Chúa và người khác. Người thụ huấn không chấp nhận thực tế, họ sợ tất
cả những gì có liên hệ đến bản thân. Người thụ huấn có một tình yêu chiếm hữu
vì họ sợ tổn thương, mất mát cho bản thân. Người thụ huấn không nói lên được
xác tín của mình, họ sợ phải đối diện với những yếu kém của bản thân. Người thụ
huấn không thích nghi, họ sợ phải đối diện với những thay đổi. Người thụ huấn
không có được sự quân bình và thái độ trung dung cần thiết, họ sợ phải quyết định,
chọn lựa và như thế sợ đối diện với rủi ro và đau khổ.
Đối với việc đào tạo Kitô giáo
Trong đời sống tu trì không thiếu những lúc thụ huấn sinh cảm thấy
sợ hãi vì họ thiếu đời sống cầu nguyện. Họ không có một nền tảng vững chắc của
đời sống thiêng liêng khi không cầu nguyện
hay không được hướng dẫn nhờ vị linh hướng. Họ sợ hãi không dám trình bày về
giáo lý hay các giáo huấn của Hội Thánh vì họ chưa có được những kiến thức căn
bản về giáo lý, đường lối của Hội Thánh cũng như nền tảng Kinh Thánh. Ngoài ra,
người thụ huấn còn cảm thấy sợ khi họ đối mặt với thực tế trong môi trường hoạt
động mục vụ hay nơi vùng truyền giáo. Họ chưa phát triển về chiều kích chuyên
môn.
Đối với chiều kích chuyên môn
Nỗi sợ của người thụ huấn còn bắt nguồn từ việc thiếu chuyên môn.
Trong cộng đoàn, họ mặc cảm vì không bằng các anh chị em khác, không đóng góp
gì cho cộng đoàn. Trong công việc mục vụ, họ cảm thấy hụt hơi trước những người
trẻ năng động hơn, hay những người có các chuyên môn cao hơn. Họ cần một chuyên
môn nào đó để tự tin hơn trước mọi người, để năng động hơn ít là trong chuyên
môn của mình. Trong việc giảng dạy, người thụ huấn nếu có một mặt bằng tri thức
tương đối thì họ sẽ không cảm thấy sợ hãi nữa, mà tự tin để nói lên những điều
Thiên Chúa đang muốn nói với thính giả của mình.
Đối với chiều kích tâm linh
Người thụ huấn cảm thấy sợ hãi khi họ chưa được phát triển đời sống
tâm linh. Họ làm bất cứ điều gì cũng sợ sai, nói điều gì cũng sợ không đúng. Bởi
vì họ chưa để cho tinh thần Tin Mừng thấm vào họ. Họ chưa có cái nhìn theo ánh
sáng của Phúc Âm. Họ chưa muốn để trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Thụ
huấn sinh thiếu kim chỉ nam là Tin Mừng, họ sợ bị lạc hướng. Như thế, thụ huấn
sinh không dám dấn thân.
Đối với chiều kích mục vụ
Nếu thiếu đào tạo hay chưa phát triển về chiều kích mục vụ thì người
thụ huấn càng sợ hãi hơn. Công việc mục vụ đòi hỏi nỗ lực rất lớn và buộc họ
làm việc với những người khác có thể là ngoài cộng đoàn. Trong nhà thì anh em có thể bảo nhau, nhưng ra đường mọi việc
lại không đơn giản như thế. Thụ huấn sinh sợ vì họ chưa thấm nhuần được tinh thần
dấn thân phục vụ theo linh đạo của hội Dòng. Cũng có thể họ sợ vì không có sự
nâng đỡ của cộng đoàn. Thế nhưng để thắng vượt những nỗi sợ, chính người thụ huấn
phải lo cho mình những hành trang cần thiết trong đời sống mục vụ sau này.
Trên đây là một số cố gắng để nhìn về nguyên nhân những nỗi sợ hãi
của người thụ huấn. Điều vẫn thường xảy ra cho một thụ huấn sinh. Tất cả những
nỗi sợ hãi này trở thành một thách đố thường xuyên của người thụ huấn. Họ cần
phải nỗ lực liên tục để đối diện và vượt qua những thách đố này. Xét cho cùng,
những thách đố, những đòi hỏi này là những điều rất cần thiết trong tiến trình
huấn luyện. Thiết nghĩ, dù muốn hay không thì người thụ huấn cũng phải đi vào
trong tiến trình huấn luyện, đối diện với những thách đố để có thể hy vọng rằng
đạt đến một tầm vóc mới của bản thân trước những đòi hỏi của hội Dòng và Giáo hội.
Như là một chút đọng lại trong suy tư của mình, người viết đi đến phần kết luận
của đề tài.
KẾT LUẬN
Chúng ta đã rảo qua một số góc nhìn về người huấn luyện và người
thụ huấn trong ơn ban của Chúa Thánh Thần, nhất là ơn kính sợ. Nhà huấn luyện
muốn làm tốt được công việc của mình, họ cần phải đào tạo cho chính mình bằng đời
sống nhân bản, đời sống cầu nguyện và một số chuyên môn cần thiết. Đối với người
thụ huấn cũng thế, người huấn luyện không thể lúc nào cũng theo sát bên mình,
canh chừng để nhắc bảo. Tự huấn luyện bản thân luôn là tiêu chí hàng đầu cho
công tác huấn luyện. Do đó, người thụ huấn cần được hướng dẫn, dạy dỗ trong
giai đoạn huấn luyện sơ khởi. Họ nên mở lòng ra để lắng nghe người huấn luyện,
nhất là nghe tiếng Chúa. Nỗ lực bản thân đáp lại lời mời gọi của Chúa là điều
mà người huấn luyện lẫn người thụ huấn phải tuân theo.
Tuy nhiên, như chúng ta đã biết huấn luyện là công việc của Chúa.
Huấn luyện để người huấn luyện lẫn người thụ huấn đạt được tâm tình của Chúa
Con. Chúng ta thấy nổi bật lên vai trò của Chúa Thánh Thần. Dĩ nhiên con người
phải nỗ lực hết mình, nhưng không phải vì thế mà tự cho mình làm chủ trong công
tác huấn luyện. Trên hết , hãy để cho Thần Khí làm việc. Điều này muốn nhắc tới
người huấn luyện luôn nhớ mình chỉ là một trung gian, một công cụ Chúa dùng cho
công việc của Ngài. Nói như thế vì có những người huấn luyện muốn cung cấp cho
người thụ hướng của mình những chỉ dẫn cặn kẽ, những giải pháp cụ thể và hữu hiệu
tức thời trước những khó khăn; hay lầm tưởng người thụ hướng phải luôn lệ thuộc
vào mình mới có thể nên hoàn thiện; hoặc là cung cấp những kỹ thuật để người đồng
hành với mình có thể nên thánh cấp tốc.[78]
Hãy để cho Thần Khí làm việc cũng là một lời khuyên đối
với người thụ huấn. Có những thụ huấn sinh có thể tập tành được nhiều nhân đức,
hay có vẻ như sống đạo đức thánh thiện hơn anh chị em khác, có vẻ như trưởng
thành hơn so với anh chị em cùng lớp. Họ có thể rơi vào cạm bẫy tự cao, tự đại,
tự cho mình là giỏi giang để trở nên được như thế. Dĩ nhiên, họ có thể đã trải
qua những biến cố nào đó để rồi có cơ hội trưởng thành hơn những người khác.
Tuy nhiên, hãy coi chừng, nếu không để cho Thánh Thần làm việc, nếu không có ơn
kính sợ, người thụ huấn đi vào con đường lầm lạc. Họ thấy không cần phải thăng
tiến hơn nữa trên con đường thiêng liêng, tự thấy như vậy là đủ. Ơn kính sợ đã
không còn nơi họ, không còn một tâm tình là người con hiếu kính đối với Thiên
Chúa nữa.
[1] Amedeo
Cencini. Tâm Tình Chúa Con, Chuyển ngữ:
Nguyễn Ngọc Kính, OFM và Nguyễn Văn Khoan, OFM (Tôn Giáo, 2012), tr.54.
[2] Phạm Quốc
Văn, OP. Trên Đường Emmaus, một thoáng
nhìn về việc đồng hành thiêng liêng, in lần ba (lưu hành nội bộ, 2012), tr.
86.
[3] Rm 8, 16.
[4] Xc., Ernest Manise, CSsR. Chúa Thánh
Thần, Đấng Thánh Hóa Linh Hồn Qua Bảy Ơn Thánh, dịch giả: Nguyễn Thị Chung (Tôn Giáo, 2010), tr. 75-285.
[5] Hc 1, 14. (Bản
dịch Kinh Thánh của Cha Nguyễn Thế Thuấn)
[6] Ernest
Manise, CSsR. Chúa Thánh Thần, tr.
73.
[7] Sđd., tr. 74.
[8] Sđd., tr. 74.
[9] Sđd., tr. 75.
[10] Sđd., tr. 76.
[11] 1Cr 10, 12.
[12] Xc.Ernest
Manise, CSsR, op.cit., tr. 97.
[13] Amedeo Cencini. Tâm Tình Chúa Con, tr. 54.
[14] Lc 17, 10.
[15] Phạm Quốc Văn, OP. Trên Đường Emmaus, tr. 141-142.
[16] Nguyễn Thái Hợp, OP. Để Họ Lớn Lên (Đức Tin & Văn Hóa, 2007), tr. 176-177.
[17] Amedeo Cencini. Tâm Tình Chúa Con, tr. 56.
[18] Nguyễn Thái Hợp, OP. Để Họ Lớn Lên, tr. 177-178 .
[19] Amedeo Cencini. Tâm Tình Chúa Con, tr. 58.
[20] Phạm Quốc Văn, OP. Trên Đường Emmaus, tr. 51.
[21] Sđd., tr.53.
[22] Sđd., tr.65.
[23] Trích lại trong Phạm Quốc Văn, OP. Trên Đường Emmaus. tr. 66.
[24] Phan Tấn Thành, OP. Đời Sống Tâm Linh, tập III, (Rôma,
2003), tr. 293-294.
[25] Trích lại trong Phạm Quốc Văn, OP. Trên Đường Emmaus, tr. 70.
[26] Amedeo Cencini. Tâm Tình Chúa Con, tr. 61.
[27] Phạm Quốc Văn, OP. Trên Đường Emmaus, tr. 31.
[28] Sđd., tr. 31.
[29] Sđd., tr. 33.
[30] Sđd., tr. 34.
[31] Sđd., tr. 35
[32] Sđd., tr. 39.
[33] Richard P. Vaughan, S.J. Tư Vấn Mục Vụ, những kỹ năng căn bản, dịch:
Lm. Lê Công Đức, (Tôn giáo,2009), tr.135.
[34] Sđd., tr. 136.
[35] Phạm Quốc Văn, OP. Trên Đường Emmaus, tr. 43.
[36] Amedeo Cencini. Tâm Tình Chúa Con, tr. 61.
[37] Xc. Sđd., tr.63.
[38] Xc. Sđd., tr.63.
[39] Sđd., tr. 65.
[40] Xc. Sđd., tr.65.
[41] Sđd., tr. 65.
[42] Xc. Sđd., tr. 65-66.
[43] Sđd., tr. 70.
[44] Sđd., tr. 69.
[45] Sđd., tr. 70.
[46] Sđd., tr. 69.
[47] Xc. Phạm Quốc Văn, OP. Trên Đường Emmaus, tr. 86-90. Trong đó,
tác giả phân tích khá kỹ về việc bắt đầu thế nào, mục đích là gì và nội dung của
việc đồng hành thiêng liêng lý tưởng mà Chúa Giêsu đã thực hiện.
[48] Xc. Amedeo Cencini. Tâm Tình Chúa Con, tr. 233.
[49] Sđd., tr. 233.
[50] Sđd., tr. 234.
[51] Sđd., tr. 234.
[52] Sđd., tr. 236.
[53] Xc. Sđd., tr. 237.
[54] Sđd., tr. 237- 238.
[55] Xc. Sđd., tr. 238-239.
[56] Xc. Sđd., tr. 239.
[57] Xc. Sđd., tr. 239-240.
[58] Xc. Sđd., tr. 241.
[59]
Sđd., tr. 241.
[60] Sđd., tr. 242.
[61] Những
chỉ dẫn về việc đào tạo trong các Hội dòng, số 33. Trích lại trong , P.
Nguyễn Thái Hợp. Để Họ Lớn Lên (Đức
tin và Văn hóa, 2007), tr. 191.
[62] Xc. P. Nguyễn Thái Hợp, OP. Để Họ Lớn Lên, tr. 192-197.
[63] Charles Serrao, OCD. Biện Phân Ơn Gọi Tu Trì, Đào Tạo Hướng Đến Sự Thay Đổi, Người dịch:
Dom Nguyễn Đức Thông, CSsR. (Tôn Giáo, 2012), tr. 58.
[64] Gl 5, 6.
[65] Gc 2, 17.
[66] Charles Serrao, OCD. Biện Phân Ơn Gọi Tu Trì, tr. 61.
[67] P. Nguyễn Thái Hợp, OP. Để Họ Lớn Lên, Tr. 203.
[68] Sđd., tr. 204.
[69] Xc. Sđd., tr. 205.
[70] Perfectae Cartitatis, số 6.
[71] Xc. P. Nguyễn
Thái Hợp, OP. Để Họ Lớn Lên, Tr.
206-209.
[72] Mc 16, 15.
[73] Lumen Gentium, số 46.
[74] Perfectae Caritatis, số 2 b.
[75] Xc. P. Nguyễn
Thái Hợp, OP. Để Họ Lớn Lên, Tr. 212-
217.
[76] Hội đồng Giám
Mục Việt Nam, Đề Cương Giáo hội Tại Việt
Nam: Mầu nhiệm- Hiệp thông- Sứ vụ, Ban tổ chức Năm Thánh 2010, tháng
10/2008, số 4d. Trích lại trong Fx. Trần Kim Ngọc, OP, “Giáo hội Với Vấn Đề Di
Dân”, Chia Sẻ, số 71 (tháng 9 -
2013): tr.35-36.
[77] Ninh Tú Toàn,
OP, “Giáo Huấn Xâ Hội Công Giáo Về Di Dân”, Chia
Sẻ, số 71: tr. 78.
[78] Phạm Quốc
Văn, OP. Trên Đường Emmaus, tr. 46.
Đăng nhận xét