Thách đố trong đời sống hiến dâng

Ra khỏi mình để gặp gỡ tha nhân
cũng đòi buộc để lại đàng sau những thành kiến,
những phản ứng, suy tư nhanh, vội, để được biến đổi,
đơn giản là để lại đàng sau những thói quen
mà lắm lúc ta thường dễ dàng tuyệt đối chúng
                                                 Nt. Trần Thị Quỳnh Giao, FMM
Thách đố của đời sống thánh hiến quả thực là không ít. Đời sống nào lại không có những thách đố của nó. Nhưng dường như thách đố làm cho cuộc sống lắm lúc thêm đậm đà và sâu sắc hơn khi có sự kiên nhẫn ngồi lại với nhau để cố tìm một sự lắng nghe, cảm thông, thì có thể hy vọng đi đến một kết quả thay đổi chính cuộc sống của mình. 
Bài viết này muốn chia sẻ đôi điều tâm đắc mà kinh nghiệm sống đời hiến dâng lâu năm trong một Hội Dòng quốc tế đã đem lại những hoa quả quý báu làm cho đời sống dâng hiến thực sự có ý nghĩa.
Tương quan là yếu tố căn bản của đời sống truyền giáo thừa sai của người Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ (FMM). Tương quan đó là nền tảng của cuộc sống của chúng tôi, cuộc sống này chúng tôi hiểu như cuộc sống theo hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa, Cha-Con-Thánh Thần, một Thiên Chúa Tương giao, đối thoại, đón tiếp, ân ban, yêu thương và tự do. Nhưng trong tương quan đó, chúng tôi cảm nghiệm được sự phức tạp, khó khăn vì mỗi người chúng tôi điều ít nhiều bị thương tích và khi chúng tôi đến với nhau, chúng tôi ý thức mình đến với nhau với tất cả những thương tích trong con người mình. Song chính nhờ những rạn nứt này mà Thiên Chúa đến với con người tôi, chúng tôi, qua bản thân của Đức Giêsu, sống giữa con người bị thương tích đó, để nhờ Thần Khí, lôi kéo chúng tôi đến tâm tình sám hối liên lỉ, nhờ đó chúng tôi từ từ có thể đi đến với người khác để gặp gỡ, chia sẻ.  
Tôi còn nhớ lệnh truyền của Yahwe Thiên Chúa với Abraham: “Hãy ra khỏi xứ sở ngươi, dòng tộc ngươi, làng mạc ngươi và hãy đi đến mảnh đất mà Ta sẽ chỉ cho ngươi.”  Ai trong chúng ta đã không một lần nghe được lệnh này, một lời mời bỏ tất cả mọi sự, lời mời đến từ một ai đó, hoàn toàn khác. Và khi đó bắt đầu một cuộc mạo hiểm, một cuộc mạo hiểm lớn. Một cái nhảy vọt trong hoang vắng, trong cái hoàn toàn không biết, trong đức tin; tách khỏi mọi sự quen thuộc với chúng ta, với những gì thân thiết nhất, với những thói quen, nơi chốn, một sự từ bỏ hoàn toàn… để đi đến với người khác, đến với những con người mà ta không quen biết, đến những nơi lạ lẫm; để gặp gỡ những người anh em, chị em, những quốc gia, những nền văn hóa khác, đến với một Giáo hội khác… trong một quá trình lâu dài, quá trình tập luyện sống tình anh chị em, qua những xung đột, những hòa giải, những thứ tha…
Đi đến với người khác
Đây là một thách đố lớn đối với chúng tôi, một thách đố hai mặt:
Với tư cách là một thừa sai
Chúng tôi được mời gọi tháp nhập trong:
- Một nền văn hóa lắm lúc không phải là của tôi (ngay cả là người Việt, đã có ba miền khác nhau với bao khác biệt từ ngôn ngữ, giọng nói, thực phẩm v.v…). Trong một cộng đoàn quốc tế và liên văn hóa, điều này cho thấy liền, yếu tố quan trọng và cơ bản là phải ra khỏi chính mình.
Chúng tôi là những thừa sai phải được gởi đi “ra ngoài biên thùy” (ad extra). Muốn gặp gỡ tha nhân phải ra khỏi chính mình, mà tha nhân thì hoàn toàn khác với tôi, không chỉ tôi thấy họ khác mà chính họ cũng thấy tôi khác với họ nữa. Cả hai, chúng tôi khác nhau biết bao, xa lạ nhau nhiều. Ngày nay không có một quốc gia nào mà không có sự pha trộn lẫn nhau giữa các nền văn hóa. 
- Ra khỏi mình luôn là một sự mạo hiểm và không dễ dàng gì khi phải chấp nhận rằng có những điều chúng ta không biết, rằng có những thứ tình cảm xen lẫn trong chúng ta, những nỗi sợ hãi, những lo âu, cảm nghiệm không an toàn, bị loại trừ, làm ta muốn quay về với chính mình. Trên bình diện tình cảm, ta có thể bị tổn thương. Cần can đảm và thực tế nhìn nhận chân lý này nếu muốn thực sự đi đến với người khác.
Một kinh nghiệm: khi được biết người cháu gái là GS ở Sorbonne sắp lập gia đình với Guadeloupe, một người không nghề nghiệp, đó là một cú sốc cho tôi. Mình vẫn được biết và được giáo dục rằng con người là hình ảnh Thiên Chúa, rằng phải tôn trọng, phải yêu thương họ v.v. Tôi cũng được chuẩn bị, biết rằng chấp nhận những khác biệt, dù nhỏ, như món ăn, đến những giá trị sâu xa hơn, ngôn ngữ, tính tình, tư tưởng không phải là dễ; đón nhận những cách thể hiện khác nhau của niềm tin, rằng tất cả những thứ đó làm phong phú mình. Đúng vậy, nhưng dù gì, đó vẫn là một cú sốc quá lớn đối với tôi!
Có lẽ không phải là do sự khác biệt văn hóa, mà dường như do chính tôi: với những nguồn cội văn hóa và thiêng liêng của mình, tôi ý thức rõ ràng sự vượt trổi hẳn của nền văn hóa Việt của mình; cú sốc ẩn dấu sâu xa dưới mặt nạ được mang danh là quyền của mỗi người được thể hiện nó, biểu lộ nó và cả quyền phải bảo vệ nó nữa. Tôi tự vấn mình về chính căn tính thật của mình: sống sự dằng co này, giữa gặp gỡ và đối nghịch, nghĩa là nhu cầu diễn tả và xác định căn tính văn hóa của tôi, tinh thần và tôn giáo của tôi và nhu cầu đi vào tương quan với tha nhân, trong sự chấp nhận, đón nhận thế giới của họ, màu da của họ, văn hóa của họ, tôn giáo của họ… Không dễ để yêu thương, để tôn trọng người kia, và đây như là một vết thương tích đối với tôi, khi khám phá ra rằng tôi có khuynh hướng đề cao mình là người Việt Nam, vượt hẳn họ, những người da đen! Phải khiêm tốn nhìn nhận điều này, nếu không, chính vì thế mà chúng ta sẽ không chế ngự được nó. Đúng, đây là một kinh nghiệm sống đau đớn nhưng hữu ích vì nhờ đó mà sau này tôi cảm thấy khoan dung hơn. 
- Ra khỏi mình để gặp gỡ tha nhân cũng đòi buộc để lại đàng sau những thành kiến, những phản ứng, suy tư nhanh, vội, để được biến đổi, đơn giản là để lại đàng sau những thói quen mà lắm lúc ta thường dễ dàng tuyệt đối chúng; tránh đi những so sánh, nếu không, thân xác có đó, với ý nghĩ là thừa sai, nhưng tinh thần, tâm hồn thì “ở nhà”chứ không ở vùng truyền giáo. 
- Quá trình dài lâu này sẽ được sống với những vụng về và ngạc nhiên nữa, trước những phản ứng hay suy tư mà chúng ta có thể không hề biết trước. Ý thức và chấp nhận điều này sẽ giúp cả hai đi đến một sự đổi thay nào đó. Nỗi sợ hãi sẽ biến mất, lòng tin tưởng bất đầu hé mở và những chiếc cầu nhỏ bé bắt đầu được thiết lập. Người kia, kẻ xa lạ trở nên gần hơn, trở nên người láng giềng mà ta chia sớt với nhau một cái bánh mới làm hay một cọng rau trong vườn…
- Một điểm khác không thể chối cãi được mà kinh nghiệm gặp gỡ tha nhân đưa đến là thực sự có một mất mát nào đó, có thể là xa cách với một người thân vì họ không đồng suy nghĩ với mình. Để tái lập lại một rạn nứt nào đó, như chính thánh Phêrô cũng đã phải làm khi mở rộng lòng mình để đón tiếp sĩ quan Cornelius vào Giáo hội. 
- Trong kế hoạch truyền giáo có một cách thế đặc biệt: không cố thuyết phục, không áp đặt để người kia“trở lại đạo”như  mình muốn, nhưng là làm sao để người kia thấy họ vẫn có quyền “khác” với mình. Do đó phải có sự lắng nghe giữa đôi bên, qua đó mỗi người chia sẻ cho nhau sự khôn ngoan của mình, cách thức chiến đấu của mình, niềm hy vọng, nỗi sợ hãi, thất bại thành công của mình, niềm vui nỗi buồn, tất cả mọi diễn đạt nghèo nàn, giới hạn, kinh nghiệm đức tin, lòng tha thứ… Qua những lần trao đổi chia sẻ kinh nghiệm sống trong cuộc sống bình dị của mỗi người, Tin Mừng có thể được cảm nghiệm qua chứng từ yêu thương đưa mỗi người đi đến với nhau, đến với sự sống. Một trong những mục tiêu của đối thoại là đập bỏ những bức tường thành kiến chia rẽ con người, tạo điều kiện tốt thuận lợi để cảm thông và gần gũi.
- Việc truyền giáo giúp con người tôn trọng lẫn nhau, khơi dậy nơi ta chiều kích phổ quát. Ý thức rằng chúng ta cùng chung một đại gia đình và đây là điểm đặc sắc của người Á Đông khi Đức Không Tử dạy: “Tứ hải giai huynh đệ”. Phải chăng đó là ước muốn của Thiên Chúa Ba Ngôi: Một mà Ba cho chúng ta, Đấng đã quy tụ chúng ta thành một đại gia đình và anh em bởi được tạo dựng theo hình ảnh của Ngài?
Với tư cách là chị em…
Chúng tôi phải Dám sống tình chị em. Trong thao tác đón nhận nhau, mỗi người nhận chân mình được đón nhận như mình là mình, với những giới hạn, những phong phú của mình, với lịch sử của mình, cùng nhau đọc lại, lắng nghe, chia sẻ, trở thành “lịch sử thánh” cho cả hai, kết nối bởi bao ân huệ và lỗi lầm được thứ tha; những nỗi sợ hãi, bị xét đoán, sợ không được nhìn nhận, từ từ có thể nhường chỗ cho lòng tin tưởng. Trong tương quan này, những ước mơ và nguyện vọng sâu thẳm giành cho nhau được xác định, và những ngờ vực được giải tỏa. Do vậy mà những gặp gỡ với tha nhân có thể giúp khám phá được công trình của Thần Khí đang hoạt động trong cuộc sống của chúng ta, một cuộc sống được sẻ chia bởi ân huệ và lỗi lầm, nhưng chắc chắn là được thứ tha thực sự.

Gặp gỡ những người anh em…
Chúng ta nên lưu ý về cách nói ít khi có trên môi miệng của Chúa Giêsu, khi sáng ngày Phục Sinh, Ngài dùng để nói với các bà khi nhờ nhắn tin cho các môn đệ. Ngài dùng từ “anh em”: “Hãy đi nói với anh em Thầy rằng, họ phải đi đến Galilê để gặp Thầy”(Mt 28, 10). Thánh vịnh 22 cũng đã dùng: “Con sẽ loan báo danh Ngài cho anh em con trước lòng Đại Hội”. Tại sao có lời này của Chúa Giêsu sáng ngày Phục Sinh? Điều này hé mở cho thấy lý do căn bản giữa cuộc gặp gỡ - tương quan, nghĩa là mối giây phải có giữa Chúa Giêsu được Phục Sinh và các môn đệ: Biến cố Phục Sinh mặc dù mang tầm vóc lớn và có làm cho các ông cảm thấy kinh hoàng, thì cũng không được xem như một sự cắt đứt giữa quá khứ và hiện tại, giữa sự vinh quang của một Giêsu Phục Sinh và tính nhân loại của một Giêsu Nazareth.
Đúng, Ngài là Thiên Chúa Hiển Vinh nhưng là người anh em của họ trong bản tính nhân sinh của Ngài. Đối với Đức Kitô, sự hiển vinh này của Ngài là Nước Thiên Chúa mà Ngài đã loan báo trước đây, được đánh dấu bởi sự gần gũi. Và để minh chứng điều đó Ngài đã tự mạc khải cho thấy Ngài là một người gần gũi nhất với họ, gần gũi với mọi con người. Thay vì tự giam mình trong một vòng nhỏ bé với một số bạn bè hay người công chính, Ngài lại đi đến với những người xa nhất, với những người lạc lõng, những tội nhân, những người bị loại bỏ. Ngài ăn uống với họ, ở giữa họ. Ngài dẹp đi tất cả mọi khoảng cách. Ngài để cho họ đến gần Ngài. Ngài để cho quần chúng đụng chạm đến Ngài. Mọi người phải cần biết rằng Thiên Chúa muốn đi vào tương quan với con người, muốn tạo tương quan, muốn hiệp thông với mỗi con người. Sự hiển vinh của Thiên Chúa mà Ngài mạc khải, cơ bản là tính vương quyền của tình yêu thương, thứ tình yêu thương không hề biết đến ranh giới hay khoảng cách nào và chỉ có thể trị vì nhờ sự gần gũi và hiệp thông. (xc. Hôsê 11,1-4)
Qua đó Đức Giêsu cho thấy rõ vinh quang của Cha và sự vinh hiển của Người không cần tìm đâu trên trời, ngoài trần thế này mà là với tha nhân, không là chế ngự mà là hiệp thông. Không là khoảng cách mà là tương quan gần gũi.
Đó là ý nghĩa căn bản của tương quan liên văn hóa của chị em, dẫn đến sự hiệp thông, làm cho chị em trở thành chị em trong Chúa Giêsu Phục Sinh, quyền năng mới của Sự Sống lại làm Thiên Chúa gần gũi với con người nhờ bởi tình Con Thảo của Chúa Kitô, biến đổi tương quan xa xôi của con người thành NGƯỜI ANH EM.
Điều này cần phải trải qua một tiến trình lâu và dài: Chúng ta cần xác tín rõ và vững chắc rằng, chúng ta phải chấp nhận tiến trình dài lâu này, nhưng vững tin là có thể đạt được kết quả, có thể đến đích trong kiên trì, thông cảm, khiêm tốn và thứ tha. 
Đời dâng hiến là một hành trình dài, hành trình hiến dâng liên lỷ. Thử thách cách này hay cách khác, lúc này hay lúc kia; phải được coi là một điều bình thường trong hành trình lữ thứ. Điều quan trọng là biết đón nhận, vượt qua, và cứ đích cuộc hành mình mà nhắm tới. Tôi tin rằng chúng ta, ít nhiều, đã trải nghiệm được đôi chút kinh nghiệm về những thách đố này. Mọi sự bắt đầu, hay làm mới cuộc hành trình đều không bao giờ là trễ cả. Chúc tất cả những anh chị em sống đời thánh hiến thành công trên nẻo đường xem ra “chẳng mấy ai đi” này.




Thách đố
của tu sĩ trẻ ngày nay
với nh
ng ảnh hưởng của
t
ư tưởng hiện sinh
Cuộc sống hiện sinh của tu sĩ trẻ ngày nay
có lẽ phần nào mang nặng hiện sinh của Kierkegaard khi nhìn vào ba giai đoạn triết thuyết của ông.
Đời tu của tuổi trẻ ngày nay
cũng được xem như ba giai đoạn
để vươn lên và chót đỉnh là chính Đức Kitô.
Phêrô Nguyễn Viết Hùng, O. Cist.
Dẫn nhập
Trong cuộc sống, kinh nghiệm cho thấy rằng, cơ hội hay nguy cơ có khi ẩn khuất ngay trong một sự việc; cái hay, cái dở dường như luôn có đó, tùy theo sự khôn ngoan chọn lựa của con người. Cũng vậy, trước một tư tưởng, một triết thuyết, chúng ta cũng thấy sự lưỡng giá của nó.
Với bài viết này, chúng ta thử tiếp cận với những thách đố của đời tu, qua góc nhìn triết học, cụ thể là với những ảnh hưởng của tư tưởng hiện sinh. Một khi nhận ra những thách đố, có khi là cơ hội chứ không hẳn luôn là nguy cơ, chúng ta có thể thăng tiến đời sống dâng hiến của mình.
I. Một vài nét tìm hiểu về tư tưởng hiện sinh
Được gọi chung là thuyết hiện sinh nhưng mỗi quan niệm của mỗi triết gia hoàn toàn khác nhau, vì họ đều trỗi dậy từ kinh nghiệm bản thân, cho nên hiện sinh mang nhiều hình thức sai biệt của từng triết gia; chẳng hạn như: Jaspers nói về tính chất mong manh của thể tính; Heidegger thì nói tới sự chết và chọn lựa sự chết; Sartre thì kinh nghiệm về trạng thái buồn nôn của cuộc đời. Nói chung các triết gia hiện sinh không ai che dấu triết lý của họ bắt nguồn từ những kinh nghiệm. Chính đó là do thuyết hiện sinh luôn luôn mang dấu vết kinh nghiệm cá nhân, ngay ở nơi Heidegger hướng về cái chết cũng hướng về một cách chọn lựa.
1. Quan niệm và lập trường của hiện sinh
Thuyết hiện sinh lấy cái gọi là hiện hữu làm đối tượng cứu cánh của nghiên cứu. Những ý kiến mà họ gán cho chữ hiện hữu rất khó hiểu, tuy nhiên trong mỗi trường hợp, nó có thể chỉ cho ta cách thế hiện hữu dành riêng cho con người. Con người là một từ ngữ xem ra ít dùng mà thông thường được thay thế bằng chữ “tại thế”, “Dasein”, “hiện hữu”, “tự ngã”, “tự thân thể”. Độc nhất chỉ có con người là hiện hữu, nói đúng hơn con người không có sự hiện hữu mà chính nó là hiện hữu.
a. Quan niệm của hiện sinh
Trước hết ta có thể khẳng định một cách chắc chắn là lập trường của thuyết hiện sinh hoàn toàn khác với các thuyết khác trong thời cổ. Từ thời Platon, Aristote cho đến Descartes, Kant, Hegel… có thể nói đây là một thứ triết thuyết phóng thể, thay vì giúp con người suy nghĩ về thân phận và định mệnh của mình, thì đã khuyến khích con người quyên minh để mãi mê tìm hiểu vẽ huyền bí của Tạo Hóa, như thế con người không có thể đứng riêng, mà con người cũng là một trong hàng ngũ của vạn vật. Trong các triết thuyết cổ truyền hình như vắng bóng con người hiện sinh, không bàn đến tự do, không bàn đến nhân vị, cũng không bàn đến định mệnh cuộc đời chúng ta sau khi chết, bởi vì vũ trụ to quá át mất con người. Trần Thái Đỉnh trong cuốn Triết học hiện sinh đã nói rất sâu sắc:
Triết thuyết cổ đã phản ánh thái độ sơ khai của ý thức con người, một ý thức bị phóng thể, đứa bé còn cởi truồng đi chơi ngoài đường, nó không biết xấu hổ, nó không biết nhìn nó bằng con mắt người ta đang nhìn nó. Tóm lại nó chỉ biết nhìn ra mà không biết nhìn vào chính nó, thời kỳ niên thiếu là thời kỳ con người phóng thể hoàn toàn hòa mình vào vũ trụ. Chỉ ý thức về các sinh vật trong vũ trụ. Khi nào con người ý thức mình đang sống trong vũ trụ, mình đang sử dụng sự nọ vật kia, mình có thái độ tốt xấu, thì lúc đó con người mới bước sang giai đoạn phản tỉnh”.[1]
Các triết thuyết cũ, dù có đối tượng hóa con người chăng nữa, thì con người là thế này thế nọ trong khi con người phải sống xứng đáng là con người của tự do, chính đây là lập trường của thuyết hiện sinh. Từ đó ta có thể nói thuyết hiện sinh là một triết thuyết về con người, triết thuyết về ý thức cuộc sống hiện sinh.
Thuyết hiện sinh bỏ đi con đường cũ của các triết thuyết cổ truyền, không theo đuổi nguyên nhân cao nhất của vạn vật nữa. Thuyết hiện sinh không mất thì giờ bàn những chuyện xa xôi về những vẽ huyền vi của tạo hóa, nhưng chỉ chú trọng đến thân phận của con người, tìm hiểu ý nghĩa của cuộc sống và cái chết của con người, không gì tha thiết con người bằng chính con người. Bởi lẽ, tiếng nói của hiện sinh đã được các giới, nhất là giới trẻ đầy ưu tư về thân phận của mình, họ đã đón chào một cách nồng nhiệt và đã ảnh hưởng lớn trên các phong trào của giới trẻ hiện nay.
Điều này do hai căn cơ: thứ nhất, vì thuyết hiện sinh nói thẳng thắn đến chuyện xã hội loài người; thứ đến thuyết hiện sinh không dùng lối danh từ chuyên môn trừu tượng mà dùng lối nói chung của mọi người, kiểu truyền đạt như truyện ngắn, kịch, tiểu thuyết…
Thuyết hiện sinh đã nhường việc nghiên cứu vũ trụ cho các nhà khoa học, để chỉ suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời của con người, chính thế mà thuyết hiện sinh đã cảnh tỉnh được con người, dù là khuynh hướng Thiên Chúa giáo hay vô thần thì thuyết hiện sinh đã mang tôn giáo lại cho thế giới lạnh lùng của triết thuyết cổ điển[2].
b. Lập trường của hiện sinh
Nội dung chính của thuyết hiện sinh là con người, con người sinh hoạt hàng ngày có xương có thịt, con người trong thực tại xã hội, chứ không phải con người viết hoa của Aristote mà con người đây là tôi, là anh, là chúng ta hết thảy. Con người sinh hoạt, tôi là một chủ thể, tôi là một nhân vị tự do, đó là hai đề tài chính của thuyết hiện sinh. Qua chủ thể ta khẳng định thuyết hiện sinh là thuyết của con người đã tỉnh ngộ. Con người hiện sinh là con người dám nhìn thẳng vào sự thực, không sống theo những quan niệm trừu tượng. Như ông thầy thì được kính trọng, ông cha được kính sợ… con người hiện sinh không có tính chất nịnh hót như thế, nhưng luôn cố gắng dùng suy nghĩ để xác nhận ý nghĩa hiện sinh, tức là ý nghĩa thực sự của mỗi người, mỗi vật. Cho nên, họ không trọng ông thầy vì ông thầy, hay sợ ông cha vì đó là ông cha…nhưng chỉ kính trong ông thầy, ông cha vì những đức tính tri thức đạo đức của ông thầy hoặc ông cha đó. Họ không kính trọng ông thủ tướng vì ông là thủ tướng nhưng kính ông vì ông có tài có đức.
Tự do tính: nếu chỉ nói lên chủ thể tính thì chưa nói lên được cái giọng “ngang tàng” của thuyết hiện sinh. “Ngang tàng” hiểu theo nghĩa hiện sinh là gì? Người ngang tàng là người không chịu đứng trong hàng ngũ quần chúng vô danh. Người hiện sinh là người ngang tàng vì họ ý thức được mỗi người là một kỳ diệu của Thượng Đế, mỗi người là một cái độc đáo, nhưng hiểu độc đáo không phải là lập dị và ngang tàng không có nghĩa là bướng bỉnh phá phách; mà đây là nói lên con người tự do. Tự do này là bảo đảm cho hiện sinh, vì tự do của xã hội thường ngày chưa phải là tự do của hiện sinh[3]. Tự do bên ngoài chưa phải là điều kiện cần thiết của tự do bên trong, tức là tự do hiện sinh.
Tóm lại thuyết hiện sinh dạy ta suy nghĩ về thân phận con người làm người, thức tỉnh con người trỗi dậy bỏ cách sống như sự vật để sống một cuộc sống có nhân vị, nhân vị cao cả con người là tự do.
c. Những tư tưởng chính của hiện sinh
Như đã nhận định trên: đề tài duy nhất của thuyết hiện sinh là con người tại thế. Con người cá vị, với những điều kiện sinh hoạt nhất định, và định mệnh độc đáo của mỗi người. Con người hiện sinh là người được chiêm nghiệm dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Đó chính là đề tài của các nhà hiện sinh, nhiều học giả gọi đề tài đó bằng hai chữ “phạm trù”.
Nói đến phạm trù ta có thể đưa ra vài so sánh phạm trù của thuyết hiện sinh với các thuyết cổ điển. Chữ phạm trù có từ thời Aristote, ông xem vạn vật đứng vào mười loại sự kiện, tức là mười phạm trù Aristote. Vạn vật là bản thể hay tùy thể, bản thể là chủ thể còn tùy thể là thuộc tính. Gồm có chín tùy thể sau đây: lưỡng tính, phẩm tính, tương quan, hành động, thụ động, vị trí, thời gian, không gian, thái độ.
Bước sang nền triết học nêu cao ý thức thì Kant đã bỏ mười phạm trù của Aristote mà đưa ra mười hai phạm trù mới. Theo Kant thì chủ quyền phán đoán không thuộc về thiên nhiên, nhưng thuộc về trí năng của ta. Vạn vật xuất hiện theo những thể thức phán đoán của ta. Từ đó cho ta thấy Kant đã đi vào lãnh vực duy tâm. Nhất thể tính, thực thể tính và khả hữu tính…vì Kant chỉ chú trọng đến tính chất phán đoán của trí năng, chính nhờ phán đoán làm nên bộ mặt phạm trù.
Thuyết hiện sinh hoàn toàn xóa bỏ phạm trù của Aristote lẫn của Kant. Duy vật hay duy tâm đều không phản ánh đúng sự thật. Thuyết hiện sinh chối bỏ cả duy tâm lẫn duy vật, chủ trương con người không phải là một sự vật của vũ trụ, cũng không phải là một tư duy đứng ngoài vũ trụ. Thuyết hiện sinh không xem con người là một thành phần của vũ trụ, mà con người là chủ thể duy nhất có ý thức về mình. Chỉ có con người tại thế không có con người nội tại như thuyết duy tâm[4].
Tuy nhiên, thuyết cổ điển thì có phạm trù của thuyết cổ điển, thuyết hiện sinh thì có phạm trù của thuyết hiện sinh, thuyết hiện sinh thì sẽ chú trọng đến những gì là hiện sinh thôi.
2. Các nhà hiện sinh nhìn các tu sĩ thế nào?
Từ những phác họa trên cho ta một góc nhìn cố định, khi đứng về phía hiện sinh để nhìn một tu sĩ trẻ ngày nay. Hiện sinh vừa là kinh nghiệm sống cụ thể của con người, do chính con người tạo trong thời gian vừa là kết quả của kinh nghiệm sáng tạo. Hiện sinh cũng là một kiếp sống của một con người hay của một “giống người” có ý thức về nguyên thủy, nền tảng và ý nghĩa của kiếp sống ấy, tự nguyện chấp thuận thể hiện kiếp sống ấy theo ý mình. Nói tóm lại, hiện sinh là một động tác tự khẳng định của “hữu ngã” cá nhân trong vũ trụ. Như vậy, hiện sinh là một lập trường hay thái độ sống của kẻ sinh ra để làm người, hoặc muốn làm người, lập trường ấy không có nền tảng hoặc giải thích nào khác hơn là chính sự tự khẳng định bản ngã mình. Thuyết hiện sinh gồm tất cả những học thuyết mà các triết lý nhằm phân tách và mô tả sự hiện sinh cụ thể hiểu theo nghĩa ấy[5].
Từ đó, hai định hướng của thuyết hiện sinh được vạch ra một cách rõ rệt. Một định hướng đưa đến kết luận đời người là vô nghĩa, phi lý, buồn nôn, (Sartre). Hướng khác thì chủ xướng phi lý, vô nghĩa là dấu hiệu của những gì Siêu Việt. Tuy không đạt đến được bằng lý trí một cách trực tiếp, nhưng có thể thực nghiệm hay suy diễn (Jaspers). Do đó, đời nếu là đáng sống thì không phải do ý muốn không lối rẽ của tự do, mà do ý chí muốn trả lời cho tiếng gọi của một giá trị Siêu Việt.
Tu sĩ cũng là một con người, cũng là một kiếp sống như muôn người, cũng được sinh ra dưới ánh sáng mặt trời, thì phải chịu đau khổ, chịu sa ngã, chịu sinh, chịu tử… song tu sĩ không dừng lại ở đó mà chịu chấp nhận cái khổ, cái thất vọng của mình như Sartre mà họ dám chấp nhận cái khổ đó, để cái khổ đó không còn là cái khổ nữa, tức là đi vào trong cái khổ. Nói như vậy có thể hiểu nghĩa của Phật giáo. Nhưng suy cho cùng thì đây cũng là một hướng sống cho những người có tinh thần lạc quan, chưa nói đến là tu sĩ Kitô giáo.
Bởi thế, ta phải tìm hiểu các nhà hiện sinh vô thần họ xem đời là phi lý (Sartre), không có một Thiên Chúa, vì nếu có Thiên Chúa thì sẽ làm mất tự do của họ[6]. Họ xây dựng một Thiên Chúa từ một con người, tức là siêu nhân (Nietzsche). Liệu nhóm hiện sinh vô thần này họ sẽ nhìn tu sĩ trẻ như thế nào? Trái lại, nhóm hiện sinh hữu thần họ chỉ chấp nhận hiện sinh khi qua Siêu Việt. Nếu không có Siêu Việt thì không có hiện sinh. Nhóm này họ sẽ quan niệm tu sĩ ra sao?
a. Hiện sinh vô thần xem ngươi tu sĩ là ai?
Khi nghe hai chữ “vô thần” thì đã nhận biết một điều chắc chắn là không có thiện cảm với các tu sĩ, vì vô thần là không chấp nhận có thần thánh. Họ không chấp nhận một Đấng Siêu Việt mà chỉ vật chất làm nên mọi sự, chỉ có vật chất là tồn tại. Có thể nói từ vô thần đến thực dụng không xa bao nhiêu, xem vật chất đời này là cao quý. Thế mà các tu sĩ lại đi theo đuổi một Đấng Siêu Việt, từ bỏ tất cả cái lợi của đời này hầu để có khả năng giúp đời. Cho nên hiện sinh vô thần coi các tu sĩ là vong thân, kẻ thù của tự do.
Vì khuynh hướng vô thần cho rằng: ngay cả con người cũng không thể gặp gỡ với người khác mà không biến chất. Chẳng hạn như Nietzsche cho rằng:  người đàn ông và người đàn bà không thể yêu nhau thực được, vì mỗi người đến với tình yêu bằng mục đích khác nhau, ông nói: “Tất cả bí mật của người đàn bà là sinh đẻ, với họ thì đàn ông cũng chỉ là phương tiện, cái chủ đích của họ là đứa con. Còn người đàn ông thì yêu thích người đàn bà vì hai món là chơi đùa và nguy hiểm. Vì thế đàn ông yêu thích đàn bà vì đàn bà là đồ chơi nguy hiểm nhất trên đời”. Cùng với ý tưởng đó, Jean Paul Sartre thì cho rằng: “Tha nhân là hoảng ngục”. Khi hai người gặp nhau thì luôn có một người bị biến thành đối tượng. Vì khi ta trở thành đối tượng cho người khác thì ta không còn sống tự do hoàn toàn như ta là ta nữa. Sartre nói: “Tình yêu là một dự phóng, cho nên nó nhất định gây lên tranh chấp, người được yêu nhìn nhận người yêu như một ‘tha thể’, tức là như một sự vật của vũ trụ cho mình sử dụng”. Chúng ta không thể thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn dẫn ta từ thế đứng nhìn bị đẩy sang thế bị nhìn và ngược lại[7].
Từ đó cho ta thấy thuyết hiện sinh vô thần đã cắt đứt tương quan con người với nhau thì họ cũng cắt đứt luôn tương quan giữa con người với Đấng Siêu Việt. Như Nietzsche đã khẳng định: “ Thiên Chúa đã chết, con người cần phải làm đám tang Thượng đế để mình có thể sống như một siêu nhân”. Còn Sartre thì cho rằng: “nếu có Thượng đế thì con người trở thành một cái gì đã cố định theo ý muốn của Ngài”. Điều này theo Sartre thì không hợp với con người là tự do, con người không phải chịu trách nhiệm trước một Thiên Chúa nào hết.
- Vài nét về Nietzsche
Lối suy nghĩ vô thần của Nietzsche có nhiều người hiểu khác nhau. Có người xem Nietzsche như là kẻ phá hoại đời sống luân lý con người, là “người chứng” cho những gì ghê tởm nhất của một con người mà con người có thể đạt tới. Nhiều người coi Nietzsche như là nhà tiên tri vô độ luôn tha thiết với hạnh phúc của nhân loại[8].
Có lẽ cuộc đời của Nietzsche có cả hai điều đó. Ông chính là kẻ phá hoại, phá hoại chính cuộc đời của ông, phá hoại cuộc sống nhân loại, đồng thời cũng làm cho cuộc đời của ông nên bi tráng, cũng như làm lực đẩy cho cuộc sống nhân sinh cất bước đi lên. Học thuyết của Nietzsche là một phản ánh khá trung thực về cuộc sống và cuộc đời. Hào hùng và bi thảm, tinh tế và giả tạo, khinh ghét và yêu mến, mạnh mẽ và yếu nhược, tất cả những điều trái nghịch được pha trộn với nhau trong hiện tượng của Nietzsche, để tạo nên một thứ cay, một thứ đắng làm cho con người phải xuýt xoa lau nước mắt, nhưng cũng là cay đắng làm cho người ta nghiện ngập say sưa, vì mùi vị quyến rũ riêng của nó. Thật khó có thể đánh giá được một triết thuyết như Nietzsche. Nhưng qua triết thuyết này không khỏi cảm thương cho thân phận con người. có lẽ cuộc đời của ông cũng là một bi kịch Hy Lạp như chính ông đã hết lời đề cao. Ta không dễ đánh giá triết thuyết Nietzsche cho bằng chiêm ngắm nơi đây tấm bi kịch của cuộc sống con người và loài ngôn sứ cho chính thân phận làm người. Đối với thuyết này thì con người là một cái gì phải vượt qua, nói cách khác là chủ nghĩa của con người luôn đi lên, rất tiếc sự đi lên của Nietzsche là chỉ đạt đến người hùng mà không tìm đến Siêu Việt. Cho nên thực hiện cuộc đi lên này, Nietzsche cần phải dọn một con đường mới bằng cách phá đổ tất cả. “Phải triết lý với cái búa để đập hết những thần tượng, những giá trị củ”, triết thuyết này là đảo lộn các giá trị, dựa trên ý chí hùng cường. Ông xem có bốn loại giá trị cần phải đập phá: giá trị tôn giáo, giá trị các triết thuyết, giá trị luân lý, giá trị dân chủ xã hội. chinh Nietzsche đã viết: “tôi ghét tởm Ki tô giáo đến chết được”…” tôi xem ki tô giáo là sự quyến rũ tai hại nhất”[9] .
Triết thuyết của Nietzsche là như vậy nhưng các tu sĩ trẻ biện phân triết thuyết hiện này thế nào? Chắc chắn ta cũng học được nhiều điều nơi ông, đặc biệt trong xã hội phức tạp như hiện nay thì các tu sĩ trẻ cũng phải có triết lý sống với “cái búa” để chặt nhưng không chặt phá hết như Nietzsche, mà phải biết cái gì cần “chặt”, cái gì vun xới tưới chăm.
- Vài nét về triết thuyết vô thần của Sartre
Jean Paul Sartre là một triết giá rất có ảnh hưởng đến tuổi thanh thiếu niên của một thời. Song, triết thuyết của ông xem ra rất tiêu cực, vì ông đã xem mọi sự là phi lý. Trần Thái Đỉnh trong cuốn “triết học hiện sinh” đã mở đề cho cuốn triết học của Sartre là “hiện sinh phi lý”. Thật sự đến hôm nay khi nói đến hai chữ hiện sinh thì người ta nghĩ ngay đến Sartre. Triết thuyết của ông luôn xoay quanh vấn đề trọng đại nhất của con người: ý nghĩa cuộc nhân sinh, ý nghĩa ái tình, ý nghĩa giao tiếp giữa tôi và tha nhân, ý nghĩa tôn giáo, nhưng với ông kết lại vẩn là phi lý.
Với Sartre thì ý niệm về Thiên Chúa hoàn toàn mâu thuẫn, trong tác phẩm “hữu thể và vô thể”, Sartre chỉ dùng một trang nói về Thiên Chúa[10].
Vấn đề cần chú ý là vấn đề về tự do tuyệt đối của con người và sự hiện hữu của Thiên Chúa. Theo Jean Paul Sartre thì nếu có Thiên Chúa thì con người sẽ đánh mất sự tự do, tức là mất nhân phẩm, cho nên không thể có Thiên Chúa được. Ông quá đề cao sự tự do một thứ tự do sáng tạo bất chấp thân phận cụ thể của con người, cho nên con người gặp phải thất bại thì không thể tránh được, “con người là một điều vô dụng bất thành”. Còn khi nói về tha nhân thì ông tuyên bố: “ tha nhân là hoảng ngục” cho nên giữa tôi và người khác không có sự thông cảm và đối thoại. Thực ra kinh nghiệm cho ta thấy, con người có thể chung sống và đối thoại. Cuối cùng là ông phủ nhận mọi thứ luân lý, phủ nhân Thiên Chúa, đề cao tự do, thứ tự do muốn làm gì thì làm, miễn là bảo vệ được tự do thì thôi. Chính đại văn hào Nga Dostoievsky đã viết: “Nếu không có Thiên Chúa thì mọi sự đều được phép làm”. Nói cho cùng thì trong triết thuyết của Jean Paul Sartre cũng chứa đựng rất nhiều tích cực, chẳng hạn như đề cao sự tự do của con người.
Tu sĩ trẻ ngày nay có ảnh hưởng rất nhiều triết thuyết của Jean Paul Sartre. Cùng với tuổi trẻ của xã hội hôm nay, tu sĩ trẻ cũng thích được tự do, tự do theo ý riêng mình, tự do muốn làm gì thì làm. Có một số người đang hiểu lầm tu sĩ trẻ ngày nay, họ tưởng tu sĩ là kẻ chán đời nên bỏ đi tu, xem cuộc đời là vô nghĩa, cảm thấy cuộc đời phũ phàng cho nên đi tu quách cho rồi. Nếu hôm nay Jean Paul Sartre còn sống, ông nhìn vào giới tu sĩ trẻ thì ông sẽ đánh giá thế nào? Ông có dám nói lên quan niệm như Marx không? “Tôn giáo là sự vong thân của xã hội”. Chắc chắn quan niệm vô thần không chấp nhận có Thiên Chúa thì Jean Paul Sartre rất xem thường đời tu, ông sẽ cho đời tu là phi lý.
b. Hiện sinh hữu thần nhìn người tu sĩ là ai?
 Nếu thuyết hiện sinh vô thần như Nietzsche hay Jean Paul Sartre đã cắt đứt tương quan con người với nhau, và cắt đứt tương quan con người với Thiên Chúa, thì trong khi đó Kierkegaard cho rằng hiện sinh đích thực và cao cả nhất là hiện sinh trước Siêu Việt. Con người hiện sinh phải vượt qua từng giai đoạn: “hiếu mỹ”, đến “đạo đức”, để đạt đến giai đoạn tôn giáo. Còn Jaspers thì nói rằng: con người cần phải thực hiện được những bước nhảy, nhảy từ chỗ làm sự vật đến làm người tự do, rồi nhảy từ tự do của con người để vượt tới Thiên Chúa. Ông nói: “Tôi không thể là tôi nếu không có Siêu Việt tính, Siêu Việt tính chính là thước đo chiều sâu thẳm của hiện sinh tôi”.[11]
Hiện sinh hữu thần tin nhận có Đấng Siêu Việt cho nên tương quan giữa con người với con người cũng rất lạc quan, không như Sartre xem tha nhân là hoảng ngục. Hiện sinh hữu thần xem tha nhân như một yếu tố để tôi trở nên phong phú, trở nên chính con người thật của tôi. Chính vì vậy mà Gabriel Marcel gọi người khác là một “tha ngã”, nghĩa là vừa là tôi “ngã”, vừa là người khác “tha”. Cái “tôi” chỉ triển nở trọn vẹn trong cái “chúng ta” mà thôi. Gabriel Marcel khẳng định mức thăng tiến cao nhất của hiện sinh là khi ta thể hiện đạt tới cái “chúng ta”, không do miễn cưỡng nhưng do đồng tình.
Đời tu nói chung và tu sĩ trẻ nói riêng đang trên đường tìm tòi và phấn đấu để sống cái “chúng ta” đồng tình. Nhưng con người luôn mang thân phận yếu đuối và hạn chế, cho nên sự miễn cưỡng trong cái “chúng ta” của cuộc sống cũng không thiếu[12].
Ta khoan nhận định chặt ních về thuyết hiện sinh, vì trong hiện sinh không chỉ khác biệt giữa hiện sinh vô thần và hữu thần mà ngay trong nhóm hiện sinh hữu thần cũng có nhiều nét khác nhau, tuy nhiên không chênh lệch xa vời lắm, nhưng cũng đáng làm cho ta chú ý. Bỡi lẽ ta đi tìm hiểu một số nhà hiện sinh hữu thần tiêu biểu xem sao?
- Soren Kierkegaard
Soren Kierkegaard xem hiện hữu của con người là một hiện hữu luôn dang dở, song sự dang dở ấy không làm ta thất vọng, mà kích thích tinh thần sáng tạo của ta. Bởi thế chặng đường hiện sinh của những người có sự sáng tạo được phân làm ba giai đoạn.
Thứ nhất: giai đoạn hiếu cảm (Stade esthtique)
Thứ hai: giai đoạn đức lý (Stade ethique)
Thứ ba: giai đoạn tôn giáo (Stade religieux)[13].
Phạm vi bài viết này chỉ tìm hiểu về thuyết hiện sinh ảnh hưởng trên người tu sĩ Kitô giáo, và đặc biệt là tu sĩ trẻ. Cho nên xin dừng lại tìm hiểu giai đoạn thứ ba là giai đoạn về tôn giáo. Tuy nhiên để có được giai đoạn tôn giáo thì phải có hai giai đoạn trước là hiếu cảm và lý đức. Trong cuốn sách của Kierkegaard được xem là giá trị nhất “kinh hãi và run sợ”, ông đưa hình ảnh cụ Abraham làm nhân vật chính cho cuốn sách, cho thấy cái gì vượt lên trên tầm luân lý duy nhiên. Tóm lại, những hành vi siêu phàm của con người đều vượt qua phạm vi luân lý. Cho nên nếu không có Thượng Đế thì con người sẽ không có lối thoát, nếu không có Siêu Việt thì không có hướng cho con người “vươn lên”[14].
Kierkegaard được mang danh là ông tổ của hiện sinh, không hề có lý luận suông mà ông khởi sự từ một sự kiện cụ thể. Ông đã xây dựng triết thuyết của ông trên sự kiện cuộc đời Abraham. Tin yêu Thiên Chúa để trọn niềm trung thành với Thiên Chúa mà đã giết con một của mình là Isaac, đúng lẽ giết con là tội ghê gớm bậc nhất, nhưng Abraham đã làm điều đó, chính là tôn giáo vượt lên trên luân lý. Thế nhưng Sách Thánh đã khẳng định “Abraham là cha của những kẻ tin”, ai ai cũng ca tụng Abraham là vị đại thánh.[15]
Tin và yêu là tóm gọn tất cả sinh hoạt tôn giáo, cũng chính trong niềm tin yêu này mà con người vượt lên trên tất cả để tới chổ kết hợp với Thiên Chúa, Đấng Tuyệt Đối.
Triết thuyết của Kierkegaard đã mô tả cái nhìn toàn diện của con người lãng tử, con người đúng đắn, con người của niềm tin. Ông đã đưa ra ba giai đoạn như ba cấp bậc để vươn lên, “vươn lên” không ngừng và kết điểm của sự vươn lên ấy là Thiên Chúa.
Cuộc sống hiện sinh của tu sĩ trẻ ngày nay có lẽ phần nào mang nặng hiện sinh của Kierkegaard khi nhìn vào ba giai đoạn triết thuyết của ông. Đời tu của tuổi trẻ ngày nay cũng được xem như ba giai đoạn để vươn lên và chót đỉnh phải là Đức Kitô. Có thể nói người mới bước vào đời tu là giai đoạn hiếu cảm, đang còn lông bông chạy theo sở thích, chạy theo những thần tượng, mà chưa xác định được cuộc sống bản thân. Đến giai đoạn đức lý, giai đoạn này chấp nhận cuộc sống đều đặn mà mình đã chọn, sống nghiêng về bổn phận. Đã có ý thức về đời tu nhưng tuổi còn quá trẻ, chưa nhận định được, cho nên đang còn nhiều bế tắc. Tuy nhiên giai đoạn này tu sĩ trẻ bị tách đôi, nửa ý riêng mình nửa niềm tin thúc giục. Bởi vậy đời tu giai đoạn này rất quan trọng. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn tôn giáo, cũng là giai đoạn cuối cùng của sự vươn lên. Giai đoạn này tu sĩ đã đứng tuổi, đây là lúc họ sống hoàn toàn phó thác hoàn toàn vào bàn tay của Thiên Chúa, có thể nói giai đoạn này mới thực sự là một tu sĩ. Mọi cử chỉ mọi sinh hoạt đều như thấm đậm trong tính siêu phàm. Giai đoạn này mọi sinh hoạt của tu sĩ không mang tính chất lý trí nhiều nữa mà thấm đậm niềm tin, niềm tin yêu phó thác, như để mặc Thiên Chúa hướng dẫn đời mình.
Trong cuốn “Kinh hãi và run sợ” Kierkegaard đã đưa hình ảnh cụ Abraham lên làm nòng cốt cho ý tưởng của ông. Abraham đã tin ngay khi tuyệt vọng nhất, tin cả những điều trái với luân lý, tin cả những điều trái với luật đạo đức, chỉ vì tình yêu Thiên Chúa.
Chính mẫu gương của Abraham đã đánh động tu sĩ trẻ ngày nay, cũng bao khát vọng trào dâng, thế mà họ đã chấp nhận từ bỏ tất cả. Vì sao mà họ dám từ bỏ tất cả như vậy? Đó chẳng phải là một Abraham trong cuốn “kinh hãi và run sợ” hay sao? Một Abraham dám hiến tế con đẻ của mình, con đẻ của mình là gì nếu không phải là ý riêng mình, là bao nhiêu phồn hoa xã hội. Chắc chắn chỉ có niềm tin mới đủ mạnh để họ vào con đường dấn thân. Xét theo lẽ thường thì trai lớn lên cưới vợ, gái lớn lấy chồng, thế mà tu sĩ đã bỏ khỏi quy luật đó để dấn thân vào một cuộc phiêu lưu, để tranh đấu cho tình yêu đại đồng. Có lẽ tu sĩ trẻ ngày nay đang sống trong giai đoạn mà Abraham dẫn Isaac lên đường sát tế. Nào là đau xót, nuối tiếc, thương yêu, nhưng đành phải nhìn về phía trước, phải nghĩ đến lời hứa mà Thiên Chúa đã hứa với mình là ban cho dòng dõi đông như sao trời cát biển, hầu để dám đi hết con đường mình đã chọn.
- Gabriel Marcel
Gabriel Marcel được mệnh danh là nhà hiện sinh huyền nhiệm, vì huyền nhiệm bao trùm tất cả những gì mà ông muốn dùng đầu óc thông minh của ông để truy tầm. Huyền nhiệm về tôi, huyền nhiệm về anh, huyền nhiệm về vũ trụ, huyền nhiệm của Thượng đế. Song, theo ý tưởng của Gabriel Marcel, thì huyền nhiệm ở đây không có tính chất tôn giáo nhưng lại có tính chất triết học. Nói tóm lại là tất cả những gì không thể xác định và không khách thể hóa được, thì đều là huyền nhiệm. Như vậy với Gabriel Marcel huyền nhiệm không phải là một tri thức hay một suy tưởng.
Chủ trương của Gabriel Marcel hiện sinh là hiện hữu, và từ hiện hữu đã đặt con người lên tự do chân chính và đích thực. Hiện hữu cũng là chỗ dẫn con người đến gặp nhau trong niềm tin và kính yêu nhân vị. Cuối cùng hiện hữu đã giúp con người khám phá ra bản tính đích thực của tình yêu. Nhưng từ chặng đường của tự do, con người đã gặp thấy Thượng đế, vì tự do là cộng tác với ý Trời để con người đạt tới mức toàn thiện toàn mỹ, chúng ta sẽ gặp Thượng đế trong huyền nhiệm của tình yêu.[16]
Một tác giả nghiên cứu về thuyết hiện sinh  của Gabriel Marcel đã nói: “Tất cả tác phẩm của Gabriel Marcel cũng như chính cuộc đời của ông, tựu trung chỉ là một cuộc lần lần đề khám phá Thượng đế” (Troisfontaines). Có lẽ lời này đúng đắn, vì mỗi tư tưởng của Gabriel Marcel như một mũi tên bắn về phía hữu thể , ông luôn tránh sở hữu, phù phiếm, sa lầy. Cho nên Gabriel Marcel không chỉ gia nhập Công giáo mà các tác phẩm của ông viết trước khi tòng giáo vẫn không cần đính chính. Theo Ricoeur thì Gabriel Marcel đã gặp được Thượng đế ở hai lãnh vực, tức là huyền nhiệm của hữu thể và huyền nhiệm của tình yêu, cho nên niềm tin vào Thiên Chúa của Gabriel Marcel rất chắc chắn. Chính ông đã thốt lên trong cuốn nhật ký ghi ngày 23-3-1929:
Tôi lãnh bí tích Rửa tội hồi mai này trong bầu khí nội tâm hết sức mong đợi của tôi, không bồng bột nhưng với tâm tình bình an thăng bằng, niềm cậy trông tin tưởng… tôi muốn choáng váng vì cảm thấy gần Chúa.[17]
Trong cuốn “Tha nhân và huyền nhiệm”,  Gabriel Marcel đã tự đặt câu hỏi: đức tin là gì? Để tự tìm ra đáp án cho chính mình. Tin đối với Gabriel Marcel không phải là tin sự gì? Mà là tin vào ai? Đức tin là cam kết toàn thân với Thiên Chúa. Hành vi đức tin hướng đến một Đấng Siêu Việt. Thiên Chúa hiện diện và con người đến kêu cầu Ngài. Thiên Chúa hiện diện với tư cách Chủ Thể Tuyệt Đối chứ không phải như một đối tượng. Vì Thiên Chúa không phải là một đối tượng nên phán đoán về Ngài đều vô giá trị, khi nói tới Thiên Chúa những tư tưởng chúng ta không đạt tới Thiên Chúa, vì phải qua tư tưởng của phàm nhân. Nên với Gabriel Marcel thì thần học hiện sinh chỉ là thần học tiêu cực mà thôi. Với tín hữu thì đức tin là một sự tự hiến cho Thiên Chúa. Nhưng sự dấn thân vẫn còn thiếu sót, vì chúng ta không hoàn toàn làm chủ tương lai và hiện tại để trung thành với Thiên Chúa, nên với tín hữu thì tin là kêu cầu, mong đợi Thiên Chúa nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta. Lời kêu cầu không được đòi hỏi Thiên Chúa đáp ứng, nếu Chúa đáp ứng thì chỉ là ân huệ của Ngài ban cho mà thôi.
Phải chăng Gabriel Marcel là người của tôn giáo trước khi tòng giáo, vì tư tưởng của ông nghiêng hẳn về Công giáo? Đúng như ông đã nói: “Đức tin không phải là một kiến thức như những kiến thức khác, mà tin còn đòi hỏi sự dấn thân và được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày.”
Trong Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II kêu gọi người tu sĩ phải luôn chiêm niệm và cầu nguyện trong sự hoạt động tông đồ[18]. Chính Thánh Giacôbê khẳng định đức tin không việc làm là đức tin chết. Đây là những tư tưởng trùng lặp triết thuyết của Gabriel Marcel khi ông nói về đức tin.
Tu sĩ trẻ ngày nay phải là những chiến sĩ đức tin, bươn chải giữa một xã hội đang bị tục hóa, vậy phải làm gì khi sống một cuộc sống hiện sinh giữa đời? Theo tư tưởng của Gabriel Marcel, ta nhận ra tất cả là huyền nhiệm. Chính tôi là huyền nhiệm cho nên tôi phải kính trọng bản thân tôi, hơn nữa vì tôi là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Tha nhân là huyền nhiệm, tu sĩ trẻ phải có khả năng nhìn được huyền nhiệm nơi người khác thì mới có khả năng phục vụ, và tôn trọng người khác như chính mình. Thượng đế là huyền nhiệm, tu sĩ phải đặc biệt quan tâm đến đời sống nội tâm, biết nhận ra huyền nhiệm nơi Đấng mình tôn thờ và yêu mến.
- Karl Jaspers
Triết thuyết của Karl Jaspers được nhìn nhận dưới góc độ ba hữu thể: hữu thể vật thể, hữu thể bản ngã, hữu thể Siêu Việt thể.
Hữu thể vật thể theo ông chính là đối tượng của khoa học, hiện sinh của ông muốn bổ khuyết cho khoa học bằng cách tìm mối quan hệ giữa vũ trụ vật lý và cuộc sống con người. Karl Jaspers đưa ra hai ý tường: vũ trụ nơi bao quanh con người, vũ trụ nơi con người hoạt động[19].
Hữu thể bản ngã, với con người cũng có hai thứ đó là hiện sinh và sinh tồn. Hiện sinh là nhân vị có tự do và tự chủ, gọi là hữu thể bản ngã, nhưng ít người đạt tới mức hiện sinh nhân vị này. Mà từ cấp sự vật đến cấp hiện sinh phải có một “cú nhảy” một sự vượt bậc. Cho nên một số được sinh làm người nhưng chưa phải là người hiện sinh vì họ đang sống trong vô ý thức, họ chỉ là đơn vị người nhưng chưa phải là nhân vị tự do. Nếu nhân vị tự do thì ý thức về quyền tự do của mình, cũng ý thức sâu xa quyền làm người của mình.[20]
Phần cuối cùng của tư tưởng Karl Jaspers là đối tượng Siêu Việt, đây chính là cùng đích và đỉnh cao của hiện sinh. Thuyết hiện sinh của Karl Jaspers hướng đến Siêu Việt như là hướng đến cùng đích của nó, chính đây là lãnh vực tinh thần của hiện sinh. “Cái nhảy” thứ nhất nhảy từ vật chất lên tinh thần, “cái nhảy” thứ hai là cái nhảy từ con người vào lãnh vực Siêu Việt[21].
Mỗi triết thuyết là một hướng sống cho thân phận làm người và chính Karl Jaspers cũng vậy, ông cũng có một chiều hướng suy nghĩ về con người được sinh ra, sống thế nào, và đi về đâu. Cho nên ông đã đưa ra ba bậc từ thấp lên cao, bậc thấp nhất của con người là con vật bậc cao, cao nhất là con người hướng đến Siêu Việt và liên kết với Siêu Việt. Để đi từ bậc thứ nhất đến bậc thứ ba, Karl Jaspers nói phải dùng những “cái nhảy” có lẽ “cái nhảy” đó như là những lần lột xác của bản thân.
Người ta thường quan niệm “tu” là “sửa”. Đúng vậy, con người chúng ta vốn là thiện (Mạnh tử), nhưng từ khi có tội nguyên tổ thì sự hư hỏng thâm nhập vào con người, cho nên đời tu được xem là “đại tu lại” thành con người mới để càng ngày càng giống Đức Giêsu hơn. Quá trình đại tu đó như thế nào? Chính Karl Jaspers đã chỉ cho ta dùng những “cái nhảy”, dùng sự vươn lên, để làm nên con người hiện sinh. Đối tương của hiện sinh theo Karl Jaspers là nhân vị tự do và tự chủ. Tu sĩ trẻ ngày nay phải phấn đấu để đạt đến nhân vị tự do và tự chủ, tự nhiệm. Vì khi tự do mới ý thức được quyền tự do của mình, ý thức về trách nhiệm làm người, tự quyết đình cho con người của mình, không sống vì dư luận. Chắc hẳn ý tưởng này làm cho tu sĩ trẻ ngày nay cần phải áp dụng làm hành trang sống. Ngày nay, người tu sĩ trẻ đang bị ảnh hưởng dư luận, bị áp lực bên ngoài nhiều, chẳng hạn gia đình, họ hàng, dòng tộc… nhiều khi đi tu không phải vì mình muốn, vì sự quyết định của mình, mà vì cha mẹ hay một ai đó quyết định thay, rồi mình nhắm mắt chay theo. Để cha mẹ được trở thành ông bà cố, anh em mình trở thành anh cố, em cố, chị cố… để dòng họ rạng rỡ; có bao nhiêu người đi tu, có mấy ông cha, có mấy ông thầy, có mấy ma sơ… Khi bị dư luận, bị cộng đoàn làm chủ như vậy thì đời tu không còn là hiện sinh nữa, vì đã đánh mất tự do nhân vị.
Tiếp đến là sự vươn lên của tu sĩ trẻ ngày nay. Nếu trong cuộc sống mà tu sĩ không có những “cái nhảy” thì cuộc đời thật là phi lý. Bởi vậy, một tu sĩ hiện sinh là tu sĩ luôn có sự “vươn lên”, không bao giờ được phép dậm chân tại chỗ. Tuy nhiên phải vươn lên trong niềm tin, cậy, mến, vươn lên trong sự nâng đỡ của ơn Thiên Chúa, để có liên kết với Đấng Siêu Việt là chóp đỉnh của hiện sinh. 
3. Các thực tại hiện sinh nơi tu sĩ trẻ ngày nay   
Tu sĩ cũng là con người, tham, sân, si như bao người khác, cũng có yếu đuối, có sa ngã, chính đó cũng là cuộc sống hiện sinh. Đúng vậy, sự vấp ngã trên đường đời không lạ lẫm gì, có lạ lẫm chăng là khi bị vấp ngã mà không biết tự vực dậy để đứng vững chắc hơn. Từ đó, hiện sinh nơi người tu sĩ trẻ ngày nay cũng có hai hướng: tiêu cực và tích cực.
a. Thực tại hiện sinh tiêu cực nơi tu sĩ trẻ
Muốn hiểu rõ về thuyết hiện sinh ảnh hưởng trên người tu sĩ trẻ thế nào thì ta phải giựa vào các phạm trù. Với thực tại tiêu cực ta đi tìm hiểu hai khía cạnh chính: “buồn nôn” và “phóng thể”.
- Buồn nôn
Danh từ buồn nôn là chủ đề của một cuốn sách của Sartre, danh từ này chỉ sự vô lý, vô nghĩa của cuộc đời vô lý tưởng và vô ý thức. Buồn nôn là cách sống của những người chưa biết vươn lên, chỉ sống lo ăn, lo mặc, lo cho mình đủ các tiện nghi.[22] Sartre đã diễn tả cuộc sống: “Thôi tôi cứ làm như nàng An-ny là xong, ăn ngủ, ăn ngủ, sống từ từ, êm êm như cây kia vũng nước nầy…. Cuộc sống này như thừa ra, vì chính tôi không biết sống để làm chi cả”. Ông gọi đó chỉ là hiện hữu chưa phải là hiện sinh, vì con người chưa ý thức về nhân vị mình, chưa ý thức về định mệnh của mình, thì không hơn gì một cục đá hay một thú vật. Đó chỉ là những cá vị người, những con số người mà ta đã đếm, như khi làm sổ thống kê. Heidegger gọi tình trạng đó là “người ta” vô danh vô vị. Còn Camus không nói đến buồn nôn mà nói đến phi lý. Cùng phát sinh từ nguồn đó, ông ý thức về cái trơ trơ vô vị của cuộc đời. Cuộc sống một ngày như mỗi ngày, sáng, trưa, chiều, tối, xoay vần theo tháng năm, con người thì cứ làm những việc cố định.[23]
Thực tại i tu sĩ trẻ ngày nay, không thiếu cảnh buồn nôn và phi lý theo hướng của Sartre và Camus. Nhìn vào tình trạng ơn gọi tu trì ở Việt Nam chúng ta hiện nay, không thiếu có người đi tu theo phong trào, cho nên khi gặp chuyện không như ý mình, không được tín nhiệm, thế là kéo lê một cuộc đời; tuy  không làm gì lỗi luật, nhưng cũng chẳng có gì là vươn lên trong đường nhân đức.
Đời tu cũng nhiều khi trở thành phi lý, khi mà mỗi ngay đều sinh hoạt giống nhau, bởi thế dễ đưa con người đến chỗ buông theo như hòn đá trơ trơ vô hồn. Chắc hẳn tình trạng buồn nôn này không thiếu nơi tu sĩ của xã hội hôm nay.
- Phóng thể     
Phóng thể được hiểu là hóa thành cái khác, thành người khác, nên phóng thể là tình trạng của những con người chưa ý thức mình là nhân vị độc đáo. Người phóng thể hành động như mọi người, và hành động chỉ vì người ta nhìn mình, hoặc người ta bảo mình, hay nghĩ mình phải làm như thế. Các nhà hiện sinh chống lại gắt gao lối sống phóng thể. Phóng thể là một bản ngã của con người, sống buông theo như động vật, như cây cỏ.
Có hai hình thức phóng thể: phóng thể duy tâm và phóng thể duy vật.
Phóng thể duy tâm: phát sinh do sự suy tôn một thứ đạo đức giả tạo, đạo đức mơ mộng và ảo tưởng, đầy ích kỷ và lười biếng. Sỡ dĩ gọi phóng thể này là “phóng thể duy tâm” vì chỉ tưởng tượng và mơ ước, chứ không bao giờ dám ra  tay và hành động. Tại sao gọi những người duy tâm này là phóng thể? Thưa vì không ý thức về vai trò lịch sử của mình, họ không biết lấy điều kiện sinh hoạt hàng ngày làm “đà tiến” cho bản thân, mà hoàn toàn thụ động, thả mình tin theo những mẫu người lý tưởng của sách vở phác họa ra. Thay vì khai triển giá trị thực tại thì họ lại lẩn trốn, nương mình trong mơ ước viển vông.
Phóng thể duy vật: đồng hóa con người với cơ năng hoạt động. Con người hoạt động vô ý thức như một cái máy, lúc này con người không phải là tại thế nữa, mà còn tại xã hội, con người lúc này trở thành đơn vị của tập đoàn. Tuy nhiên như Mounier đã nói: “Sống tập đoàn là một bước tiến của tinh thần, nhưng bước tiến sẽ chấm hết khi hết sáng kiến và tự chủ, thành thử họ chỉ là những cái xác, còn hồn ở nơi, nhóm, đảng, giới…”[24]. Đó chính là bộ mặt của phóng thể, hai bộ mặt tổng quát, trong thực tế thì phóng thể mặc nhiều hình thức khác nhau, nhưng chung quy đều có một hậu quả khốc hại cho con người. Phóng thể làm cho con người sống yên hàn trong tình trạng sự vật, sự vật của gia đình, sự vật của nhóm đảng, của toàn thể, của tôn giáo an nhàn. Phóng thể là tội nguyên tổ, là căn nguyên của cuộc sống tầm thường và buồn nôn.
Lối sống của tu sĩ trẻ ngày nay có “phóng thể” hay không? Ta cứ xem họ đang sống và sinh hoạt thế nào giữa cộng đoàn, giữa xã hội. Nhiều tu sĩ trẻ cảm thấy mệt mỏi khi nhìn con đường mình đang đi. Nhìn thanh thiếu niên bên ngoài họ không sống đời tu, họ đang bươn chải học hành để đạt được mọi nhu cầu, trái lại tu sĩ thì không phải lo lắng nhiều, cứ ỷ lại cộng đoàn, cộng đoàn sẽ lo cho mình từ ăn uống sinh hoạt, học hành. Vì mình hoàn toàn phụ thuộc vào cộng đoàn, mình học tốt hay dở thì cũng để phục vụ cộng đoàn, có khi người kém lại có cơ hội phục vụ nhiều hơn. Cho nên nhiều tu sĩ trẻ buông theo chủ nghĩa “mac-ke-no” (mặc kệ nó ra sao thì ra), đó chẳng phải là phóng thể hay sao?
Phóng thể duy tâm được coi là mê tín, chỉ mơ mộng ảo tưởng không chịu cố gắng vươn lên. Có lẽ một số tu sĩ trẻ ngày nay không thoát ra được hình thức phóng thể này. Nhiều khi cứ ngồi cầu nguyện mà không chịu cộng tác vào ơn Chúa qua việc hy sinh của mình, cứ ngồi chờ phép lạ mà không chịu làm gì để thể hiện lòng tin của mình. Nếu xét về thực tại tiêu cực thì tu sĩ trẻ ngày nay cũng đang chịu ảnh hưởng sự hạn chế của hiện sinh là buồn nôn và phóng thể. Song, bên cạnh những ảnh hưởng của sự hạn chế, thì họ cũng đón nhận được không ít cái hay cái tốt của hiện sinh, đó chính là các mặt tích cực của thuyết hiện sinh.
b. Thực tại hiện sinh tích cực nơi tu sĩ trẻ
Những thực tại tích cực của thuyết hiện sinh gồm có bốn phạm trù: ưu tư, tự quyết, vươn lên, độc đáo. Các phạm trù này có nhiều ảnh hưởng trên tu sĩ trẻ, vì dù sao thì các phạm trù này tu sĩ đã sống và đang sống, nên không những chỉ ảnh hưởng mà còn đi vào trong hiện sinh nữa.
- Ưu tư
  Ưu tư là do sự thức tỉnh và suy nghĩ, ưu tư cũng là bước đầu của sự đi lên, chắc chắn ưu tư không giống sự sợ hại. Ưu tư là xao xuyến băn khoăn cho một tương lai chưa rõ rệt. Con người hiện sinh ưu tư vì biết rằng, tương lai đầy huyền nhiệm, còn bao nhiêu yếu tố chưa hiện ra rõ rệt, mình tự quyết đình lấy cho mình, không ai quyết định thay cho mình được.[25] Bao nhiêu giá trị đều quyết định bởi tôi, tôi biết thế cho nên tôi ưu tư. Con người hiện sinh phải biết rằng, một nhân vị là một thế giới huyền nhiệm, không ai tha thiết với tôi bằng tôi. Vì chính khi tôi ưu tư về tôi là tôi nhìn thẳng vào nội tâm tôi, nhìn thẳng vào định mệnh cao cả và ghê sợ của tôi, nhất là tôi biết rằng trong việc này không ai có thể giúp tôi.
Ưu tư là một nét đặc sắc của hiện sinh đã tự ý thức, muốn dứt mình ra khỏi cảnh sống thừa, sống an nhàn của sự vật và của lối sống những người phóng thể. Có thể nói yếu tính của ưu tư là xao xuyến, “cựa mình” để vươn lên không chịu nằm lỳ ở trạng thái an cư.[26]
- Tự quyết
Chữ tự quyết của hiện sinh chỉ nhằm tới phạm vi con người hiện sinh, tự quyết là tự chọn mình, tự quyết thường đi đôi với sự dấn thân. Mỗi quyết định của tôi đều ghi một bước tiến trên đời tôi. Tự quyết là chứng minh tôi là một chủ thể tự do và tự đảm nhận. Tự quyết của tôi có thể sai, có thể sinh hại cho tôi, nhưng người hiện sinh không màng chi đến thiệt thòi, sai lầm, vì ai mà chẳng có sai lầm. Người hiện sinh là người tin tưởng ở giá trị hành động của mình.
Hiện sinh rất đề cao sự tự quyết, vì có giỏi lý luận đến đâu thì cũng không đem ra được một giải quyết trăm phần trăm thỏa mạn thực tế. Vì thực tế vẫn còn những dấu hỏi, cho nên kết cục tôi vẫn phải “liều” một phần, “liều” là danh từ của hiện sinh, chính trong cái liều này tôi tỏ ra mình là chủ thể, tôi đã liều nhận lấy trách nhiệm làm người. Tuy nhiên mỗi tự quyết đều là “tự tuyển” tính chất “liều” ở đây là để vượt qua luân lý mà thôi. Người hiện sinh là người biết ưu tư định mệnh mình, ưu tư phát triển nhân cách tới mức hoàn hảo, dẫn đến sự tự quyết luôn luôn mang nặng tính ưu tư.[27]
Tu sĩ trẻ ngày nay đang sống trong phạm trù tự quyết bằng dám chọn một con đường cho riêng mình, chính là chọn mình. Nếu tự quyết mang tính tự do thì tu sĩ trẻ rất tự do trên con đường mình chọn. Chấp nhận khổ, chấp nhận mạo hiểm để hưởng tự do. Tự quyết được xem là ý thức của một người hùng, dám làm dám chịu, dám chọn dám yêu. Dưới con mắt của người đời thì có thể tu sĩ tự quyết là sai lầm, nhưng nhờ đó mà trở thành hiện sinh. Khi tự quyết thì tu sĩ trẻ thường trong tình trạng bình tĩnh, suy nghĩ đủ, dám tin vào sự tự quyết của mình.
Tự quyết chính là liều chăng? Nếu nói liều là danh từ của hiện sinh, thì tu sĩ trẻ ngày nay chắc  hẳn rất hiện sinh, vì phải sống liều. “Con chồn có hang chim trời có tổ con người không có chổ tựa đầu” mà tu sĩ trẻ ngày nay phải theo Đấng đó. Theo con người trần truồng trên thập giá, theo một tử tội trên đường đi chịu hành quyết. Liều sống một cuộc đời không hiểu ngày mai, chính cái liều đó là hiện sinh.
- Vươn lên
Đề tài này xuất phát từ ý tưởng của Kierkeggard và thể hiện trong đời sống của ông. Trong cuộc đời, con người phải tự vươn lên, từ “hiếu mỹ” đến “đạo đức” và đến “tôn giáo”. Còn Gabriel Marcel đưa ra hai phạm trù “chiếm hữu” và “hiện hữu” để đi sâu vào nghiên cứu sức vươn lên của hiện sinh. Tất cả sự vật tôi có đều được gọi thành tên. Hiện hữu là đặc tính của con người ý thức về nhân vị của mình, luôn vươn lên khỏi tình trạng tầm thường của những cái sơ đẳng.[28]
Chính thánh Augustino là “cụ tổ của hiện sinh” đã khẳng định: “không tiến là lùi”. Vươn lên là lẽ sống của người hiện sinh trung thực, không vươn lên tức là bị cứng đọng. Vươn lên không có nghĩa là để thắng người này người nọ, mà vươn lên của hiện sinh là nhằm để thắng chính mình, mình phải vượt lên trên cái mình hôm qua và lúc này.
Có tu sĩ trẻ tâm sự: động lực lúc đầu đi tu không phải vì Chúa mà vì cái gì đó. Hoặc mê một bộ tu phục của ông thầy hay ma-sơ nào đó, nhìn thấy họ nhân hậu đoan trang,… Đúng, lúc đầu chỉ vì tình cảm, vì sự theo đòi, khi vào môi trường sống của đời dấn thân, thì họ không dừng lại ở đó, mà họ biết vươn lên. Như đường lối của Kierkeggard là vươn lên khỏi giai đoạn hiếu mỹ để đạt đến giai đoạn đạo đức.
Quả thật khi vào đời tu mà chỉ dừng lại ở bộ tu phục hay một mẫu người lý tưởng thì đời tu sẽ vô nghĩa. Qua thời gian được huấn luyện họ đã vượt qua tất cả để đạt đến cuộc sống đạo có chiều sâu, tức là đời sống nội tâm. Có thể nói đời sống nội tâm của tu sĩ tương đương với giai đoạn tôn giáo của nhà hiện sinh Kierkeggard. Tu sĩ trẻ vươn lên không ngừng để cuối cùng là chiếm được Chúa, không lấy gì làm hơn Thiên Chúa, khi đó họ sẽ là người mang tính độc đáo.

- Độc đáo
Độc đáo là danh từ đặc sắc nhất của hiện sinh, vì các thuyết khác không nhận con người là một cái gì độc đáo. Hiện sinh nhắc nhở cho con người biết rằng, mình là một nhân vị độc đáo và mình phải hoàn thành định mệnh độc đáo của mình. Nếu đứng trước một sự việc tôi và anh đều phản ứng như nhau, thì xem ra hợp lý, nhưng chính cái hợp lý đó đã phủ nhận bản chất con người tự do.[29]
Nếu Karl Marx coi con người là sản phẩm xã hội, thì hiện sinh lại coi con người là nhân vị, con người sống trong lịch sử, con người hiện sinh là người làm nên lịch sử mình, vì mình tự đảm nhận mọi hành vi của mình.
Một khi đã ý thức sâu xa về tính độc đáo của mình, con người tự cảm thấy “cô đơn”. Chính tôi sẽ chết cái chết của tôi, nên tôi phải sống cái sống độc đáo của tôi. Đừng để người ta sống mất cuộc sống của tôi, nghĩa là tôi đừng sống theo đuổi người ta. Khi tôi đảm nhiệm lấy cô đơn chính là lúc tôi dám làm người có nhân vị độc đáo, khi đó tối sẽ phát huy tất cả khả năng riêng biệt của tôi, theo những đường lối chỉ tôi có. Chỉ mình tôi biết khai thác thế nào để đạt đến mục tiêu hoàn thiện.
Nếu độc đáo là nét son của hiện sinh thì tu sĩ trẻ ngày nay sống rất hiện sinh, vì sự độc đáo đó xuất hiện rõ nơi mỗi tu sĩ trong Giáo hội. Trước hết đó là nét độc đáo nơi các dòng tu, thứ đến là nét độc đáo của từng nhân vị. Từ thế kỷ thứ V thánh Biển Đức đã viết luật cho người tu là chấp nhận ý riêng của anh em, xem người anh em như là một nhân vị độc đáo của Thiên Chúa thì ta sẽ chấp nhận tất cả.
II. Tu sĩ trẻ trong xã hội ngày nay
Tu sĩ trẻ trong xã hội hôm nay được coi như “chiên” trong đàn sói. Liệu mỗi con chiên có thể cảm hóa được cả một đàn sói không? Hoặc bị sói cấu xé, hay sống theo đường lối của sói?
1. Những thách đố của xã hội
Tu sĩ trẻ đang sống trong một xã hội ảnh hưởng quá nhiều về các thuyết duy vật, thực dụng, đam mê bụi đời, mang đầy tinh thần thế tục, kể cả bầu không khí nhão nhẹt mùi xác thịt xâm nhập qua ngũ quan của các tu sĩ trẻ. Một thứ duy vật hấp dẫn quyến rũ, dễ dãi mê ly hơn bao giờ hết.
Trong bối cảnh ấy, làm thế nào để huấn luyện các tu sĩ trẻ? Làm thế nào để tu sĩ trẻ có thể thi hành sứ vụ mà không bị “sói dữ” ăn thịt? Làm thế nào để các tu sĩ trẻ có khả năng thực sự để phục vụ con người ngày nay? Câu hỏi “làm thế nào…” có thể liệt kê hàng loạt như là những thách đố rất cụ thể đối với các tu sĩ trẻ hôm nay.
Bên cạnh đó, hiện trạng khan hiếm linh mục, hố sâu ngăn cách giữa các thế hệ, sự khác biệt trong cung cách làm việc... càng thúc đẩy Giáo hội phải quan tâm hiều hơn tới việc đào tạo ra một thế hệ trưởng thành, những người vừa có khả năng vừa có bản lĩnh, có tinh thần, có trách nhiệm, có óc sáng tạo để đối diện với một tương lai đầy bất trắc đang đến với giáo hội và thế giới loài người hôm nay.


2. Con người ngày nay chờ đợi gì nơi các tu sĩ?
Qua những nhận định những lời khen chê trước mặt hay sau lưng, những phản ứng trên bộ mặt cử chỉ hành động thực tình hay xã giao, những tiếng đồn những dư luận, chính xác hay mơ hồ, ngay cả bịa đặt giả dối nữa, nếu tu sĩ trẻ tỉnh táo sáng suốt dám suy xét, ắt sẽ nhận ra được những ước nguyện sâu xa, những mong mỏi thầm kín chính đáng của người đời.
Họ mong mỏi nơi tu sĩ trẻ là một chân tu, kẻ sống giữa thế trần mà không thuộc về trần thế. Sống giữa thế trần bằng dấn thân thực sự vào tất cả các công việc trần thế, do sứ mạng hay địa vị. Dấn thân với tất cả sinh lực, cả khả năng chuyên môn, cả lòng hăng say tận tụy. Họ mong muốn tu sĩ trẻ thông cảm với họ, với những khó khăn vất vả về kinh tế, về gia đình, về giáo dục con cái,… một sự thông cảm thực tình giữa con người với con người. Họ muốn tu sĩ trẻ luôn lịch sự với họ, lịch sự chân thật, trong cử chỉ, gặp gỡ, lời nói đối xử. Lịch sự gồm cả kính trọng, vui tươi tế nhị, đứng đắn, kể cả một chút dè dặt để tránh tất cả những gì là quá mức. Tu sĩ trẻ phải dung hòa cái đơn sơ của chim câu và khôn ngoan của con rắn.
Tất cả mọi người mong mỏi tu sĩ trẻ những người sống giữa thế trần nhưng không thuộc về thế trần. Tu sĩ dấn thân nhưng không chìm đắm trong trần thế, như Chúa Giêsu đến trong thế gian mà không thuộc về thế gian. Đòi hỏi không chỉ khôn cái khôn của trần thế, không buông mình hưởng thụ tất cả những gì hưởng thụ được ở trần thế. Mặc dầu không phải là tội lỗi gì, mặc dầu khôn ngoan của thế trần không cảm thấy gì là đáng trách, thì tu sĩ trẻ cũng phải từ bỏ. Họ muốn cảm thấy được tu sĩ đi xa hơn họ về mọi mặt: sống thanh bạch hơn, khó khăn hơn, hăng say làm việc nhiều hơn, không phải vì lợi lộc tiền bạc thế trần, nhưng vì lý tưởng. Tu sĩ trẻ có cái gì tế nhị hơn, thanh cao hơn, thiêng liêng hơn khi tiếp xúc với người khác phái, dầu đời hay đạo, tu hay không tu. Người đời thích cảm thấy tu sĩ đã tận hiến, không còn chút quyến luyến, chút tiếc rẻ, chút mong mỏi thù lao cho sự hy sinh của mình.
Người đời mong mỏi được gặp tu sĩ, như là một dấu hiệu sự hiện diện của Thiên Chúa, một hình ảnh sống động của Ngài, một thừa sai, một sứ giả của Ngài, mang đến cho họ một sự phấn khởi, khuyến khích để họ sống giữa thế trần mà không thuộc về thế trần, giúp họ vừa trở nên con người của thời thế vừa là người của Thiên Chúa. Họ muốn tu sĩ trẻ là vàng thật của Thiên Chúa, không chấp nhận chỉ mạ vàng hay đồng mà thôi.
Trong tất cả những mong mỏi được coi như là chính đáng ấy, xin đừng quên tu sĩ vẫn là con người, một con người sống trong xã hội như mọi người, cũng có yếu đuối, có tội lỗi, cũng có hạn chế bất toàn, nên cũng rất cần được cảm thông, được nâng đỡ.
3. Sứ mạng của tu sĩ trẻ ngày nay là gì?
Đời sống thánh hiến là ân huệ Thiên Chúa Cha ban cho Giáo hội, được bén rễ sâu trong gương sống và giáo huấn của Chúa Kitô. Đời thánh hiến làm nổi bật nét đặc trưng của Đức Kitô: khó nghèo, khiết tịnh, vâng phục; những điều này trở thành hữu hình giữa lòng thế giới như một gương mẫu thường hằng.[30]
Qua các thời đại có những người nam và những người nữ, sẵn sàng nghe tiếng gọi của Chúa Cha, được Thánh Thần thúc đẩy, đã chọn con đường bước theo Đức Kitô, để tự hiến đời mình cho Ngài, với con tim không chia sẻ. Họ đã từ bỏ mọi sự như các Tông đồ, để ở với Ngài và giống như Ngài, phục vụ Thiên Chúa và anh em. Như thế họ góp phần vào việc biểu lộ mầu nhiệm, và sứ mạng của Giáo hội bằng muôn vàn đoàn sủng, thuộc đời sống thiêng liêng và Tông đồ mà Chúa Thánh Thần đã ban cho họ, nhờ đó họ góp phần vào việc canh tân xã hội.[31]
Nếu nói Đức Kitô là quà tặng của Chúa Cha ban cho nhân loại, nhờ món quà đó mà nối kết được tình yêu nhân loại với Thiên Chúa, thì tu sĩ là quà tặng cho Giáo hội, cũng phải mang tâm tình như vậy, phải sống, phải phục vụ như chính Chúa Kitô đã sống, đã phục vụ. Chính Thiên Chúa sẽ chất vấn các tu sĩ bằng những dấu chỉ của thời đại. Vậy họ phải quan tâm đến nhu cầu của thế giới đang biến chuyển không ngừng, những lời mời gọi cấp thiết của Giáo hội. Khi đáp ứng những lời mời gọi đó thì các tu sĩ diễn tả được tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa, được thực hiện bằng việc loan báo Đức Kitô, qua chứng từ đời sống và việc công bố Lời Chúa. Muốn thế giới trở nên công bình và nhân đạo hơn, tu sĩ trẻ phải vất vả làm lụng, họ phải là người kiến tạo hòa bình.
Sống trong một xã hội luôn biến đổi, tu sĩ trẻ cần biến báo linh động, hầu bắt kịp những chuyển biến để thích nghi hoạt động và phục vụ, thích ứng với con người thời đại. Là tu sĩ trẻ của của thế kỷ “@ - Acòng”, con đường phục vụ phía trước đòi hỏi phải có năng lực để thích ứng với từng môi trường, từng lãnh vực, từng nơi ta hiện diện. Một tu sĩ đa năng ngày nay rất cần, vì biên cương của sứ vụ lại là không biên cương, bất kỳ ở thành thị hay nông thôn luôn cần sự phục vụ của tu sĩ trẻ. Cuộc sống có muôn ngàn khó khăn khác nhau, làm cho con người tha thiết có được người sẵn sàng lắng nghe, hiểu và thông cảm những nỗi niềm của họ, trợ giúp họ khi gặp bất trắc.
Tóm lại, sứ vụ của tu sĩ trẻ, dù ở phương diện nào vẫn là phục vụ con người cách cụ thể, không dừng lại trên giấy tờ và trên bàn phím. Bối cảnh Việt Nam hiện nay, cần tu sĩ trẻ hơn lúc nào hết, sự nhiệt tâm loan báo Tin mừng, làm chứng nhân giữa đời, theo cung cách phục vụ của Đức Giêsu như lời thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói với giới trẻ của Nigeria vào ngày 15-02-1982 rằng: cuộc sống của tu sĩ trẻ quan trọng hơn các cuộc hành trình mà tu sĩ trẻ thực hiện, nói cách khác chính cách họ hiện hữu mới là điều quan trọng. Tu sĩ là người được thánh hiến theo Chúa Kitô với một tình yêu cao cả. Bất cứ nơi đâu một em bé cần đến, nơi đâu một ai đó đang đau khổ, nơi đâu anh chị em đang bị cô độc, bị hắt hủi, thì ở đó tu sĩ trẻ có cơ hội làm việc cho Nước Thiên Chúa.[32]
III. Cái nhìn hiện sinh qua các lời khấn
Trong Huấn thị “Xuất phát lại từ Đức Kitô”, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đã khuyên các tu sĩ sống linh đạo xuất phát lại từ ngôi vị Đức Kitô, Thiên Chúa thật và là người thật. Xuất phát lại từ Đức Kitô là gì nếu không phải là sống hiện sinh theo Tin mừng Chúa Kitô. Tin mừng là lời của Chúa, là chính Chúa, là của ăn, là đời sống của chúng ta.[33]
Tu sĩ đừng cảm thấy mệt mỏi khi suy niệm Tin mừng vì lời Chúa có thể khắc trên anh em những nét đặc trưng của Ngôi Lời nhập thể. Từ đó theo Đức Kitô bằng con đường của Ngài, hầu cứu độ nhân loại, con đường ấy không gì khác hơn là ba lời khuyên Phúc âm; khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục. Bởi thế, tu sĩ trẻ ngày nay đã đón nhận tiếng gọi thực hiện một sự thánh hiến mới đặc biệt, vì lợi ích của Giáo hội, nên họ được thúc bách thực hiện lối sống theo gương Đức Kitô, Đức Trinh Nữ Maria và các Tông đồ, với một tình yêu nồng nàn.[34]
Trong thế giới chúng ta, lối sống đó cấp thiết và cần một chứng tá, nhằm khẳng định vị thế tối thượng của Thiên Chúa và cuộc sống vĩnh cửu. Việc bước theo Đức Kitô để sống các lời khuyên Phúc âm, nói lên sự hiến thân trọn vẹn vì vinh quang Thiên Chúa và vì tình yêu đối với anh em.[35] Đời sống thánh hiến được đề cập xuyên suốt cả chiều dài Kinh thánh, trong thời Cựu ước đã có những nghi thức hiến thánh, nơi thánh (Xh 3,5; 19,23), xức dầu thánh (St 28,17). Hiến thánh là tính cách thiêng liêng, phẩm định những địa điểm hay những đồ vật dành riêng cho Chúa, hay dùng làm môi giới để con người tiếp xúc với Thiên Chúa. Những địa điểm ấy biến thành trung tâm thờ tự, những trung tâm này phải có những đồ vật và nhân vật được thánh hiến, để cử hành việc phùng tự, chính Thiên chúa đã chỉ huy ban hành nghi thức phụng vụ này (x. Xh 24,31).[36]
Còn trong Tân ước, ngoài việc cung hiến thể lý bằng bí tích, còn có việc hiến thánh luân lý, hầu rập theo gương mẫu và lời mời gọi của Đức Kitô. Chúa Giêsu được thánh hiến trong giây phút thành thai nơi cung lòng Trinh Nữ Maria, “ Thánh Thần sẽ đến trên trinh nữ và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao phủ Người bởi thế trẻ sắp sinh ra sẽ được gọi là Thánh” (Lc1,35). Chúa Giêsu đã tự xưng mình là người được Chúa Cha thánh hiến để cử xuống trần gian (x. Ga10, 36), và Người đã hết lòng sống việc hiến thánh ấy. Người không có tổ ấm riêng, “thân mẫu anh chị em tôi là ai?” (Lc 9,58), không học thuyết: “đạo lý của Ta không phải chính Ta mà thực thi ý muốn của Cha, Người đã tuân hành ý muốn của Cha một cách hoàn hảo. Người cầu nguyện cho các tông đồ: “Lạy Cha Chí Thánh vì họ mà con tự hiến thánh để họ cũng được hiến thánh trong chân lý” (Ga 19,21).
Tu sĩ trẻ ngày nay sống ba lời khuyên Phúc âm thế nào để vừa hiện sinh vừa đúng theo Tin mừng? Trong một xã hội chạy theo cuộc sống sung túc hưởng thụ, quyền lợi danh vọng, tự do phóng đãng, thì tu sĩ trẻ xem ra vong thân, nhu nhược!? Thực ra, theo hiện sinh trung thực thì tu sĩ trẻ không hề vong thân và nhu nhược mà là người hùng, rất độc đáo, và cũng rất tự do; bởi lẽ hiện sinh nhằm đưa con người đi đến thân phận làm người, làm một nhân vị cao cả, làm người tự do và luôn đề cao một cuộc sống có nhân vị. Giáo luật điều 1191 nói về lời khấn dòng: “Lời khấn dòng là lời hứa có suy tính và tự do với Thiên Chúa về một điều kiện khả dĩ và thiện hảo, nếu bị rối loạn trong việc sử dụng lý trí thì lời khấn sẽ vô hiệu”. Quả thật, ba lời khuyên Phúc âm giúp tu sĩ ra khỏi tình trạng phóng thể để vươn lên mức sống nhân vị tự do và tự nhiệm.
Sống ơn gọi tu trì trong lòng Giáo hội và giữa xã hội ngày nay, thì phải có những chọn lựa tiêu biểu mà truyền thông đã quy gom thành ba lời khấn: khó nghèo mang lấy bộ mặt của từ bỏ theo mẫu Tin mừng (x. Mt 10). Khiết tịnh là đảm bảo để trở thành tình yêu, là người được tình yêu Đức Kitô tìm gặp. Vâng phục là dâng hiến tự do cho sứ vụ Chúa Kitô.
1.   Hiện sinh trong lời khấn khó nghèo 
Lời khấn khó nghèo không phải là một lựa chọn riêng rẽ, tôi không sống khó nghèo để nghèo, mà tôi sống nghèo để nhằm đến sự hiệp thông mở rộng vòng tay đón nhận mọi người đặc biệt là người nghèo khó thấp hèn. Muốn có sự hiệp thông thì phải vứt bỏ những hàng rào ngăn cách mà của cải, kiến thức, quyền hành, đã dựng lên khắp mọi nơi, hàng rào đó đã đẩy lui những người ngheo khó ra ngoài. Sự nghèo khó của họ không phải là lý do để loại trừ họ ra ngoài, mà là nguyên nhân mở rộng trái tim của anh em. Một cộng đoàn tu sĩ phải là nơi mà người nghèo được ưu tiên, được đón nhận trong Vương quốc của Cha. Ngày nay kinh tế đóng vai trò quan trọng trong mọi hướng sống. Anh có nhiều của cải thì anh có nhiều quyền hành.[37] Người ta có thể dùng lao động để sinh lời, để cạnh tranh, để bóc lột người khác. Có phải Tin mừng cho chúng ta thấy rằng, lao động làm ra của cải để chia sẽ cho người khác được hưởng không? Khó nghèo để đưa con người đến một nhân vị hoàn toàn tự do, vừa tự do về thiêng liêng vừa tự do về vật chất. Khó nghèo không chỉ là một trạng thái nội tâm, mà còn phải biểu lộ cụ thể ra bên ngoài. Vì người khấn khó nghèo là bước theo Đức Kitô nghèo, một Đức Kitô đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Theo Đức Kitô vì Ngài là chân lý của con người, mà khó nghèo bắt đầu từ thân phận con người nhưng lại là khía cạnh của một chân lý, suy ra khó nghèo là một nỗ lực để đến với chân lý. Khi đó ta không còn của cải để bảo vệ, không còn quyền lực để bênh vực ta sống hoàn toàn nhờ ơn huệ, để nhận ra bản chất làm người là nhận tất cả sự nghèo hèn, vì con người là nghèo hèn và giới hạn, cho nên ta sống nghèo hèn là chân lý, là sống thật con người của ta, vì thuộc tính của con người là giới hạn, là thiếu thốn nghèo nàn.
2. Hiện sinh trong lời khấn khiết tịnh    
Người ta thường định nghĩa khiết tịnh theo nghĩa tiêu cực, là không lấy vợ, không lấy chồng. Có người phải sống độc thân không chọn được người mình muốn lấy, có người vì ích kỷ thích sống một cuộc sống an nhàn; song, cũng có người chọn cuộc sống độc thân để phục vụ đời một cách hữu hiệu hơn. Trong cuộc sống tại thế, Chúa Giêsu không lập gia đình, không là một người chồng, là vì Người muốn sống tương quan chính yếu, một người con, một người anh em. Lựa chọn này ăn khớp với Tin mừng mà Người loan báo. Vương quốc của Người là tất cả những anh em sống tình Cha.[38]
Chính Đức Kitô không hề có ý khinh chê chuyện hôn nhân, mà lời khuyên Phúc âm về đức khiết tịnh chỉ có ý gợi lên rằng: trái tim của người nam hay người nữ có thể có tình yêu hôn ước đối với chính Đức Kitô. Đây là một lựa chọn đặc sủng nhận lấy Đức Kitô như một Đấng phu quân độc nhất. Do đó, những người thực hiện cứu cánh nội tại, sẽ trở thành chiều kích cánh chung. Người khấn khiết tịnh khước từ niềm vui tự do tạm bợ của cuộc đời đôi bạn, nên họ đang sống và loan báo sự phục sinh (x. Lc 20, 34-36; Mt 22, 30; Mc 12,15).[39]
Tin mừng mời gọi đừng biến cuộc gặp gỡ nam nữ thành dịp người này thi thố quyền hành trên người kia. Trong đời sống đôi bạn người ta có thể sống hiệp thông với nhau, trao ban phó thác cho nhau, nhưng người ta cũng có thể chiếm đoạt nhau, buộc người kia phải phục lụy mình. Người khấn khiết tịnh khước từ hưởng tình dục với một  người khác. Từ đó có thể minh chứng theo cung cách của mình, là mọi tình yêu theo Tin mừng đều phải khiết tịnh, căn cứ trên sự tôn trọng và trao hiến cho nhau.
Người khiết tịnh minh chứng rằng, mọi mối tình đều có thể có phẩm chất và chiều sâu của nó, nhất là khi yêu thương như Thiên Chúa yêu. Đây là khước từ mọi quyền hành mọi kiểu cách thống trị để chịu đóng đinh bởi tình yêu. Chọn đời sống khiết tịnh còn minh chứng thêm một điều này nữa; là nếu hình ảnh đôi bạn là hình ảnh hiển nhiên nhất của hạnh phúc con người, và nếu nhiệm tích hôn nhân được chọn để diễn tả giao ước, thì hình ảnh đó chưa phải là hình ảnh của Vương quốc, nơi đây phải là nơi mọi người đều là anh em với nhau trong Đức Kitô. Chính vương quốc này mà ta hiến dâng cuộc đời và tình cảm của ta. Ta có thể quản lý tình cảm trong niếm tin, cậy, mến, trong tình hiếu thảo đối với Cha, tình yêu vô vị lợi, cởi mở đón nhận mọi anh chị em. Vấn đề không phải là loại bỏ mọi ước muốn tình yêu, nhưng là phải sống những điều đó trong viễn tượng Tin mừng mở ra khi mời gọi chúng ta sống khiết tịnh vì Nước Trời[40].
Khi dấn thân trong đời sống khiết tịnh, thì tu sĩ trẻ hiến thân cho ba đối tượng, Thiên Chúa, Hội thánh và tha nhân. Thánh Phaolô khuyên rằng: “Tôi nài xin anh em hãy dâng hiến thân mình làm của lễ sống động, thanh sạch đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1). Thiên Chúa không thèm khát chiên bò, nhưng Người vui mừng nhận lễ vật tình yêu, đó là một quả tim không chia sẻ, không bớt xén. Tu sĩ khước từ tình yêu xác thịt để chiếm hữu tình yêu Thiên Chúa và trở thành hy lễ hiến dâng Người. Chính đức khiết tịnh là một dấu chỉ, một tiếng nói tình yêu của tu sĩ muốn diễn tả với Thiên Chúa và với mọi người. Các môn đệ xưa đã từ bỏ tất cả để theo Chúa hầu tạo thành một gia đình mới, đó là Hội thánh. Tu sĩ khấn khiết tịnh cũng nhằm mục đích ấy, gia đình mới của tu sĩ là cộng đoàn dòng tu, là Hội thánh, hiền thê của Chúa Kitô. Từ đó họ dấn thân theo Chúa, phục vụ Hội thánh với con người hiện sinh hết tâm, trí, lực. Cũng nhờ lời khấn này mà tu sĩ trở nên người thừa hành, chuyển tải tình yêu Thiên Chúa và Hội thánh cho mọi người, với một con tim không dành riêng cho ai mà là cho mọi người. Tu sĩ yêu tất cả mọi người, phục vụ mọi người bằng chính tình yêu của Chúa Kitô.
Đức khiết tịnh là một kho tàng quý hóa, nhưng nó chưa phải là cùng đích, mà chỉ là con đường là phương tiện để tu sĩ phục vụ Hội thánh, yêu mến tha nhân và dễ dàng gặp gỡ Thiên Chúa, “phúc cho ai có tâm hồn trong sạch vì họ sẽ được thấy Thiên chúa” (Mt 5,8). Khiết tịnh hiện sinh theo Tin mừng có thể cho phép tu sĩ sáng tạo được những tương quan khác tương quan vợ chồng và gia đình, chính vì thế mà đời sống khiết tịnh có một giá trị cánh chung. Đời sống hôn nhân thì nhằm phát triển đời sống nhân loại, theo dòng thời gian, còn đời sống khiết tịnh thì hướng về điểm cuối, về Vương quốc, khi mà mọi khác biệt không còn nữa: Hy Lạp, Do Thái, nô lệ, tự do, đàn ông, đàn bà, mà chỉ còn Đức Kitô là tất cả cho mọi người.
3. Hiện sinh trong lời khấn vâng phục
Khi nói đến hiện sinh trong lời khấn vâng phục, thì nghĩ ngay rằng lời khấn vâng phục như là “luật của tự do”. Tại sao khi nói đến tự do mà còn đưa luật lệ vào? Thưa, nếu nói tự do là làm mọi việc có trách nhiệm trước lương tâm, tự do là phương hướng đưa con người thăng tiến, thì ta hãy nhìn hình ảnh con diều bay lên cao là nhờ gió, nhưng chỉ nhờ gió thôi thì con diều có bay lên cao được không? Để bay lên cao thì con diều phải có sợi dây buộc vào một vật cố định. Lời khấn vâng phục được ví như là sợi dây diều, con diều khi bay lên thì điều kiện cần và đủ là phải có sợi dây, sợi dây luật lệ, sợi dây bỏ ý riêng. Trong quyết định và trong hành động mà biết được mình có tự do hay không, khi Đức Giêsu quyết định làm theo ý Cha, thi hành sứ mạng Cha trao, thì Người đã sống một con người tự do. Đức Kitô tự do với của cải, tự do với hiểu biết, tự do với quyền hành, Người tự do cả trước Thiên Chúa, trong cầu nguyện cũng như trong lựa chọn.[41]
Để vâng theo ý Cha, Đức Giêsu đã sống trọn vẹn giao ước, đã chiến đấu cho đến cùng và lãnh lấy cái chết, chết trên thập giá. Tu sĩ tự do chọn điều mà Chúa Giêsu đã chọn để vâng ý Cha. Người môn đệ phải bỏ tất cả để lên đường gặp gỡ những người mà mình không tính sẽ gặp và đồng hành với họ. Vâng phục trước hết phải là sự lựa chọn của tu sĩ, chọn sống tính tuyệt đối của tình yêu giữa một cuộc sống tạm bợ. Tôi vâng phục người khác không phải vì họ không sai lầm, nhưng vì họ là những người tôi tớ phục vụ ý định của Thiên Chúa, họ giúp tôi sống ơn gọi của tôi, trong mọi tìm kiếm lựa chọn. Tuy nhiên cách thi hành đức vâng phục cũng phải tùy thời và tùy nền văn hóa. Vâng phục quen gọi là bỏ mình, nhưng không có nghĩa bỏ mình theo như robot, làm theo chương trình được cài sẵn, mà là vâng phục có trách nhiệm. Con người hiện sinh không thể là robot, mà phải có sáng tạo và có vươn lên.
Điều quan trọng mà tu sĩ cần lưu tâm là vâng phục để cứu thế. Tại sao dám khẳng định vâng phục là cứu thế? Vì ta dựa vào hiện sinh của Tin mừng và các văn kiện của Hội thánh. Trước hết, Đức Kitô đã dùng sự vâng phục để cứu thế, “Người là Thiên Chúa nhưng không nhất quyết nhận mình là Thiên Chúa… mà sống vâng phục, vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá” (Pl 2,6-7). Trong bản văn khác của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Rôma, “vì do sự bất tuân của một người, mà nhiều người bị liệt vào hàng ác nhân, cũng vì sự vâng phục của một người mà mọi người được liệt vào hàng công chính” (Rm 5,19). Lời khuyên Phúc âm vâng phục là lời mời gọi của Đức Kitô: “Hãy theo Ta”. Theo Đức Kitô là chu toàn ý muốn của Thiên Chúa, “lương thực của Ta là làm tròn ý muốn của Cha Ta” (Ga 3,34). Bên cạnh đó, một mẫu gương khác cho tu sĩ trẻ hôm nay đó chính là Đức Maria, Mẹ được mệnh danh là Eva mới. Nếu Eva cũ bất tuân mà làm nên sự chết, thì Đức Maria là Eva mới đã dùng lời xin vâng để cứu nhân loại.
Nhìn vào các văn kiện của Giáo hội, đặc biệt thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II, đã nhấn mạnh đến sự cứu thế bằng đức vâng phục. Ngài khuyên các tu sĩ bắt chước Đức Kitô để trở thành người cứu thế cho thời đại hôm nay. Chính ngài đã dùng lời Thánh kinh mà khuyên tu sĩ trẻ ngày nay vâng lời các bề trên của họ: “Anh em hãy vâng phục những người lãnh đạo… vì họ canh giữ linh hồn anh em như những kẻ phải trả lẽ, để họ vui mừng thi hành phận sự” (Dt 13,7). Một lời khuyên khác rất hiện sinh rằng:
Các con thân mến, đức vâng phục mà các con đã tự ý ràng buộc khi hiến thân tron vẹn cho Thiên Chúa bằng việc tuân giữ lời khuyên Phúc âm là biểu thị đặc biệt của sự tự do nội tâm, cũng giống như sự biểu thị quyết liệt của Đức Kitô về sự tự do của Người là sự vâng phục cho đến chết.[42]
Tóm lại, khi tìm hiểu về tu sĩ trẻ ngày nay sống hiện sinh theo Tin mừng, ta thấy được nòng cốt của đời sống này không gì khác hơn là sống ba lời khuyên Phúc âm. Khấn khó nghèo để giàu lòng bác ái phục vụ mọi người; khấn khiết tịnh để yêu một tình yêu đại đồng như Đức Kitô đã yêu; khấn vâng phục để được tự do, tự do đưa con người thăng tiến lên Siêu Việt, và để cứu độ nhân loại như Thầy chí thánh.
Nhận định của bản thân thay lời kết         
Từ trước tới nay, có lẽ nhiều người xem hiện sinh bằng cặp mắt không mấy thiện chí, đó là sự lêu lổng của xã hội, những cuộc sống vội vã của tuổi trẻ. Nhưng họ quên rằng bên cạnh hiện sinh tiêu cực đó, cũng xuất hiện nhiều trường phái hiện sinh tích cực, nhằm dẫn con người đến những ưu tư của cuộc sống, những hướng phát triển cho cuộc đời.
Thực ra, ta phải cảm ơn các triết gia hiện sinh hữu thần như Kierkeggard, Gabriel Marcel, Jaspers…, qua các triết thuyết hiện sinh này, họ đã nhắc nhở cho ta rằng, những thách đố những khó khăn ở xã hội ngày nay chỉ là những “mật mã”, những “ẩn số” để biến đổi cái phi lý thành cái hợp lý.        
Với lối nhìn trên, chúng ta có thể tóm tắt chủ đề “những thách đố của tu sĩ trẻ ngày nay với ảnh hưởng của tư tưởng hiện sinh” với ba chiều kích:
Trước hết, tu sĩ trẻ là người dám sống sự lựa chọn. Chọn lựa là dám suy nghĩ, dám nói, dám hành động với tinh thần trách nhiệm. Phải chấp nhận chọn lựa, cho dù đó là một mất mát. Tu sĩ trẻ ngày nay không còn vâng phục tối mặt, mà với tinh thần cởi mở và đối thoại, được góp ý kiến, thể hiện khả năng của mình để phục vụ tốt hơn. Chính vì thế, các tu sĩ trẻ ngày nay đòi hỏi phải hết sức trưởng thành. Chọn lựa là phải dám nói không, chấp nhận thiệt thòi, để sống đúng chân tính của mình, sống triệt để tinh thần Phúc âm mà vẫn giữ được con người hiện sinh.
Thứ đến, tu sĩ trẻ là người phải đáp ứng nhu cầu hiện sinh anh chị em. Và do chính tu sĩ trẻ cũng là con người hiện sinh, nên không thiếu những bất toàn. Phải chăng, chính Chúa cũng không ngần ngại chọn ngay cả sự bất toàn của họ và mời gọi họ phục vụ  cho Vương quốc? Như vậy, tu sĩ trẻ không dựa vào sức riêng của mình mà lo lắng về thành công hay thất bại, mà chỉ dựa vào Thiên Chúa, dựa vào ý muốn của Người mà sống sứ mạng của mình.
Cuối cùng, tu sĩ trẻ là người luôn biết hướng đến tương lai. Do đó, dù phải chu toàn những công việc trước mắt, nhưng họ phải nhắm đến đích ở tương lai, đi vào tương lai, với bầu nhiệt huyết của riêng mình, với sự năng động của tuổi trẻ, để dấn thân không chán nản không thất vọng.
Như vậy, ba nét tích cực hiện sinh là tu sĩ trẻ ngày nay dám chọn lựa, dám sống hiện tại, và biết nhắm đến tương lai, nhưng không bứt ra khỏi sợi “dây diều” của Giáo hội. Nhờ vậy, họ có thể bay cao, bay xa và nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô.



[1] Trần Thái Đỉnh, Triết Học Hiện Sinh, 1968, tr. 45
[2] Bocheki, Triết Học Tây Phương Hiện Đại, 1969, tr. 35
[3] Trần Thái Đỉnh, Triết Học Hiện Sinh, 1968, tr. 26
[4] Bocheki, Triết Học Tây Phương Hiện Đại, 1969, tr. 43
[5] Nguyễn Trọng Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương. tr 22
[6] Sđd tr 30
[7] Bocheki, Triết Học Tây Phương Hiện Đại, 1969, tr. 53
[8] Nguyễn Trọng Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, tr 36
[9] Nguyễn Trọng Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, tr 59
[10] Sđd., tr. 150
[11] Bocheki, Triết Học Tây Phương Hiện Đại, 1969, tr. 83
[12] Nguyễn Trọng Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, tr 18
[13] Georges Gusdorf, Soren Kierkegaard người chứng của chân lý, Tôn Thất Hoàng dịch, tr 33
[14] Bocheki, Triết Học Tây Phương Hiện Đại, 1969, tr. 102
[15] Trần Thái Đỉnh, Triết Hiện Sinh, tr. 91
[16] Gabriel Marcel, Hiện Hữu và Tha Nhân, bản dịch Đặng Phùng Quân, tr. 17.
[17] Nguyễn Trọng Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương. Tr 103

[18] Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu, số 42
[19] Phạm Văn Hiền, Triết Sử Tây Phương, tr. 117
[20] Trần Thái Đỉnh, Triết Hiện Sinh, tr. 75
[21] Bocheki, Triết Học Tây Phương Hiện Đại, 1969, tr. 311
[22] Trần Thái Đỉnh, Triết Hiện Sinh, tr. 36
[23] Bocheki, Triết Học Tây Phương Hiện Đại, 1969, tr. 115
[24] Trần Thái Đỉnh, Triết Hiện Sinh, tr. 42

[25]Bocheki, Triết Học Tây Phương Hiện Đại, 1969, tr. 132
[26] Trần Thái Đỉnh, Triết Hiện Sinh, tr. 41
[27] Sdd. Tr. 43
[28] Nguyễn Trọng Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương, tr 64
[29] X. Bocheki, Triết Học Tây Phương Hiện Đại, 1969, tr. 138

[30] Huấn Thị Xuất Phát Lại Từ Đức Kitô, số 3
[31] Tông Hiến Đời Sống Thánh Hiến, lời mở.
[32] Nội San Liên Tu Sĩ TPHCM, số 35
[33] X. Huấn Thị Xuất Phát Lại Từ Đức Kitô, lời mở
[34] Sđd. Số 24
[35] Sđd. Số 7
[36] Nguyễn Văn Liêm, Dạ Con Đây, tr. 16
[37] Nguyễn Văn Liêm, Dạ Con Đây, tr. 32
[38] Nội San Liên Tu Sĩ TPHCM, số 1, tr.70
[39] Tông Huấn Hồng Ân Cứu Chuộc, 1999, số 11
[40] Joseph Thomas, Lao Động Tình Yêu Chính Trị, 1001, tr. 38
[41] X. Nội San Liên Tu Sĩ TPHCM, số 1, tr.73
[42] Tông Hiến Theo Chúa Kitô, 1999, tr. 100-102 

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn