Ra khỏi
mình để gặp gỡ tha nhân
cũng đòi buộc để lại đàng sau những thành kiến,
những phản ứng, suy tư nhanh, vội, để được biến đổi,
đơn giản là để lại đàng sau những thói quen
mà lắm lúc ta thường dễ dàng tuyệt đối chúng
cũng đòi buộc để lại đàng sau những thành kiến,
những phản ứng, suy tư nhanh, vội, để được biến đổi,
đơn giản là để lại đàng sau những thói quen
mà lắm lúc ta thường dễ dàng tuyệt đối chúng
Nt. Trần
Thị Quỳnh Giao, FMM
Thách đố của đời sống
thánh hiến quả thực là không ít. Đời sống nào lại không có những thách đố của
nó. Nhưng dường như thách đố làm cho cuộc sống lắm lúc thêm đậm đà và sâu sắc
hơn khi có sự kiên nhẫn ngồi lại với nhau để cố tìm một sự lắng nghe, cảm
thông, thì có thể hy vọng đi đến một kết quả thay đổi chính cuộc sống của
mình.
Bài viết này muốn chia sẻ đôi điều tâm đắc mà kinh nghiệm sống đời
hiến dâng lâu năm trong một Hội Dòng quốc tế đã đem lại những hoa quả quý báu
làm cho đời sống dâng hiến thực sự có ý nghĩa.
Tương quan là yếu tố căn bản của đời sống truyền giáo thừa sai của
người Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ (FMM). Tương quan đó là nền tảng của cuộc sống
của chúng tôi, cuộc sống này chúng tôi hiểu như cuộc sống theo hình ảnh của Ba
Ngôi Thiên Chúa, Cha-Con-Thánh Thần, một Thiên Chúa Tương giao, đối thoại, đón
tiếp, ân ban, yêu thương và tự do. Nhưng trong tương quan đó, chúng tôi cảm
nghiệm được sự phức tạp, khó khăn vì mỗi người chúng tôi điều ít nhiều bị
thương tích và khi chúng tôi đến với nhau, chúng tôi ý thức mình đến với nhau với
tất cả những thương tích trong con người mình. Song chính nhờ những rạn nứt này
mà Thiên Chúa đến với con người tôi, chúng tôi, qua bản thân của Đức Giêsu, sống
giữa con người bị thương tích đó, để nhờ Thần Khí, lôi kéo chúng tôi đến tâm
tình sám hối liên lỉ, nhờ đó chúng tôi từ từ có thể đi đến với người khác để gặp
gỡ, chia sẻ.
Tôi còn nhớ lệnh truyền của Yahwe Thiên Chúa với Abraham: “Hãy ra khỏi xứ sở ngươi, dòng tộc ngươi,
làng mạc ngươi và hãy đi đến mảnh đất mà Ta sẽ chỉ cho ngươi.” Ai trong chúng ta đã không một lần nghe được lệnh
này, một lời mời bỏ tất cả mọi sự, lời mời đến từ một ai đó, hoàn toàn khác. Và
khi đó bắt đầu một cuộc mạo hiểm, một cuộc mạo hiểm lớn. Một cái nhảy vọt trong
hoang vắng, trong cái hoàn toàn không biết, trong đức tin; tách khỏi mọi sự
quen thuộc với chúng ta, với những gì thân thiết nhất, với những thói quen, nơi
chốn, một sự từ bỏ hoàn toàn… để đi đến với người khác,
đến với những con người
mà ta không quen biết, đến những nơi lạ lẫm; để gặp gỡ những người anh em, chị em, những quốc gia, những nền văn hóa khác, đến với một
Giáo hội khác… trong một quá trình lâu dài,
quá trình tập luyện sống
tình anh chị em, qua những xung đột, những hòa giải, những thứ tha…
Đi đến với người
khác
Đây là một thách đố lớn đối với chúng tôi, một thách đố hai
mặt:
Với tư cách là một thừa sai
Chúng tôi được mời gọi tháp nhập trong:
- Một nền
văn hóa lắm lúc không phải là của tôi
(ngay cả là người Việt, đã có ba miền khác nhau với bao khác biệt từ ngôn ngữ,
giọng nói, thực phẩm v.v…). Trong một cộng đoàn quốc tế và liên văn hóa, điều
này cho thấy liền, yếu tố quan trọng và cơ bản là phải ra khỏi chính mình.
Chúng tôi là những thừa sai phải được gởi đi “ra ngoài biên thùy”
(ad extra). Muốn gặp gỡ tha nhân phải ra khỏi chính mình, mà tha nhân thì hoàn
toàn khác với tôi, không chỉ tôi thấy họ khác mà chính họ cũng thấy tôi khác với
họ nữa. Cả hai, chúng tôi khác nhau biết bao, xa lạ nhau nhiều. Ngày nay không
có một quốc gia nào mà không có sự pha trộn lẫn nhau giữa các nền văn hóa.
- Ra khỏi mình luôn là một sự
mạo hiểm và không dễ dàng gì khi
phải chấp nhận rằng có những điều chúng ta không biết, rằng có những thứ tình cảm
xen lẫn trong chúng ta, những nỗi sợ hãi, những lo âu, cảm nghiệm không an
toàn, bị loại trừ, làm ta muốn quay về với chính mình. Trên bình diện tình cảm,
ta có thể bị tổn thương. Cần can đảm và thực tế nhìn nhận chân lý này nếu muốn
thực sự đi đến với người khác.
Một kinh nghiệm: khi được biết người cháu gái là GS ở
Sorbonne sắp lập gia đình với Guadeloupe, một người không nghề nghiệp, đó là một
cú sốc cho tôi. Mình vẫn được biết và được giáo dục rằng con người là hình ảnh
Thiên Chúa, rằng phải tôn trọng, phải yêu thương họ v.v. Tôi cũng được chuẩn bị,
biết rằng chấp nhận những khác biệt, dù nhỏ, như món ăn, đến những giá trị sâu
xa hơn, ngôn ngữ, tính tình, tư tưởng không phải là dễ; đón nhận những cách thể
hiện khác nhau của niềm tin, rằng tất cả những thứ đó làm phong phú mình. Đúng
vậy, nhưng dù gì, đó vẫn là một cú sốc quá lớn đối với tôi!
Có lẽ không phải là do sự khác biệt văn hóa, mà dường như do chính
tôi: với những nguồn cội văn hóa và thiêng liêng của mình, tôi ý thức rõ ràng sự
vượt trổi hẳn của nền văn hóa Việt của mình; cú sốc ẩn dấu sâu xa dưới mặt nạ
được mang danh là quyền của mỗi người được thể hiện nó, biểu lộ nó và cả quyền
phải bảo vệ nó nữa. Tôi tự vấn mình về chính căn tính thật của mình: sống sự dằng
co này, giữa gặp gỡ và đối nghịch, nghĩa là nhu cầu diễn tả và xác định căn
tính văn hóa của tôi, tinh thần và tôn giáo của tôi và nhu cầu đi vào tương
quan với tha nhân, trong sự chấp nhận, đón nhận thế giới của họ, màu da của họ,
văn hóa của họ, tôn giáo của họ… Không dễ để yêu thương, để tôn trọng người
kia, và đây như là một vết thương tích đối với tôi, khi khám phá ra rằng tôi có
khuynh hướng đề cao mình là người Việt Nam, vượt hẳn họ, những người da đen! Phải
khiêm tốn nhìn nhận điều này, nếu không, chính vì thế mà chúng ta sẽ không chế
ngự được nó. Đúng, đây là một kinh nghiệm sống đau đớn nhưng hữu ích vì nhờ đó
mà sau này tôi cảm thấy khoan dung hơn.
- Ra khỏi mình để gặp gỡ tha nhân cũng đòi buộc để lại đàng sau những thành kiến, những phản ứng, suy tư
nhanh, vội, để được biến đổi, đơn giản là để lại đàng sau những thói quen mà lắm
lúc ta thường dễ dàng tuyệt đối chúng; tránh đi những so sánh, nếu không, thân
xác có đó, với ý nghĩ là thừa sai, nhưng tinh thần, tâm hồn thì “ở nhà”chứ
không ở vùng truyền giáo.
- Quá trình dài lâu này sẽ được sống với những vụng về và ngạc nhiên nữa, trước những phản ứng hay suy tư
mà chúng ta có thể không hề biết trước. Ý thức và chấp nhận điều này sẽ giúp cả
hai đi đến một sự đổi thay nào đó. Nỗi sợ hãi sẽ biến mất, lòng tin tưởng bất đầu
hé mở và những chiếc cầu nhỏ bé bắt đầu được thiết lập. Người kia, kẻ xa lạ trở
nên gần hơn, trở nên người láng giềng mà ta chia sớt với nhau một cái bánh mới
làm hay một cọng rau trong vườn…
- Một điểm khác không thể chối cãi được mà
kinh nghiệm gặp gỡ tha nhân đưa đến là thực sự có một mất mát nào đó, có thể là xa cách với một người thân vì họ
không đồng suy nghĩ với mình. Để tái lập lại một rạn nứt nào đó, như chính
thánh Phêrô cũng đã phải làm khi mở rộng lòng mình để đón tiếp sĩ quan
Cornelius vào Giáo hội.
- Trong kế hoạch truyền giáo có một cách thế đặc biệt: không cố thuyết phục, không áp đặt để
người kia“trở lại đạo”như mình muốn,
nhưng là làm sao để người kia thấy họ vẫn có quyền “khác” với mình. Do đó phải có sự lắng nghe giữa đôi bên, qua đó mỗi
người chia sẻ cho nhau sự khôn ngoan của mình, cách thức chiến đấu của mình, niềm
hy vọng, nỗi sợ hãi, thất bại thành công của mình, niềm vui nỗi buồn, tất cả mọi
diễn đạt nghèo nàn, giới hạn, kinh nghiệm đức tin, lòng tha thứ… Qua những lần
trao đổi chia sẻ kinh nghiệm sống trong cuộc sống bình dị của mỗi người, Tin Mừng
có thể được cảm nghiệm qua chứng từ yêu thương đưa mỗi người đi đến với nhau, đến
với sự sống. Một trong những mục tiêu của đối thoại là đập bỏ những bức tường
thành kiến chia rẽ con người, tạo điều kiện tốt thuận lợi để cảm thông và gần
gũi.
- Việc truyền giáo giúp con người tôn trọng lẫn nhau, khơi dậy nơi ta chiều kích phổ quát. Ý
thức rằng chúng ta cùng chung một đại gia đình và đây là điểm đặc sắc của người
Á Đông khi Đức Không Tử dạy: “Tứ hải giai huynh đệ”. Phải chăng đó là ước muốn
của Thiên Chúa Ba Ngôi: Một mà Ba cho chúng ta, Đấng đã quy tụ chúng ta thành một
đại gia đình và anh em bởi được tạo dựng theo hình ảnh của Ngài?
Với tư cách là chị em…
Chúng tôi phải Dám sống tình chị em. Trong thao tác đón nhận nhau,
mỗi người nhận chân mình được đón nhận
như mình là mình, với những giới hạn, những phong phú của mình, với lịch sử của mình, cùng nhau đọc lại, lắng
nghe, chia sẻ, trở thành “lịch sử thánh” cho cả hai, kết nối bởi bao ân huệ
và lỗi lầm được thứ tha; những nỗi sợ hãi, bị xét đoán, sợ không được nhìn nhận,
từ từ có thể nhường chỗ cho lòng tin tưởng. Trong tương quan này, những ước mơ
và nguyện vọng sâu thẳm giành cho nhau được xác định, và những ngờ vực được giải
tỏa. Do vậy mà những gặp gỡ với tha nhân có thể giúp khám phá được công trình của
Thần Khí đang hoạt động trong cuộc sống của chúng ta, một cuộc sống được sẻ
chia bởi ân huệ và lỗi lầm, nhưng chắc chắn là được thứ tha thực sự.
Gặp gỡ những người
anh em…
Chúng ta nên lưu ý về cách nói ít khi có trên môi miệng của Chúa
Giêsu, khi sáng ngày Phục Sinh, Ngài dùng để nói với các bà khi nhờ nhắn tin
cho các môn đệ. Ngài dùng từ “anh em”:
“Hãy đi nói với anh em Thầy rằng, họ phải đi đến Galilê để gặp Thầy”(Mt 28,
10). Thánh vịnh 22 cũng đã dùng: “Con sẽ loan báo danh Ngài cho anh em con trước
lòng Đại Hội”. Tại sao có lời này của Chúa Giêsu sáng ngày Phục Sinh? Điều này
hé mở cho thấy lý do căn bản giữa cuộc gặp
gỡ - tương quan, nghĩa là mối giây phải có giữa Chúa Giêsu được Phục Sinh
và các môn đệ: Biến cố Phục Sinh mặc dù mang tầm vóc lớn và có làm cho các ông
cảm thấy kinh hoàng, thì cũng không được xem như một sự cắt đứt giữa quá khứ và
hiện tại, giữa sự vinh quang của một Giêsu Phục Sinh và tính nhân loại của một
Giêsu Nazareth.
Đúng, Ngài là Thiên Chúa Hiển Vinh nhưng là người anh em của họ
trong bản tính nhân sinh của Ngài. Đối với Đức Kitô, sự hiển vinh này của Ngài
là Nước Thiên Chúa mà Ngài đã loan báo trước đây, được đánh dấu bởi sự gần gũi.
Và để minh chứng điều đó Ngài đã tự mạc khải cho thấy Ngài là một người gần gũi
nhất với họ, gần gũi với mọi con người. Thay vì tự giam mình trong một vòng nhỏ
bé với một số bạn bè hay người công chính, Ngài lại đi đến với những người xa
nhất, với những người lạc lõng, những tội nhân, những người bị loại bỏ. Ngài ăn
uống với họ, ở giữa họ. Ngài dẹp đi tất cả mọi khoảng cách. Ngài để cho họ đến
gần Ngài. Ngài để cho quần chúng đụng chạm đến Ngài. Mọi người phải cần biết rằng
Thiên Chúa muốn đi vào tương quan với con người, muốn tạo tương quan, muốn hiệp
thông với mỗi con người. Sự hiển vinh của Thiên
Chúa mà Ngài mạc khải, cơ bản là tính vương quyền của tình yêu thương,
thứ tình yêu thương không hề biết đến ranh giới hay khoảng cách nào và chỉ có
thể trị vì nhờ sự gần gũi và hiệp thông. (xc. Hôsê 11,1-4)
Qua đó Đức Giêsu cho thấy rõ vinh quang của
Cha và sự vinh hiển của Người không cần tìm đâu trên trời, ngoài trần thế này
mà là với tha nhân, không là chế ngự mà là hiệp thông. Không là khoảng
cách mà là tương quan gần gũi.
Đó là ý nghĩa căn bản của tương
quan liên văn hóa của chị em, dẫn đến sự hiệp thông, làm cho chị em trở
thành chị em trong Chúa Giêsu Phục Sinh, quyền
năng mới của Sự Sống lại làm Thiên Chúa gần gũi với con người nhờ bởi tình
Con Thảo của Chúa Kitô, biến đổi tương quan xa xôi của con người thành NGƯỜI
ANH EM.
Điều này cần phải trải qua một tiến trình lâu và dài: Chúng ta cần xác tín rõ và vững chắc rằng,
chúng ta phải chấp nhận tiến trình dài
lâu này, nhưng vững tin là có thể đạt được kết quả, có thể đến đích trong
kiên trì, thông cảm, khiêm tốn và thứ tha.
Đời dâng hiến là một hành trình dài, hành trình hiến dâng liên lỷ.
Thử thách cách này hay cách khác, lúc này hay lúc kia; phải được coi là một điều
bình thường trong hành trình lữ thứ. Điều quan trọng là biết đón nhận, vượt
qua, và cứ đích cuộc hành mình mà nhắm tới. Tôi tin rằng chúng ta, ít nhiều, đã
trải nghiệm được đôi chút kinh nghiệm về những thách đố này. Mọi sự bắt đầu,
hay làm mới cuộc hành trình đều không bao giờ là trễ cả. Chúc tất cả những anh
chị em sống đời thánh hiến thành công trên nẻo đường xem ra “chẳng mấy ai đi”
này.
Thách đố
của tu sĩ trẻ ngày nay
với những ảnh hưởng của
tư tưởng hiện sinh
của tu sĩ trẻ ngày nay
với những ảnh hưởng của
tư tưởng hiện sinh
Cuộc sống hiện sinh của tu sĩ trẻ ngày nay
có lẽ phần nào mang nặng hiện sinh của Kierkegaard khi nhìn vào ba giai đoạn triết thuyết của ông.
Đời tu của tuổi trẻ ngày nay
cũng được xem như ba giai đoạn
để vươn lên và chót đỉnh là chính Đức Kitô.
có lẽ phần nào mang nặng hiện sinh của Kierkegaard khi nhìn vào ba giai đoạn triết thuyết của ông.
Đời tu của tuổi trẻ ngày nay
cũng được xem như ba giai đoạn
để vươn lên và chót đỉnh là chính Đức Kitô.
Phêrô Nguyễn Viết Hùng, O. Cist.
Dẫn nhập
Trong cuộc sống, kinh
nghiệm cho thấy rằng, cơ hội hay nguy cơ có khi ẩn khuất ngay trong một sự việc;
cái hay, cái dở dường như luôn có đó, tùy theo sự khôn ngoan chọn lựa của con
người. Cũng vậy, trước một tư tưởng, một triết thuyết, chúng ta cũng thấy sự lưỡng
giá của nó.
Với bài viết này, chúng ta thử tiếp cận với
những thách đố của đời tu, qua góc nhìn triết học, cụ thể là với những ảnh hưởng
của tư tưởng hiện sinh. Một khi nhận ra những thách đố, có khi là cơ hội chứ
không hẳn luôn là nguy cơ, chúng ta có thể thăng tiến đời sống dâng hiến của
mình.
I. Một vài nét
tìm hiểu về tư tưởng hiện sinh
Được gọi chung là thuyết hiện sinh nhưng mỗi
quan niệm của mỗi triết gia hoàn toàn khác nhau, vì họ đều trỗi dậy từ kinh
nghiệm bản thân, cho nên hiện sinh mang nhiều hình thức sai biệt của từng triết
gia; chẳng hạn như: Jaspers nói về tính chất mong manh của thể tính; Heidegger
thì nói tới sự chết và chọn lựa sự chết; Sartre thì kinh nghiệm về trạng thái
buồn nôn của cuộc đời. Nói chung các triết gia hiện sinh không ai che dấu triết
lý của họ bắt nguồn từ những kinh nghiệm. Chính đó là do thuyết hiện sinh luôn
luôn mang dấu vết kinh nghiệm cá nhân, ngay ở nơi Heidegger hướng về cái chết
cũng hướng về một cách chọn lựa.
1. Quan niệm và lập
trường của hiện sinh
Thuyết hiện sinh lấy cái gọi là hiện hữu
làm đối tượng cứu cánh của nghiên cứu. Những ý kiến mà họ gán cho chữ hiện hữu
rất khó hiểu, tuy nhiên trong mỗi trường hợp, nó có thể chỉ cho ta cách thế hiện
hữu dành riêng cho con người. Con người là một từ ngữ xem ra ít dùng mà thông
thường được thay thế bằng chữ “tại thế”, “Dasein”, “hiện hữu”, “tự ngã”, “tự
thân thể”. Độc nhất chỉ có con người là hiện hữu, nói đúng hơn con người không
có sự hiện hữu mà chính nó là hiện hữu.
a. Quan niệm của hiện sinh
Trước hết ta có thể khẳng định một cách chắc
chắn là lập trường của thuyết hiện sinh hoàn toàn khác với các thuyết khác trong thời cổ. Từ thời Platon, Aristote
cho đến Descartes, Kant, Hegel… có thể nói đây là một thứ triết thuyết phóng thể,
thay vì giúp con người suy nghĩ về thân phận và định mệnh của mình, thì đã khuyến
khích con người quyên minh để mãi mê tìm hiểu vẽ huyền bí của Tạo Hóa, như thế
con người không có thể đứng riêng, mà con người cũng là một trong hàng ngũ của
vạn vật. Trong các triết thuyết cổ truyền hình như vắng bóng con người hiện
sinh, không bàn đến tự do, không bàn đến nhân vị, cũng không bàn đến định mệnh
cuộc đời chúng ta sau khi chết, bởi vì vũ trụ to quá át mất con người. Trần
Thái Đỉnh trong cuốn Triết học hiện sinh
đã nói rất sâu sắc:
Triết thuyết
cổ đã phản ánh thái độ sơ khai của ý thức con người, một ý thức bị phóng thể, đứa
bé còn cởi truồng đi chơi ngoài đường, nó không biết xấu hổ, nó không biết nhìn
nó bằng con mắt người ta đang nhìn nó. Tóm lại nó chỉ biết nhìn ra mà không biết
nhìn vào chính nó, thời kỳ niên thiếu là thời kỳ con người phóng thể hoàn toàn
hòa mình vào vũ trụ. Chỉ ý thức về các sinh vật trong vũ trụ. Khi nào con người
ý thức mình đang sống trong vũ trụ, mình đang sử dụng sự nọ vật kia, mình có
thái độ tốt xấu, thì lúc đó con người mới bước sang giai đoạn phản tỉnh”.[1]
Các triết thuyết cũ, dù có đối tượng hóa
con người chăng nữa, thì con người là thế này thế nọ trong khi con người phải sống
xứng đáng là con người của tự do, chính đây là lập trường của thuyết hiện sinh.
Từ đó ta có thể nói thuyết hiện sinh là một triết thuyết về con người, triết
thuyết về ý thức cuộc sống hiện sinh.
Thuyết hiện sinh bỏ đi con đường cũ của
các triết thuyết cổ truyền, không theo đuổi nguyên nhân cao nhất của vạn vật nữa.
Thuyết hiện sinh không mất thì giờ bàn những chuyện xa xôi về những vẽ huyền vi
của tạo hóa, nhưng chỉ chú trọng đến thân phận của con người, tìm hiểu ý nghĩa
của cuộc sống và cái chết của con người, không gì tha thiết con người bằng
chính con người. Bởi lẽ, tiếng nói của hiện sinh đã được các giới, nhất là giới
trẻ đầy ưu tư về thân phận của mình, họ đã đón chào một cách nồng nhiệt và đã ảnh
hưởng lớn trên các phong trào của giới trẻ hiện nay.
Điều này do hai căn cơ: thứ nhất, vì thuyết
hiện sinh nói thẳng thắn đến chuyện xã hội loài người; thứ đến thuyết hiện sinh
không dùng lối danh từ chuyên môn trừu tượng mà dùng lối nói chung của mọi người,
kiểu truyền đạt như truyện ngắn, kịch, tiểu thuyết…
Thuyết hiện sinh đã nhường việc nghiên cứu
vũ trụ cho các nhà khoa học, để chỉ suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời của con người,
chính thế mà thuyết hiện sinh đã cảnh tỉnh
được con người, dù là khuynh hướng Thiên Chúa giáo hay vô thần thì thuyết
hiện sinh đã mang tôn giáo lại cho thế giới lạnh lùng của triết thuyết cổ điển[2].
b. Lập trường của hiện sinh
Nội dung chính của thuyết hiện sinh là con
người, con người sinh hoạt hàng ngày có xương có thịt, con người trong thực tại
xã hội, chứ không phải con người viết hoa của Aristote mà con người đây là tôi,
là anh, là chúng ta hết thảy. Con người sinh hoạt, tôi là một chủ thể, tôi là một
nhân vị tự do, đó là hai đề tài chính của thuyết hiện sinh. Qua chủ thể ta khẳng
định thuyết hiện sinh là thuyết của con người đã tỉnh ngộ. Con người hiện sinh
là con người dám nhìn thẳng vào sự thực, không sống theo những quan niệm trừu
tượng. Như ông thầy thì được kính trọng, ông cha được kính sợ… con người hiện
sinh không có tính chất nịnh hót như thế, nhưng luôn cố gắng dùng suy nghĩ để
xác nhận ý nghĩa hiện sinh, tức là ý nghĩa thực sự của mỗi người, mỗi vật. Cho
nên, họ không trọng ông thầy vì ông thầy, hay sợ ông cha vì đó là ông cha…nhưng
chỉ kính trong ông thầy, ông cha vì những đức tính tri thức đạo đức của ông thầy
hoặc ông cha đó. Họ không kính trọng ông thủ tướng vì ông là thủ tướng nhưng
kính ông vì ông có tài có đức.
Tự do tính: nếu chỉ nói lên chủ thể tính
thì chưa nói lên được cái giọng “ngang tàng” của thuyết hiện sinh. “Ngang tàng”
hiểu theo nghĩa hiện sinh là gì? Người ngang tàng là người không chịu đứng
trong hàng ngũ quần chúng vô danh. Người hiện sinh là người ngang tàng vì họ ý
thức được mỗi người là một kỳ diệu của Thượng Đế, mỗi người là một cái độc đáo,
nhưng hiểu độc đáo không phải là lập dị và ngang tàng không có nghĩa là bướng bỉnh
phá phách; mà đây là nói lên con người tự do. Tự do này là bảo đảm cho hiện
sinh, vì tự do của xã hội thường ngày chưa phải là tự do của hiện sinh[3]. Tự
do bên ngoài chưa phải là điều kiện cần thiết của tự do bên trong, tức là tự do
hiện sinh.
Tóm lại thuyết hiện sinh dạy ta suy nghĩ về
thân phận con người làm người, thức tỉnh con người trỗi dậy bỏ cách sống như sự
vật để sống một cuộc sống có nhân vị, nhân vị cao cả con người là tự do.
c. Những tư tưởng chính của hiện sinh
Như đã nhận định trên: đề tài duy nhất của
thuyết hiện sinh là con người tại thế. Con người cá vị, với những điều kiện
sinh hoạt nhất định, và định mệnh độc đáo của mỗi người. Con người hiện sinh là
người được chiêm nghiệm dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Đó chính là đề tài của
các nhà hiện sinh, nhiều học giả gọi đề tài đó bằng hai chữ “phạm trù”.
Nói đến phạm trù ta có thể đưa ra vài so
sánh phạm trù của thuyết hiện sinh với các thuyết cổ điển. Chữ phạm trù có từ
thời Aristote, ông xem vạn vật đứng vào mười loại sự kiện, tức là mười phạm trù
Aristote. Vạn vật là bản thể hay tùy thể, bản thể là chủ thể còn tùy thể là thuộc
tính. Gồm có chín tùy thể sau đây: lưỡng tính, phẩm tính, tương quan, hành động,
thụ động, vị trí, thời gian, không gian, thái độ.
Bước sang nền triết học nêu cao ý thức thì
Kant đã bỏ mười phạm trù của Aristote mà đưa ra mười hai phạm trù mới. Theo
Kant thì chủ quyền phán đoán không thuộc về thiên nhiên, nhưng thuộc về trí
năng của ta. Vạn vật xuất hiện theo những thể thức phán đoán của ta. Từ đó cho
ta thấy Kant đã đi vào lãnh vực duy tâm. Nhất thể tính, thực thể tính và khả hữu
tính…vì Kant chỉ chú trọng đến tính chất phán đoán của trí năng, chính nhờ phán
đoán làm nên bộ mặt phạm trù.
Thuyết hiện sinh hoàn toàn xóa bỏ phạm trù
của Aristote lẫn của Kant. Duy vật hay duy tâm đều không phản ánh đúng sự thật.
Thuyết hiện sinh chối bỏ cả duy tâm lẫn duy vật, chủ trương con người không phải
là một sự vật của vũ trụ, cũng không phải là một tư duy đứng ngoài vũ trụ. Thuyết
hiện sinh không xem con người là một thành phần của vũ trụ, mà con người là chủ
thể duy nhất có ý thức về mình. Chỉ có con người tại thế không có con người nội
tại như thuyết duy tâm[4].
Tuy nhiên, thuyết cổ điển thì có phạm trù
của thuyết cổ điển, thuyết hiện sinh thì có phạm trù của thuyết hiện sinh, thuyết
hiện sinh thì sẽ chú trọng đến những gì là hiện sinh thôi.
2. Các nhà hiện
sinh nhìn các tu sĩ thế nào?
Từ những phác họa trên cho ta một góc nhìn
cố định, khi đứng về phía hiện sinh để nhìn một tu sĩ trẻ ngày nay. Hiện sinh vừa
là kinh nghiệm sống cụ thể của con người, do chính con người tạo trong thời
gian vừa là kết quả của kinh nghiệm sáng tạo. Hiện sinh cũng là một kiếp sống của
một con người hay của một “giống người” có ý thức về nguyên thủy, nền tảng và ý
nghĩa của kiếp sống ấy, tự nguyện chấp thuận thể hiện kiếp sống ấy theo ý mình.
Nói tóm lại, hiện sinh là một động tác tự khẳng định của “hữu ngã” cá nhân
trong vũ trụ. Như vậy, hiện sinh là một lập trường hay thái độ sống của kẻ sinh
ra để làm người, hoặc muốn làm người, lập trường ấy không có nền tảng hoặc giải
thích nào khác hơn là chính sự tự khẳng định bản ngã mình. Thuyết hiện sinh gồm
tất cả những học thuyết mà các triết lý nhằm phân tách và mô tả sự hiện sinh cụ
thể hiểu theo nghĩa ấy[5].
Từ đó, hai định hướng của thuyết hiện sinh
được vạch ra một cách rõ rệt. Một định hướng đưa đến kết luận đời người là vô
nghĩa, phi lý, buồn nôn, (Sartre). Hướng khác thì chủ xướng phi lý, vô nghĩa là
dấu hiệu của những gì Siêu Việt. Tuy không đạt đến được bằng lý trí một cách trực
tiếp, nhưng có thể thực nghiệm hay suy diễn (Jaspers). Do đó, đời nếu là đáng sống
thì không phải do ý muốn không lối rẽ của tự do, mà do ý chí muốn trả lời cho
tiếng gọi của một giá trị Siêu Việt.
Tu sĩ cũng là một con người, cũng là một
kiếp sống như muôn người, cũng được sinh ra dưới ánh sáng mặt trời, thì phải chịu
đau khổ, chịu sa ngã, chịu sinh, chịu tử… song tu sĩ không dừng lại ở đó mà chịu
chấp nhận cái khổ, cái thất vọng của mình như Sartre mà họ dám chấp nhận cái khổ
đó, để cái khổ đó không còn là cái khổ nữa, tức là đi vào trong cái khổ. Nói
như vậy có thể hiểu nghĩa của Phật giáo. Nhưng suy cho cùng thì đây cũng là một
hướng sống cho những người có tinh thần lạc quan, chưa nói đến là tu sĩ Kitô
giáo.
Bởi thế, ta phải tìm hiểu các nhà hiện
sinh vô thần họ xem đời là phi lý (Sartre), không có một Thiên Chúa, vì nếu có
Thiên Chúa thì sẽ làm mất tự do của họ[6]. Họ
xây dựng một Thiên Chúa từ một con người, tức là siêu nhân (Nietzsche). Liệu
nhóm hiện sinh vô thần này họ sẽ nhìn tu sĩ trẻ như thế nào? Trái lại, nhóm hiện
sinh hữu thần họ chỉ chấp nhận hiện sinh khi qua Siêu Việt. Nếu không có Siêu
Việt thì không có hiện sinh. Nhóm này họ sẽ quan niệm tu sĩ ra sao?
a. Hiện sinh vô thần xem ngươi tu sĩ là ai?
Khi nghe hai chữ “vô thần” thì đã nhận biết
một điều chắc chắn là không có thiện cảm với các tu sĩ, vì vô thần là không chấp
nhận có thần thánh. Họ không chấp nhận một Đấng Siêu Việt mà chỉ vật chất làm
nên mọi sự, chỉ có vật chất là tồn tại. Có thể nói từ vô thần đến thực dụng
không xa bao nhiêu, xem vật chất đời này là cao quý. Thế mà các tu sĩ lại đi
theo đuổi một Đấng Siêu Việt, từ bỏ tất cả cái lợi của đời này hầu để có khả
năng giúp đời. Cho nên hiện sinh vô thần coi các tu sĩ là vong thân, kẻ thù của
tự do.
Vì khuynh hướng vô thần cho rằng: ngay cả
con người cũng không thể gặp gỡ với người khác mà không biến chất. Chẳng hạn
như Nietzsche cho rằng: người đàn ông và
người đàn bà không thể yêu nhau thực được, vì mỗi người đến với tình yêu bằng mục
đích khác nhau, ông nói: “Tất cả bí mật của
người đàn bà là sinh đẻ, với họ thì đàn ông cũng chỉ là phương tiện, cái
chủ đích của họ là đứa con. Còn người đàn ông thì yêu thích người đàn bà vì hai
món là chơi đùa và nguy hiểm. Vì thế đàn ông yêu thích đàn bà vì đàn bà là đồ
chơi nguy hiểm nhất trên đời”. Cùng với ý tưởng đó, Jean Paul Sartre thì cho rằng:
“Tha nhân là hoảng ngục”. Khi hai người gặp nhau thì luôn có một người bị biến
thành đối tượng. Vì khi ta trở thành đối tượng cho người khác thì ta không còn
sống tự do hoàn toàn như ta là ta nữa. Sartre nói: “Tình yêu là một dự phóng,
cho nên nó nhất định gây lên tranh chấp, người được yêu nhìn nhận người yêu như
một ‘tha thể’, tức là như một sự vật của vũ trụ cho mình sử dụng”. Chúng ta
không thể thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn dẫn ta từ thế đứng nhìn bị đẩy sang
thế bị nhìn và ngược lại[7].
Từ đó cho ta thấy thuyết hiện sinh vô thần
đã cắt đứt tương quan con người với nhau thì họ cũng cắt đứt luôn tương quan giữa
con người với Đấng Siêu Việt. Như Nietzsche đã khẳng định: “ Thiên Chúa đã chết,
con người cần phải làm đám tang Thượng đế để mình có thể sống như một siêu
nhân”. Còn Sartre thì cho rằng: “nếu có Thượng đế thì con người trở thành một
cái gì đã cố định theo ý muốn của Ngài”. Điều này theo Sartre thì không hợp với
con người là tự do, con người không phải chịu trách nhiệm trước một Thiên Chúa
nào hết.
- Vài nét về Nietzsche
Lối suy nghĩ vô thần của Nietzsche có nhiều
người hiểu khác nhau. Có người xem Nietzsche như là kẻ phá hoại đời sống luân
lý con người, là “người chứng” cho những gì ghê tởm nhất của một con người mà
con người có thể đạt tới. Nhiều người coi Nietzsche như là nhà tiên tri vô độ
luôn tha thiết với hạnh phúc của nhân loại[8].
Có lẽ cuộc đời của Nietzsche có cả hai điều
đó. Ông chính là kẻ phá hoại, phá hoại chính cuộc đời của ông, phá hoại cuộc sống
nhân loại, đồng thời cũng làm cho cuộc đời của ông nên bi tráng, cũng như làm lực
đẩy cho cuộc sống nhân sinh cất bước đi lên. Học thuyết của Nietzsche là một phản
ánh khá trung thực về cuộc sống và cuộc đời. Hào hùng và bi thảm, tinh tế và giả
tạo, khinh ghét và yêu mến, mạnh mẽ và yếu nhược, tất cả những điều trái nghịch
được pha trộn với nhau trong hiện tượng của Nietzsche, để tạo nên một thứ cay,
một thứ đắng làm cho con người phải xuýt xoa lau nước mắt, nhưng cũng là cay đắng
làm cho người ta nghiện ngập say sưa, vì mùi vị quyến rũ riêng của nó. Thật khó
có thể đánh giá được một triết thuyết như Nietzsche. Nhưng qua triết thuyết này
không khỏi cảm thương cho thân phận con người. có lẽ cuộc đời của ông cũng là một
bi kịch Hy Lạp như chính ông đã hết lời đề cao. Ta không dễ đánh giá triết thuyết
Nietzsche cho bằng chiêm ngắm nơi đây tấm bi kịch của cuộc sống con người và
loài ngôn sứ cho chính thân phận làm người. Đối với thuyết này thì con người là
một cái gì phải vượt qua, nói cách khác là chủ nghĩa của con người luôn đi lên,
rất tiếc sự đi lên của Nietzsche là chỉ đạt đến người hùng mà không tìm đến
Siêu Việt. Cho nên thực hiện cuộc đi lên này, Nietzsche cần phải dọn một con đường
mới bằng cách phá đổ tất cả. “Phải triết lý với cái búa để đập hết những thần
tượng, những giá trị củ”, triết thuyết này là đảo lộn các giá trị, dựa trên ý
chí hùng cường. Ông xem có bốn loại giá trị cần phải đập phá: giá trị tôn giáo,
giá trị các triết thuyết, giá trị luân lý, giá trị dân chủ xã hội. chinh
Nietzsche đã viết: “tôi ghét tởm Ki tô giáo đến chết được”…” tôi xem ki tô giáo
là sự quyến rũ tai hại nhất”[9] .
Triết thuyết của Nietzsche là như vậy
nhưng các tu sĩ trẻ biện phân triết thuyết hiện này thế nào? Chắc chắn ta cũng
học được nhiều điều nơi ông, đặc biệt trong xã hội phức tạp như hiện nay thì
các tu sĩ trẻ cũng phải có triết lý sống với “cái búa” để chặt nhưng không chặt phá hết như Nietzsche, mà phải biết
cái gì cần “chặt”, cái gì vun xới tưới chăm.
- Vài nét về triết thuyết vô thần của Sartre
Jean Paul Sartre là một triết giá rất có ảnh
hưởng đến tuổi thanh thiếu niên của một thời. Song, triết thuyết của ông xem ra
rất tiêu cực, vì ông đã xem mọi sự là phi lý. Trần Thái Đỉnh trong cuốn “triết
học hiện sinh” đã mở đề cho cuốn triết học của Sartre là “hiện sinh phi lý”. Thật
sự đến hôm nay khi nói đến hai chữ hiện sinh thì người ta nghĩ ngay đến Sartre.
Triết thuyết của ông luôn xoay quanh vấn đề trọng đại nhất của con người: ý
nghĩa cuộc nhân sinh, ý nghĩa ái tình, ý nghĩa giao tiếp giữa tôi và tha nhân,
ý nghĩa tôn giáo, nhưng với ông kết lại vẩn là phi lý.
Với Sartre thì ý niệm về Thiên Chúa hoàn
toàn mâu thuẫn, trong tác phẩm “hữu thể và
vô thể”, Sartre chỉ dùng một trang nói về Thiên Chúa[10].
Vấn đề cần chú ý là vấn đề về tự do tuyệt
đối của con người và sự hiện hữu của Thiên Chúa. Theo Jean Paul Sartre thì nếu
có Thiên Chúa thì con người sẽ đánh mất sự tự do, tức là mất nhân phẩm, cho nên
không thể có Thiên Chúa được. Ông quá đề cao sự tự do một thứ tự do sáng tạo bất
chấp thân phận cụ thể của con người, cho nên con người gặp phải thất bại thì
không thể tránh được, “con người là một điều vô dụng bất thành”. Còn khi nói về
tha nhân thì ông tuyên bố: “ tha nhân là hoảng ngục” cho nên giữa tôi và người
khác không có sự thông cảm và đối thoại. Thực ra kinh nghiệm cho ta thấy, con
người có thể chung sống và đối thoại. Cuối cùng là ông phủ nhận mọi thứ luân
lý, phủ nhân Thiên Chúa, đề cao tự do, thứ tự do muốn làm gì thì làm, miễn là bảo
vệ được tự do thì thôi. Chính đại văn hào Nga Dostoievsky đã viết: “Nếu không
có Thiên Chúa thì mọi sự đều được phép làm”. Nói cho cùng thì trong triết thuyết
của Jean Paul Sartre cũng chứa đựng rất nhiều tích cực, chẳng hạn như đề cao sự
tự do của con người.
Tu sĩ trẻ ngày nay có ảnh hưởng rất nhiều
triết thuyết của Jean Paul Sartre. Cùng với tuổi trẻ của xã hội hôm nay, tu sĩ
trẻ cũng thích được tự do, tự do theo ý riêng mình, tự do muốn làm gì thì làm.
Có một số người đang hiểu lầm tu sĩ trẻ ngày nay, họ tưởng tu sĩ là kẻ chán đời
nên bỏ đi tu, xem cuộc đời là vô nghĩa, cảm thấy cuộc đời phũ phàng cho nên đi
tu quách cho rồi. Nếu hôm nay Jean Paul Sartre còn sống, ông nhìn vào giới tu
sĩ trẻ thì ông sẽ đánh giá thế nào? Ông có dám nói lên quan niệm như Marx
không? “Tôn giáo là sự vong thân của xã hội”. Chắc chắn quan niệm vô thần không
chấp nhận có Thiên Chúa thì Jean Paul Sartre rất xem thường đời tu, ông sẽ cho
đời tu là phi lý.
b. Hiện sinh hữu thần nhìn người tu sĩ là ai?
Nếu thuyết hiện sinh vô thần như Nietzsche hay
Jean Paul Sartre đã cắt đứt tương quan con người với nhau, và cắt đứt tương
quan con người với Thiên Chúa, thì trong khi đó Kierkegaard cho rằng hiện sinh
đích thực và cao cả nhất là hiện sinh trước Siêu Việt. Con người hiện sinh phải
vượt qua từng giai đoạn: “hiếu mỹ”, đến “đạo đức”, để đạt đến giai đoạn tôn
giáo. Còn Jaspers thì nói rằng: con người cần phải thực hiện được những bước nhảy,
nhảy từ chỗ làm sự vật đến làm người tự do, rồi nhảy từ tự do của con người để
vượt tới Thiên Chúa. Ông nói: “Tôi không thể là tôi nếu không có Siêu Việt
tính, Siêu Việt tính chính là thước đo chiều sâu thẳm của hiện sinh tôi”.[11]
Hiện sinh hữu thần tin nhận có Đấng Siêu
Việt cho nên tương quan giữa con người với con người cũng rất lạc quan, không
như Sartre xem tha nhân là hoảng ngục. Hiện sinh hữu thần xem tha nhân như một
yếu tố để tôi trở nên phong phú, trở nên chính con người thật của tôi. Chính vì vậy mà Gabriel Marcel gọi người
khác là một “tha ngã”, nghĩa là vừa là tôi “ngã”, vừa là người khác “tha”. Cái
“tôi” chỉ triển nở trọn vẹn trong cái “chúng ta” mà thôi. Gabriel Marcel khẳng
định mức thăng tiến cao nhất của hiện sinh là khi ta thể hiện đạt tới cái “chúng
ta”, không do miễn cưỡng nhưng do đồng tình.
Đời tu nói chung và tu sĩ trẻ nói riêng
đang trên đường tìm tòi và phấn đấu để sống cái “chúng ta” đồng tình. Nhưng con người luôn mang thân phận yếu
đuối và hạn chế, cho nên sự miễn cưỡng
trong cái “chúng ta” của cuộc sống cũng không thiếu[12].
Ta khoan nhận định chặt
ních về thuyết hiện sinh, vì trong hiện sinh không chỉ khác biệt giữa hiện sinh
vô thần và hữu thần mà ngay trong nhóm hiện sinh hữu thần cũng có nhiều nét
khác nhau, tuy nhiên không chênh lệch xa vời lắm, nhưng cũng đáng làm cho ta
chú ý. Bỡi lẽ ta đi tìm hiểu một số nhà hiện sinh hữu thần tiêu biểu xem sao?
- Soren Kierkegaard
Soren Kierkegaard xem hiện hữu của con người
là một hiện hữu luôn dang dở, song sự dang dở ấy không làm ta thất vọng, mà
kích thích tinh thần sáng tạo của ta. Bởi thế chặng đường hiện sinh của những
người có sự sáng tạo được phân làm ba giai đoạn.
Thứ nhất: giai đoạn hiếu cảm (Stade
esthtique)
Thứ hai: giai đoạn đức lý (Stade ethique)
Thứ ba: giai đoạn tôn giáo (Stade religieux)[13].
Phạm vi bài viết này chỉ tìm hiểu về thuyết
hiện sinh ảnh hưởng trên người tu sĩ Kitô giáo, và đặc biệt là tu sĩ trẻ. Cho
nên xin dừng lại tìm hiểu giai đoạn thứ ba là giai đoạn về tôn giáo. Tuy nhiên
để có được giai đoạn tôn giáo thì phải có hai giai đoạn trước là hiếu cảm và lý
đức. Trong cuốn sách của Kierkegaard được xem là giá trị nhất “kinh hãi và run
sợ”, ông đưa hình ảnh cụ Abraham làm nhân vật chính cho cuốn sách, cho thấy cái
gì vượt lên trên tầm luân lý duy nhiên. Tóm lại, những hành vi siêu phàm của
con người đều vượt qua phạm vi luân lý. Cho nên nếu không có Thượng Đế thì con
người sẽ không có lối thoát, nếu không có Siêu Việt thì không có hướng cho con
người “vươn lên”[14].
Kierkegaard được mang
danh là ông tổ của hiện sinh, không hề có lý luận suông mà ông khởi sự từ một sự
kiện cụ thể. Ông đã xây dựng triết thuyết của ông trên sự kiện cuộc đời
Abraham. Tin yêu Thiên Chúa để trọn niềm trung thành với Thiên Chúa mà đã giết
con một của mình là Isaac, đúng lẽ giết con là tội ghê gớm bậc nhất, nhưng
Abraham đã làm điều đó, chính là tôn giáo vượt lên trên luân lý. Thế nhưng Sách
Thánh đã khẳng định “Abraham là cha của những kẻ tin”, ai ai cũng ca tụng
Abraham là vị đại thánh.[15]
Tin và yêu là tóm gọn tất cả sinh hoạt tôn
giáo, cũng chính trong niềm tin yêu này mà con người vượt lên trên tất cả để tới
chổ kết hợp với Thiên Chúa, Đấng Tuyệt Đối.
Triết thuyết của Kierkegaard đã mô tả cái
nhìn toàn diện của con người lãng tử, con người đúng đắn, con người của niềm
tin. Ông đã đưa ra ba giai đoạn như ba cấp bậc để vươn lên, “vươn lên” không ngừng
và kết điểm của sự vươn lên ấy là Thiên Chúa.
Cuộc sống hiện sinh của tu sĩ trẻ ngày nay
có lẽ phần nào mang nặng hiện sinh của Kierkegaard khi nhìn vào ba giai đoạn
triết thuyết của ông. Đời tu của tuổi trẻ ngày nay cũng được xem như ba giai đoạn
để vươn lên và chót đỉnh phải là Đức Kitô. Có thể nói người mới bước vào đời tu
là giai đoạn hiếu cảm, đang còn lông bông chạy theo sở thích, chạy theo những
thần tượng, mà chưa xác định được cuộc sống bản thân. Đến giai đoạn đức lý,
giai đoạn này chấp nhận cuộc sống đều đặn mà mình đã chọn, sống nghiêng về bổn
phận. Đã có ý thức về đời tu nhưng tuổi còn quá trẻ, chưa nhận định được, cho
nên đang còn nhiều bế tắc. Tuy nhiên giai đoạn này tu sĩ trẻ bị tách đôi, nửa ý
riêng mình nửa niềm tin thúc giục. Bởi vậy đời
tu giai đoạn này rất quan trọng. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn tôn giáo,
cũng là giai đoạn cuối cùng của sự vươn lên. Giai đoạn này tu sĩ đã đứng tuổi,
đây là lúc họ sống hoàn toàn phó thác hoàn toàn vào bàn tay của Thiên Chúa, có
thể nói giai đoạn này mới thực sự là một tu sĩ. Mọi cử chỉ mọi sinh hoạt đều
như thấm đậm trong tính siêu phàm. Giai đoạn này
mọi sinh hoạt của tu sĩ không mang tính chất lý trí nhiều nữa mà thấm đậm niềm
tin, niềm tin yêu phó thác, như để mặc Thiên Chúa hướng dẫn đời mình.
Trong cuốn “Kinh hãi và run sợ”
Kierkegaard đã đưa hình ảnh cụ Abraham lên làm nòng cốt cho ý tưởng của ông.
Abraham đã tin ngay khi tuyệt vọng nhất, tin cả những điều trái với luân lý,
tin cả những điều trái với luật đạo đức, chỉ vì tình yêu Thiên Chúa.
Chính mẫu gương của Abraham đã đánh động
tu sĩ trẻ ngày nay, cũng bao khát vọng trào dâng, thế mà họ đã chấp nhận từ bỏ
tất cả. Vì sao mà họ dám từ bỏ tất cả như vậy? Đó chẳng phải là một Abraham trong cuốn “kinh hãi và run sợ” hay sao? Một
Abraham dám hiến tế con đẻ của mình, con đẻ của mình là gì nếu không phải
là ý riêng mình, là bao nhiêu phồn hoa xã hội. Chắc chắn chỉ có niềm tin mới đủ
mạnh để họ vào con đường dấn thân. Xét theo lẽ thường thì trai lớn lên cưới vợ,
gái lớn lấy chồng, thế mà tu sĩ đã bỏ khỏi quy luật đó để dấn thân vào một cuộc
phiêu lưu, để tranh đấu cho tình yêu đại đồng. Có lẽ tu sĩ trẻ ngày nay đang sống
trong giai đoạn mà Abraham dẫn Isaac lên đường sát tế. Nào là đau xót, nuối tiếc,
thương yêu, nhưng đành phải nhìn về phía trước, phải nghĩ đến lời hứa mà Thiên
Chúa đã hứa với mình là ban cho dòng dõi đông như sao trời cát biển, hầu để dám
đi hết con đường mình đã chọn.
- Gabriel Marcel
Gabriel Marcel được mệnh danh là nhà hiện
sinh huyền nhiệm, vì huyền nhiệm bao trùm tất cả những gì mà ông muốn dùng đầu
óc thông minh của ông để truy tầm. Huyền nhiệm về tôi, huyền nhiệm về anh, huyền
nhiệm về vũ trụ, huyền nhiệm của Thượng đế. Song, theo ý tưởng của Gabriel
Marcel, thì huyền nhiệm ở đây không có tính chất tôn giáo nhưng lại có tính chất
triết học. Nói tóm lại là tất cả những gì không thể xác định và không khách thể
hóa được, thì đều là huyền nhiệm. Như vậy với Gabriel Marcel huyền nhiệm không
phải là một tri thức hay một suy tưởng.
Chủ trương của
Gabriel Marcel hiện sinh là hiện hữu, và từ hiện hữu đã đặt con người lên tự do
chân chính và đích thực. Hiện hữu cũng là chỗ dẫn con người đến gặp nhau trong
niềm tin và kính yêu nhân vị. Cuối cùng hiện hữu đã giúp con người khám phá ra
bản tính đích thực của tình yêu. Nhưng từ chặng đường của tự do, con người đã gặp
thấy Thượng đế, vì tự do là cộng tác với ý Trời để con người đạt tới mức toàn
thiện toàn mỹ, chúng ta sẽ gặp Thượng đế trong huyền nhiệm của tình yêu.[16]
Một tác giả nghiên cứu
về thuyết hiện sinh của Gabriel Marcel đã nói: “Tất cả tác phẩm của
Gabriel Marcel cũng như chính cuộc đời của ông, tựu trung chỉ là một cuộc lần lần
đề khám phá Thượng đế” (Troisfontaines). Có lẽ lời này đúng đắn, vì mỗi tư tưởng
của Gabriel Marcel như một mũi tên bắn về phía hữu thể , ông luôn tránh sở hữu,
phù phiếm, sa lầy. Cho nên Gabriel Marcel không chỉ gia nhập Công giáo mà các
tác phẩm của ông viết trước khi tòng giáo vẫn không cần đính chính. Theo
Ricoeur thì Gabriel Marcel đã gặp được Thượng đế ở hai lãnh vực, tức là huyền
nhiệm của hữu thể và huyền nhiệm của tình yêu, cho nên niềm tin vào Thiên Chúa
của Gabriel Marcel rất chắc chắn. Chính ông đã thốt lên trong cuốn nhật ký ghi
ngày 23-3-1929:
Tôi lãnh bí
tích Rửa tội hồi mai này trong bầu khí nội tâm hết sức mong đợi của tôi, không
bồng bột nhưng với tâm tình bình an thăng bằng, niềm cậy trông tin tưởng… tôi
muốn choáng váng vì cảm thấy gần Chúa.[17]
Trong cuốn “Tha nhân
và huyền nhiệm”, Gabriel Marcel đã tự đặt câu hỏi: đức tin là gì?
Để tự tìm ra đáp án cho chính mình. Tin đối với Gabriel Marcel không phải là
tin sự gì? Mà là tin vào ai? Đức tin là cam kết toàn thân với Thiên Chúa. Hành
vi đức tin hướng đến một Đấng Siêu Việt. Thiên Chúa hiện diện và con người đến
kêu cầu Ngài. Thiên Chúa hiện diện với tư cách Chủ Thể Tuyệt Đối chứ không phải
như một đối tượng. Vì Thiên Chúa không phải là một đối tượng nên phán đoán về
Ngài đều vô giá trị, khi nói tới Thiên Chúa những tư tưởng chúng ta không đạt tới
Thiên Chúa, vì phải qua tư tưởng của phàm nhân. Nên với Gabriel Marcel thì thần học hiện sinh chỉ là thần học tiêu
cực mà thôi. Với tín hữu thì đức tin là một sự
tự hiến cho Thiên Chúa. Nhưng sự dấn thân vẫn còn thiếu sót, vì chúng ta không
hoàn toàn làm chủ tương lai và hiện tại để trung thành với Thiên Chúa, nên với
tín hữu thì tin là kêu cầu, mong đợi Thiên Chúa nâng đỡ sự yếu hèn của chúng
ta. Lời kêu cầu không được đòi hỏi Thiên Chúa đáp ứng, nếu Chúa đáp ứng thì chỉ
là ân huệ của Ngài ban cho mà thôi.
Phải chăng Gabriel
Marcel là người của tôn giáo trước khi tòng giáo, vì tư tưởng của ông nghiêng hẳn
về Công giáo? Đúng như ông đã nói: “Đức tin không phải là một kiến thức như những
kiến thức khác, mà tin còn đòi hỏi sự dấn thân và được thể hiện trong cuộc sống
hàng ngày.”
Trong Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II kêu gọi người
tu sĩ phải luôn chiêm niệm và cầu nguyện trong sự hoạt động tông đồ[18].
Chính Thánh Giacôbê khẳng định đức tin không việc làm là đức tin chết. Đây là
những tư tưởng trùng lặp triết thuyết của Gabriel Marcel khi ông nói về đức
tin.
Tu sĩ trẻ ngày nay phải là những chiến sĩ
đức tin, bươn chải giữa một xã hội đang bị tục hóa, vậy phải làm gì khi sống một
cuộc sống hiện sinh giữa đời? Theo tư tưởng của Gabriel Marcel, ta nhận ra tất
cả là huyền nhiệm. Chính tôi là huyền nhiệm cho nên tôi phải kính trọng bản
thân tôi, hơn nữa vì tôi là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Tha nhân là huyền nhiệm,
tu sĩ trẻ phải có khả năng nhìn được huyền nhiệm nơi người khác thì mới có khả
năng phục vụ, và tôn trọng người khác như chính mình. Thượng đế là huyền nhiệm,
tu sĩ phải đặc biệt quan tâm đến đời sống nội tâm, biết nhận ra huyền nhiệm nơi
Đấng mình tôn thờ và yêu mến.
- Karl Jaspers
Triết thuyết của Karl Jaspers được nhìn nhận
dưới góc độ ba hữu thể: hữu thể vật thể, hữu thể bản ngã, hữu thể Siêu Việt thể.
Hữu thể vật thể theo ông chính là đối tượng của khoa học, hiện
sinh của ông muốn bổ khuyết cho khoa học bằng cách tìm mối quan hệ giữa vũ trụ
vật lý và cuộc sống con người. Karl Jaspers đưa ra hai ý tường: vũ trụ nơi bao
quanh con người, vũ trụ nơi con người hoạt động[19].
Hữu
thể bản ngã, với con người
cũng có hai thứ đó là hiện sinh và sinh tồn. Hiện sinh là nhân vị có tự do và tự
chủ, gọi là hữu thể bản ngã, nhưng ít người đạt tới mức hiện sinh nhân vị này.
Mà từ cấp sự vật đến cấp hiện sinh phải có một “cú nhảy” một sự vượt bậc. Cho
nên một số được sinh làm người nhưng chưa phải là người hiện sinh vì họ đang sống
trong vô ý thức, họ chỉ là đơn vị người nhưng chưa phải là nhân vị tự do. Nếu
nhân vị tự do thì ý thức về quyền tự do của mình, cũng ý thức sâu xa quyền làm
người của mình.[20]
Phần cuối cùng của tư tưởng Karl Jaspers
là đối tượng Siêu Việt, đây chính là cùng đích và đỉnh cao của hiện sinh. Thuyết hiện sinh của Karl Jaspers
hướng đến Siêu Việt như là hướng đến cùng đích của nó, chính đây là lãnh vực
tinh thần của hiện sinh. “Cái nhảy” thứ nhất nhảy từ vật chất lên tinh thần,
“cái nhảy” thứ hai là cái nhảy từ con người vào lãnh vực Siêu Việt[21].
Mỗi triết thuyết là một hướng sống cho
thân phận làm người và chính Karl Jaspers cũng vậy, ông cũng có một chiều hướng
suy nghĩ về con người được sinh ra, sống thế nào, và đi về đâu. Cho nên ông đã
đưa ra ba bậc từ thấp lên cao, bậc thấp nhất của con người là con vật bậc cao,
cao nhất là con người hướng đến Siêu Việt và liên kết với Siêu Việt. Để đi từ bậc
thứ nhất đến bậc thứ ba, Karl Jaspers nói phải dùng những “cái nhảy” có lẽ “cái
nhảy” đó như là những lần lột xác của bản thân.
Người ta thường quan
niệm “tu” là “sửa”. Đúng vậy, con người chúng ta vốn là thiện (Mạnh tử), nhưng
từ khi có tội nguyên tổ thì sự hư hỏng thâm nhập vào con người, cho nên đời tu
được xem là “đại tu lại” thành con người mới để càng ngày càng giống Đức Giêsu
hơn. Quá trình đại tu đó như thế nào? Chính Karl Jaspers đã chỉ cho ta dùng những
“cái nhảy”, dùng sự vươn lên, để làm nên con người hiện sinh. Đối tương của hiện
sinh theo Karl Jaspers là nhân vị tự do và tự chủ. Tu sĩ trẻ ngày nay phải phấn
đấu để đạt đến nhân vị tự do và tự chủ, tự nhiệm. Vì khi tự do mới ý thức được
quyền tự do của mình, ý thức về trách nhiệm làm người, tự quyết đình cho con
người của mình, không sống vì dư luận. Chắc hẳn ý tưởng này làm cho tu sĩ trẻ
ngày nay cần phải áp dụng làm hành trang sống. Ngày nay, người tu sĩ trẻ đang bị
ảnh hưởng dư luận, bị áp lực bên ngoài nhiều, chẳng hạn gia đình, họ hàng, dòng
tộc… nhiều khi đi tu không phải vì mình muốn, vì sự quyết định của mình, mà vì
cha mẹ hay một ai đó quyết định thay, rồi mình nhắm mắt chay theo. Để cha mẹ được
trở thành ông bà cố, anh em mình trở thành anh cố, em cố, chị cố… để dòng họ rạng
rỡ; có bao nhiêu người đi tu, có mấy ông cha, có mấy ông thầy, có mấy ma sơ…
Khi bị dư luận, bị cộng đoàn làm chủ như vậy thì đời tu không còn là hiện sinh
nữa, vì đã đánh mất tự do nhân vị.
Tiếp đến là sự vươn
lên của tu sĩ trẻ ngày nay. Nếu trong cuộc sống mà tu sĩ không có những “cái nhảy”
thì cuộc đời thật là phi lý. Bởi vậy, một tu sĩ hiện sinh là tu sĩ luôn có sự
“vươn lên”, không bao giờ được phép dậm chân tại chỗ. Tuy nhiên phải vươn lên
trong niềm tin, cậy, mến, vươn lên trong sự nâng đỡ của ơn Thiên Chúa, để có
liên kết với Đấng Siêu Việt là chóp đỉnh của hiện sinh.
3. Các thực tại hiện sinh nơi tu sĩ trẻ ngày nay
Tu sĩ cũng là con người,
tham, sân, si như bao người khác, cũng có yếu đuối, có sa ngã, chính đó cũng là
cuộc sống hiện sinh. Đúng vậy, sự vấp ngã trên đường đời không lạ lẫm gì, có lạ
lẫm chăng là khi bị vấp ngã mà không biết tự vực dậy để đứng vững chắc hơn. Từ
đó, hiện sinh nơi người tu sĩ trẻ ngày nay cũng có hai hướng: tiêu cực và tích
cực.
a. Thực tại hiện sinh tiêu cực
nơi tu sĩ trẻ
Muốn hiểu rõ về thuyết
hiện sinh ảnh hưởng trên người tu sĩ trẻ thế nào thì ta phải giựa vào các phạm
trù. Với thực tại tiêu cực ta đi tìm hiểu hai khía cạnh chính: “buồn nôn” và
“phóng thể”.
- Buồn nôn
Danh từ buồn nôn là
chủ đề của một cuốn sách của Sartre, danh từ này chỉ sự vô lý, vô nghĩa của cuộc
đời vô lý tưởng và vô ý thức. Buồn nôn là cách sống của những người chưa biết
vươn lên, chỉ sống lo ăn, lo mặc, lo cho mình đủ các tiện nghi.[22] Sartre đã diễn
tả cuộc sống: “Thôi tôi cứ làm như nàng An-ny là xong, ăn ngủ, ăn ngủ, sống từ
từ, êm êm như cây kia vũng nước nầy…. Cuộc sống này như thừa ra, vì chính tôi
không biết sống để làm chi cả”. Ông gọi đó chỉ là hiện hữu chưa phải là hiện
sinh, vì con người chưa ý thức về nhân vị mình, chưa ý thức về định mệnh của
mình, thì không hơn gì một cục đá hay một thú vật. Đó chỉ là những cá vị người,
những con số người mà ta đã đếm, như khi làm sổ thống kê. Heidegger gọi tình trạng
đó là “người ta” vô danh vô vị. Còn Camus không nói đến buồn nôn mà nói đến phi
lý. Cùng phát sinh từ nguồn đó, ông ý thức về cái trơ trơ vô vị của cuộc đời.
Cuộc sống một ngày như mỗi ngày, sáng, trưa, chiều, tối, xoay vần theo tháng
năm, con người thì cứ làm những việc cố định.[23]
Thực tại i tu sĩ trẻ
ngày nay, không thiếu cảnh buồn nôn và phi lý theo hướng của Sartre và Camus.
Nhìn vào tình trạng ơn gọi tu trì ở Việt Nam chúng ta hiện nay, không thiếu có
người đi tu theo phong trào, cho nên khi gặp chuyện không như ý mình, không được
tín nhiệm, thế là kéo lê một cuộc đời; tuy
không làm gì lỗi luật, nhưng cũng chẳng có gì là vươn lên trong đường
nhân đức.
Đời tu cũng nhiều khi
trở thành phi lý, khi mà mỗi ngay đều sinh hoạt giống nhau, bởi thế dễ đưa con
người đến chỗ buông theo như hòn đá trơ trơ vô hồn. Chắc hẳn tình trạng buồn
nôn này không thiếu nơi tu sĩ của xã hội hôm nay.
- Phóng thể
Phóng thể được hiểu
là hóa thành cái khác, thành người khác, nên phóng thể là tình trạng của những
con người chưa ý thức mình là nhân vị độc đáo. Người phóng thể hành động như mọi
người, và hành động chỉ vì người ta nhìn mình, hoặc người ta bảo mình, hay nghĩ
mình phải làm như thế. Các nhà hiện sinh chống lại gắt gao lối sống phóng thể.
Phóng thể là một bản ngã của con người, sống buông theo như động vật, như cây cỏ.
Có hai hình thức
phóng thể: phóng thể duy tâm và phóng thể duy vật.
Phóng thể duy tâm: phát sinh do sự suy
tôn một thứ đạo đức giả tạo, đạo đức mơ mộng và ảo tưởng, đầy ích kỷ và lười biếng.
Sỡ dĩ gọi phóng thể này là “phóng thể duy tâm” vì chỉ tưởng tượng và mơ ước, chứ
không bao giờ dám ra tay và hành động. Tại
sao gọi những người duy tâm này là phóng thể? Thưa vì không ý thức về vai trò lịch
sử của mình, họ không biết lấy điều kiện sinh hoạt hàng ngày làm “đà tiến” cho
bản thân, mà hoàn toàn thụ động, thả mình tin theo những mẫu người lý tưởng của
sách vở phác họa ra. Thay vì khai triển giá trị thực tại thì họ lại lẩn trốn,
nương mình trong mơ ước viển vông.
Phóng thể duy vật: đồng hóa con người
với cơ năng hoạt động. Con người hoạt động vô ý thức như một cái máy, lúc này
con người không phải là tại thế nữa, mà còn tại xã hội, con người lúc này trở
thành đơn vị của tập đoàn. Tuy nhiên như Mounier đã nói: “Sống tập đoàn là một
bước tiến của tinh thần, nhưng bước tiến sẽ chấm hết khi hết sáng kiến và tự chủ,
thành thử họ chỉ là những cái xác, còn hồn ở nơi, nhóm, đảng, giới…”[24]. Đó chính là bộ mặt của phóng thể, hai bộ
mặt tổng quát, trong thực tế thì phóng thể mặc nhiều hình thức khác nhau, nhưng
chung quy đều có một hậu quả khốc hại cho con người. Phóng thể làm cho con người
sống yên hàn trong tình trạng sự vật, sự vật của gia đình, sự vật của nhóm đảng,
của toàn thể, của tôn giáo an nhàn. Phóng thể là tội nguyên tổ, là căn nguyên của
cuộc sống tầm thường và buồn nôn.
Lối sống của tu sĩ trẻ ngày nay có “phóng
thể” hay không? Ta cứ xem họ đang sống và sinh hoạt thế nào giữa cộng đoàn, giữa
xã hội. Nhiều tu sĩ trẻ cảm thấy mệt mỏi khi nhìn con đường mình đang đi. Nhìn
thanh thiếu niên bên ngoài họ không sống đời tu, họ đang bươn chải học hành để
đạt được mọi nhu cầu, trái lại tu sĩ thì không phải lo lắng nhiều, cứ ỷ lại cộng
đoàn, cộng đoàn sẽ lo cho mình từ ăn uống sinh hoạt, học hành. Vì mình hoàn
toàn phụ thuộc vào cộng đoàn, mình học tốt hay dở thì cũng để phục vụ cộng
đoàn, có khi người kém lại có cơ hội phục vụ nhiều hơn. Cho nên nhiều tu sĩ trẻ
buông theo chủ nghĩa “mac-ke-no” (mặc kệ nó ra sao thì ra), đó chẳng phải là
phóng thể hay sao?
Phóng thể duy tâm được coi là mê tín, chỉ
mơ mộng ảo tưởng không chịu cố gắng vươn lên. Có lẽ một số tu sĩ trẻ ngày nay
không thoát ra được hình thức phóng thể này. Nhiều khi cứ ngồi cầu nguyện mà
không chịu cộng tác vào ơn Chúa qua việc hy sinh của mình, cứ ngồi chờ phép lạ
mà không chịu làm gì để thể hiện lòng tin của mình. Nếu xét về thực tại tiêu cực
thì tu sĩ trẻ ngày nay cũng đang chịu ảnh hưởng sự hạn chế của hiện sinh là buồn
nôn và phóng thể. Song, bên cạnh những ảnh hưởng của sự hạn chế, thì họ cũng
đón nhận được không ít cái hay cái tốt của hiện sinh, đó chính là các mặt tích
cực của thuyết hiện sinh.
b. Thực tại hiện sinh tích cực nơi tu sĩ trẻ
Những thực tại tích cực của thuyết hiện
sinh gồm có bốn phạm trù: ưu tư, tự quyết, vươn lên, độc đáo. Các phạm trù này
có nhiều ảnh hưởng trên tu sĩ trẻ, vì dù sao thì các phạm trù này tu sĩ đã sống
và đang sống, nên không những chỉ ảnh hưởng mà còn đi vào trong hiện sinh nữa.
- Ưu tư
Ưu tư là do sự thức tỉnh và suy nghĩ, ưu tư cũng
là bước đầu của sự đi lên, chắc chắn ưu tư không giống sự sợ hại. Ưu tư là xao
xuyến băn khoăn cho một tương lai chưa rõ rệt. Con người hiện sinh ưu tư vì biết
rằng, tương lai đầy huyền nhiệm, còn bao nhiêu yếu tố chưa hiện ra rõ rệt, mình
tự quyết đình lấy cho mình, không ai quyết định thay cho mình được.[25]
Bao nhiêu giá trị đều quyết định bởi tôi, tôi biết thế cho nên tôi ưu tư. Con
người hiện sinh phải biết rằng, một nhân vị là một thế giới huyền nhiệm,
không ai tha thiết với tôi bằng tôi. Vì chính khi tôi ưu tư về tôi là tôi nhìn
thẳng vào nội tâm tôi, nhìn thẳng vào định mệnh cao cả và ghê sợ của tôi, nhất
là tôi biết rằng trong việc này không ai có thể giúp tôi.
Ưu tư là một nét đặc sắc của hiện sinh đã
tự ý thức, muốn dứt mình ra khỏi cảnh sống thừa, sống an nhàn của sự vật và của
lối sống những người phóng thể. Có thể nói yếu tính của ưu tư là xao xuyến, “cựa
mình” để vươn lên không chịu nằm lỳ ở trạng thái an cư.[26]
- Tự quyết
Chữ tự quyết của hiện sinh chỉ nhằm tới phạm
vi con người hiện sinh, tự quyết là tự chọn mình, tự quyết thường đi đôi với sự
dấn thân. Mỗi quyết định của tôi đều ghi một bước tiến trên đời tôi. Tự quyết
là chứng minh tôi là một chủ thể tự do và tự đảm nhận. Tự quyết của tôi có thể
sai, có thể sinh hại cho tôi, nhưng người hiện sinh không màng chi đến thiệt
thòi, sai lầm, vì ai mà chẳng có sai lầm. Người hiện sinh là người tin tưởng ở
giá trị hành động của mình.
Hiện sinh rất đề cao sự tự quyết, vì có giỏi
lý luận đến đâu thì cũng không đem ra được một giải quyết trăm phần trăm thỏa mạn
thực tế. Vì thực tế vẫn còn những dấu hỏi, cho nên kết cục tôi vẫn phải “liều”
một phần, “liều” là danh từ của hiện sinh, chính trong cái liều này tôi tỏ ra
mình là chủ thể, tôi đã liều nhận lấy trách nhiệm làm người. Tuy nhiên mỗi tự
quyết đều là “tự tuyển” tính chất “liều” ở đây là để vượt qua luân lý mà thôi.
Người hiện sinh là người biết ưu tư định mệnh mình, ưu tư phát triển nhân cách
tới mức hoàn hảo, dẫn đến sự tự quyết luôn luôn mang nặng tính ưu tư.[27]
Tu sĩ trẻ ngày nay đang sống trong phạm
trù tự quyết bằng dám chọn một con đường cho riêng mình, chính là chọn mình. Nếu
tự quyết mang tính tự do thì tu sĩ trẻ rất tự do trên con đường mình chọn. Chấp
nhận khổ, chấp nhận mạo hiểm để hưởng tự do. Tự quyết được xem là ý thức của một
người hùng, dám làm dám chịu, dám chọn dám yêu. Dưới con mắt của người đời thì
có thể tu sĩ tự quyết là sai lầm, nhưng nhờ đó mà trở thành hiện sinh. Khi tự
quyết thì tu sĩ trẻ thường trong tình trạng bình tĩnh, suy nghĩ đủ, dám tin vào
sự tự quyết của mình.
Tự quyết chính là liều chăng? Nếu nói liều
là danh từ của hiện sinh, thì tu sĩ trẻ ngày nay chắc hẳn rất hiện sinh, vì phải sống liều. “Con chồn
có hang chim trời có tổ con người không có chổ tựa đầu” mà tu sĩ trẻ ngày nay
phải theo Đấng đó. Theo con người trần truồng trên thập giá, theo một tử tội
trên đường đi chịu hành quyết. Liều sống một cuộc đời không hiểu ngày mai,
chính cái liều đó là hiện sinh.
- Vươn lên
Đề tài này xuất phát
từ ý tưởng của Kierkeggard và thể hiện trong đời sống của ông. Trong cuộc đời,
con người phải tự vươn lên, từ “hiếu
mỹ” đến “đạo đức” và đến “tôn giáo”. Còn Gabriel Marcel đưa ra hai phạm trù “chiếm hữu” và “hiện hữu” để đi sâu vào
nghiên cứu sức vươn lên của hiện sinh. Tất cả sự vật tôi có đều được gọi thành
tên. Hiện hữu là đặc tính của con người ý thức về nhân vị của mình, luôn vươn
lên khỏi tình trạng tầm thường của những cái sơ đẳng.[28]
Chính thánh Augustino là “cụ tổ của hiện
sinh” đã khẳng định: “không tiến là lùi”. Vươn lên là lẽ sống của người hiện
sinh trung thực, không vươn lên tức là bị cứng đọng. Vươn lên không có nghĩa là
để thắng người này người nọ, mà vươn lên của hiện sinh là nhằm để thắng chính
mình, mình phải vượt lên trên cái mình hôm qua và lúc này.
Có tu sĩ trẻ tâm sự: động lực lúc đầu đi
tu không phải vì Chúa mà vì cái gì đó. Hoặc mê một bộ tu phục của ông thầy hay
ma-sơ nào đó, nhìn thấy họ nhân hậu đoan trang,… Đúng, lúc đầu chỉ vì tình cảm,
vì sự theo đòi, khi vào môi trường sống của đời dấn thân, thì họ không dừng lại
ở đó, mà họ biết vươn lên. Như đường lối của Kierkeggard là vươn lên khỏi giai
đoạn hiếu mỹ để đạt đến giai đoạn đạo đức.
Quả thật khi vào đời tu mà chỉ dừng lại ở
bộ tu phục hay một mẫu người lý tưởng thì đời tu sẽ vô nghĩa. Qua thời gian được
huấn luyện họ đã vượt qua tất cả để đạt đến cuộc sống đạo có chiều sâu, tức là
đời sống nội tâm. Có thể nói đời sống nội tâm của tu sĩ tương đương với giai đoạn
tôn giáo của nhà hiện sinh Kierkeggard. Tu sĩ trẻ vươn lên không ngừng để cuối
cùng là chiếm được Chúa, không lấy gì làm hơn Thiên Chúa, khi đó họ sẽ là người
mang tính độc đáo.
- Độc đáo
Độc đáo là danh từ đặc sắc nhất của hiện
sinh, vì các thuyết khác không nhận con người là một cái gì độc đáo. Hiện sinh
nhắc nhở cho con người biết rằng, mình là một nhân vị độc đáo và mình phải hoàn
thành định mệnh độc đáo của mình. Nếu đứng trước một sự việc tôi và anh đều phản
ứng như nhau, thì xem ra hợp lý, nhưng chính cái hợp lý đó đã phủ nhận bản chất
con người tự do.[29]
Nếu Karl Marx coi con người là sản phẩm xã
hội, thì hiện sinh lại coi con người là nhân vị, con người sống trong lịch sử,
con người hiện sinh là người làm nên lịch sử mình, vì mình tự đảm nhận mọi hành
vi của mình.
Một khi đã ý thức sâu xa về tính độc đáo của
mình, con người tự cảm thấy “cô đơn”. Chính tôi sẽ chết cái chết của tôi, nên
tôi phải sống cái sống độc đáo của tôi. Đừng để người ta sống mất cuộc sống của
tôi, nghĩa là tôi đừng sống theo đuổi người ta. Khi tôi đảm nhiệm lấy cô đơn
chính là lúc tôi dám làm người có nhân vị độc đáo, khi đó tối sẽ phát huy tất cả
khả năng riêng biệt của tôi, theo những đường lối chỉ tôi có. Chỉ mình tôi biết
khai thác thế nào để đạt đến mục tiêu hoàn thiện.
Nếu độc đáo là nét son
của hiện sinh thì tu sĩ trẻ ngày nay sống rất hiện sinh, vì sự độc đáo đó xuất
hiện rõ nơi mỗi tu sĩ trong Giáo hội. Trước hết đó là nét độc đáo nơi các dòng
tu, thứ đến là nét độc đáo của từng nhân vị. Từ thế kỷ thứ V thánh Biển Đức đã
viết luật cho người tu là chấp nhận ý riêng của anh em, xem người anh em như là
một nhân vị độc đáo của Thiên Chúa thì ta sẽ chấp nhận tất cả.
II. Tu sĩ trẻ
trong xã hội ngày nay
Tu sĩ trẻ trong xã hội hôm nay được coi
như “chiên” trong đàn sói. Liệu mỗi con chiên có thể cảm hóa được cả một đàn
sói không? Hoặc bị sói cấu xé, hay sống theo đường lối của sói?
1. Những thách đố
của xã hội
Tu sĩ trẻ đang sống trong một xã hội ảnh
hưởng quá nhiều về các thuyết duy vật, thực dụng, đam mê bụi đời, mang đầy tinh
thần thế tục, kể cả bầu không khí nhão nhẹt mùi xác thịt xâm nhập qua ngũ quan
của các tu sĩ trẻ. Một thứ duy vật hấp dẫn quyến rũ, dễ dãi mê ly hơn bao giờ hết.
Trong bối cảnh ấy, làm thế nào để huấn luyện
các tu sĩ trẻ? Làm thế nào để tu sĩ trẻ có thể thi hành sứ vụ mà không bị “sói
dữ” ăn thịt? Làm thế nào để các tu sĩ trẻ có khả năng thực sự để phục vụ con
người ngày nay? Câu hỏi “làm thế nào…” có thể liệt kê hàng loạt như là những
thách đố rất cụ thể đối với các tu sĩ trẻ hôm nay.
Bên cạnh đó, hiện trạng
khan hiếm linh mục, hố sâu ngăn cách giữa các thế hệ, sự khác biệt trong cung
cách làm việc... càng thúc đẩy Giáo hội phải quan tâm hiều hơn tới việc đào tạo
ra một thế hệ trưởng thành, những người vừa có khả năng vừa có bản lĩnh, có
tinh thần, có trách nhiệm, có óc sáng tạo để đối diện với một tương lai đầy bất
trắc đang đến với giáo hội và thế giới loài người hôm nay.
2. Con người ngày
nay chờ đợi gì nơi các tu sĩ?
Qua những nhận định những lời khen chê trước
mặt hay sau lưng, những phản ứng trên bộ mặt cử chỉ hành động thực tình hay xã
giao, những tiếng đồn những dư luận, chính xác hay mơ hồ, ngay cả bịa đặt giả dối
nữa, nếu tu sĩ trẻ tỉnh táo sáng suốt dám suy xét, ắt sẽ nhận ra được những ước
nguyện sâu xa, những mong mỏi thầm kín chính đáng của người đời.
Họ mong mỏi nơi tu sĩ trẻ là một chân tu,
kẻ sống giữa thế trần mà không thuộc về trần thế. Sống giữa thế trần bằng dấn
thân thực sự vào tất cả các công việc trần thế, do sứ mạng hay địa vị. Dấn thân
với tất cả sinh lực, cả khả năng chuyên môn, cả lòng hăng say tận tụy. Họ mong
muốn tu sĩ trẻ thông cảm với họ, với những khó khăn vất vả về kinh tế, về gia
đình, về giáo dục con cái,… một sự thông cảm thực tình giữa con người với con
người. Họ muốn tu sĩ trẻ luôn lịch sự với họ, lịch sự chân thật, trong cử chỉ,
gặp gỡ, lời nói đối xử. Lịch sự gồm cả kính trọng, vui tươi tế nhị, đứng đắn, kể
cả một chút dè dặt để tránh tất cả những gì là quá mức. Tu sĩ trẻ phải dung hòa
cái đơn sơ của chim câu và khôn ngoan của con rắn.
Tất cả mọi người mong mỏi tu sĩ trẻ những
người sống giữa thế trần nhưng không thuộc về thế trần. Tu sĩ dấn thân nhưng
không chìm đắm trong trần thế, như Chúa Giêsu đến trong thế gian mà không thuộc
về thế gian. Đòi hỏi không chỉ khôn cái khôn của trần thế, không buông mình hưởng
thụ tất cả những gì hưởng thụ được ở trần thế. Mặc dầu không phải là tội lỗi gì,
mặc dầu khôn ngoan của thế trần không cảm thấy gì là đáng trách, thì tu sĩ trẻ
cũng phải từ bỏ. Họ muốn cảm thấy được tu sĩ đi xa hơn họ về mọi mặt: sống
thanh bạch hơn, khó khăn hơn, hăng say làm việc nhiều hơn, không phải vì lợi lộc
tiền bạc thế trần, nhưng vì lý tưởng. Tu sĩ trẻ có cái gì tế nhị hơn, thanh cao
hơn, thiêng liêng hơn khi tiếp xúc với người khác phái, dầu đời hay đạo, tu hay
không tu. Người đời thích cảm thấy tu sĩ đã tận hiến, không còn chút quyến luyến,
chút tiếc rẻ, chút mong mỏi thù lao cho sự hy sinh của mình.
Người đời mong mỏi được gặp tu sĩ, như là
một dấu hiệu sự hiện diện của Thiên Chúa, một hình ảnh sống động của Ngài, một
thừa sai, một sứ giả của Ngài, mang đến cho họ một sự phấn khởi, khuyến khích để
họ sống giữa thế trần mà không thuộc về thế trần, giúp họ vừa trở nên con người
của thời thế vừa là người của Thiên Chúa. Họ muốn tu sĩ trẻ là vàng thật của
Thiên Chúa, không chấp nhận chỉ mạ vàng hay đồng mà thôi.
Trong tất cả những mong mỏi được coi như
là chính đáng ấy, xin đừng quên tu sĩ vẫn là con người, một con người sống
trong xã hội như mọi người, cũng có yếu đuối, có tội lỗi, cũng có hạn chế bất
toàn, nên cũng rất cần được cảm thông, được nâng đỡ.
3. Sứ mạng của tu
sĩ trẻ ngày nay là gì?
Đời sống thánh hiến
là ân huệ Thiên Chúa Cha ban cho Giáo hội, được bén rễ sâu trong gương sống và
giáo huấn của Chúa Kitô. Đời thánh hiến làm nổi bật nét đặc trưng của Đức Kitô:
khó nghèo, khiết tịnh, vâng phục; những điều này trở thành hữu hình giữa lòng
thế giới như một gương mẫu thường hằng.[30]
Qua các thời đại có những người nam và những
người nữ, sẵn sàng nghe tiếng gọi của Chúa Cha, được Thánh Thần thúc đẩy, đã chọn
con đường bước theo Đức Kitô, để tự hiến đời mình cho Ngài, với con tim không
chia sẻ. Họ đã từ bỏ mọi sự như các Tông đồ, để ở với Ngài và giống như Ngài,
phục vụ Thiên Chúa và anh em. Như thế họ góp phần vào việc biểu lộ mầu nhiệm,
và sứ mạng của Giáo hội bằng muôn vàn đoàn sủng, thuộc đời sống thiêng liêng và
Tông đồ mà Chúa Thánh Thần đã ban cho họ, nhờ đó họ góp phần vào việc canh tân
xã hội.[31]
Nếu nói Đức Kitô là quà tặng của Chúa Cha
ban cho nhân loại, nhờ món quà đó mà nối kết được tình yêu nhân loại với Thiên
Chúa, thì tu sĩ là quà tặng cho Giáo hội, cũng phải mang tâm tình như vậy, phải
sống, phải phục vụ như chính Chúa Kitô đã sống, đã phục vụ. Chính Thiên Chúa sẽ
chất vấn các tu sĩ bằng những dấu chỉ của thời đại. Vậy họ phải quan tâm đến
nhu cầu của thế giới đang biến chuyển không ngừng, những lời mời gọi cấp thiết
của Giáo hội. Khi đáp ứng những lời mời gọi đó thì các tu sĩ diễn tả được tình
yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa, được thực hiện bằng việc loan báo Đức Kitô,
qua chứng từ đời sống và việc công bố Lời Chúa. Muốn thế giới trở nên công bình
và nhân đạo hơn, tu sĩ trẻ phải vất vả làm lụng, họ phải là người kiến tạo hòa
bình.
Sống trong một xã hội luôn biến đổi, tu sĩ
trẻ cần biến báo linh động, hầu bắt kịp những chuyển biến để thích nghi hoạt động
và phục vụ, thích ứng với con người thời đại. Là tu sĩ trẻ của của thế kỷ “@ -
Acòng”, con đường phục vụ phía trước đòi hỏi phải có năng lực để thích ứng với từng môi trường, từng lãnh vực, từng
nơi ta hiện diện. Một tu sĩ đa năng ngày nay rất cần, vì biên cương của sứ vụ lại
là không biên cương, bất kỳ ở thành thị hay nông thôn luôn cần sự phục vụ của
tu sĩ trẻ. Cuộc sống có muôn ngàn khó khăn khác nhau, làm cho con người tha thiết
có được người sẵn sàng lắng nghe, hiểu và thông cảm những nỗi niềm của họ, trợ
giúp họ khi gặp bất trắc.
Tóm lại, sứ vụ của tu
sĩ trẻ, dù ở phương diện nào vẫn là phục vụ con người cách cụ thể, không dừng lại trên giấy tờ và trên bàn phím. Bối
cảnh Việt Nam hiện nay, cần tu sĩ trẻ hơn lúc nào hết, sự nhiệt tâm loan báo
Tin mừng, làm chứng nhân giữa đời, theo cung cách phục vụ của Đức Giêsu như lời
thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói với giới trẻ của Nigeria vào ngày
15-02-1982 rằng: cuộc sống của tu sĩ trẻ quan trọng hơn các cuộc hành trình mà
tu sĩ trẻ thực hiện, nói cách khác chính cách họ hiện hữu mới là điều quan trọng.
Tu sĩ là người được thánh hiến theo Chúa Kitô với một tình yêu cao cả. Bất cứ
nơi đâu một em bé cần đến, nơi đâu một ai đó đang đau khổ, nơi đâu anh chị em
đang bị cô độc, bị hắt hủi, thì ở đó tu sĩ trẻ có cơ hội làm việc cho Nước
Thiên Chúa.[32]
III. Cái nhìn hiện
sinh qua các lời khấn
Trong Huấn thị “Xuất
phát lại từ Đức Kitô”, thánh
Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đã khuyên các tu sĩ sống linh đạo xuất phát lại từ
ngôi vị Đức Kitô, Thiên Chúa thật và là người thật. Xuất phát lại từ Đức Kitô
là gì nếu không phải là sống hiện sinh theo
Tin mừng Chúa Kitô. Tin mừng là lời của Chúa, là chính Chúa, là của ăn,
là đời sống của chúng ta.[33]
Tu sĩ đừng
cảm thấy mệt mỏi khi suy niệm Tin mừng vì lời Chúa có thể khắc trên anh em những
nét đặc trưng của Ngôi Lời nhập thể. Từ đó theo Đức Kitô bằng con đường của
Ngài, hầu cứu độ nhân loại, con đường ấy
không gì khác hơn là ba lời khuyên Phúc âm; khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục.
Bởi thế, tu sĩ trẻ ngày nay đã đón nhận tiếng gọi thực hiện một sự thánh hiến mới
đặc biệt, vì lợi ích của Giáo hội, nên họ được thúc bách thực hiện lối sống theo gương Đức Kitô, Đức Trinh
Nữ Maria và các Tông đồ, với một tình yêu nồng nàn.[34]
Trong thế giới chúng ta, lối sống đó cấp
thiết và cần một chứng tá, nhằm khẳng định vị thế tối thượng của Thiên Chúa và
cuộc sống vĩnh cửu. Việc bước theo Đức Kitô để sống các lời khuyên Phúc âm, nói
lên sự hiến thân trọn vẹn vì vinh quang Thiên Chúa và vì tình yêu đối với anh
em.[35] Đời
sống thánh hiến được đề cập xuyên suốt cả chiều dài Kinh thánh, trong thời Cựu
ước đã có những nghi thức hiến thánh, nơi thánh (Xh 3,5; 19,23), xức dầu thánh
(St 28,17). Hiến thánh là tính cách thiêng liêng, phẩm định những địa điểm hay
những đồ vật dành riêng cho Chúa, hay dùng làm môi giới để con người tiếp xúc với
Thiên Chúa. Những địa điểm ấy biến thành trung tâm thờ tự, những trung tâm này phải
có những đồ vật và nhân vật được thánh hiến, để cử hành việc phùng tự, chính
Thiên chúa đã chỉ huy ban hành nghi thức phụng vụ này (x. Xh 24,31).[36]
Còn trong Tân ước,
ngoài việc cung hiến thể lý bằng bí tích, còn có việc hiến thánh luân lý, hầu rập
theo gương mẫu và lời mời gọi của Đức Kitô. Chúa Giêsu được thánh hiến trong
giây phút thành thai nơi cung lòng Trinh Nữ Maria, “ Thánh Thần sẽ đến trên
trinh nữ và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ bao phủ Người bởi thế trẻ sắp sinh ra sẽ
được gọi là Thánh” (Lc1,35). Chúa Giêsu đã tự xưng mình là người được Chúa Cha
thánh hiến để cử xuống trần gian (x. Ga10, 36), và Người đã hết lòng sống việc
hiến thánh ấy. Người không có tổ ấm riêng, “thân mẫu anh chị em tôi là ai?” (Lc
9,58), không học thuyết: “đạo lý của Ta không phải chính Ta mà thực thi ý muốn
của Cha, Người đã tuân hành ý muốn của Cha một cách hoàn hảo. Người cầu nguyện
cho các tông đồ: “Lạy Cha Chí Thánh vì họ mà con tự hiến thánh để họ cũng được
hiến thánh trong chân lý” (Ga 19,21).
Tu sĩ trẻ ngày nay sống ba lời khuyên Phúc
âm thế nào để vừa hiện sinh vừa đúng theo Tin mừng? Trong một xã hội chạy theo
cuộc sống sung túc hưởng thụ, quyền lợi danh vọng, tự do phóng đãng, thì tu sĩ
trẻ xem ra vong thân, nhu nhược!? Thực ra, theo hiện sinh trung thực thì tu sĩ
trẻ không hề vong thân và nhu nhược mà là người hùng, rất độc đáo, và cũng rất
tự do; bởi lẽ hiện sinh nhằm đưa con người đi đến thân phận làm người, làm một
nhân vị cao cả, làm người tự do và luôn đề cao một cuộc sống có nhân vị. Giáo
luật điều 1191 nói về lời khấn dòng: “Lời khấn dòng là lời hứa có suy tính và tự
do với Thiên Chúa về một điều kiện khả dĩ và thiện hảo, nếu bị rối loạn trong
việc sử dụng lý trí thì lời khấn sẽ vô hiệu”. Quả thật, ba lời khuyên Phúc âm
giúp tu sĩ ra khỏi tình trạng phóng thể để
vươn lên mức sống nhân vị tự do và tự nhiệm.
Sống ơn gọi tu trì trong lòng Giáo hội và
giữa xã hội ngày nay, thì phải có những chọn lựa tiêu biểu mà truyền thông đã
quy gom thành ba lời khấn: khó nghèo mang lấy
bộ mặt của từ bỏ theo mẫu Tin mừng (x. Mt 10). Khiết tịnh là đảm bảo để trở
thành tình yêu, là người được tình yêu Đức Kitô tìm gặp. Vâng phục là
dâng hiến tự do cho sứ vụ Chúa Kitô.
1. Hiện sinh trong lời khấn khó nghèo
Lời khấn khó nghèo không phải là một lựa
chọn riêng rẽ, tôi không sống khó nghèo để nghèo, mà tôi sống nghèo để nhằm đến
sự hiệp thông mở rộng vòng tay đón nhận mọi người đặc biệt là người nghèo khó
thấp hèn. Muốn có sự hiệp thông thì phải vứt bỏ những hàng rào ngăn cách mà của
cải, kiến thức, quyền hành, đã dựng lên khắp mọi nơi, hàng rào đó đã đẩy lui những
người ngheo khó ra ngoài. Sự nghèo khó của họ không phải là lý do để loại trừ họ
ra ngoài, mà là nguyên nhân mở rộng trái tim của anh em. Một cộng đoàn tu sĩ phải
là nơi mà người nghèo được ưu tiên, được đón nhận trong Vương quốc của Cha.
Ngày nay kinh tế đóng vai trò quan trọng trong mọi hướng sống. Anh có nhiều của
cải thì anh có nhiều quyền hành.[37]
Người ta có thể dùng lao động để sinh lời, để cạnh tranh, để bóc lột người
khác. Có phải Tin mừng cho chúng ta thấy rằng, lao động làm ra của cải để chia
sẽ cho người khác được hưởng không? Khó nghèo để đưa con người đến một nhân vị
hoàn toàn tự do, vừa tự do về thiêng liêng vừa tự do về vật chất. Khó nghèo
không chỉ là một trạng thái nội tâm, mà còn phải biểu lộ cụ thể ra bên ngoài.
Vì người khấn khó nghèo là bước theo Đức Kitô nghèo, một Đức Kitô đến để phục vụ
chứ không phải để được phục vụ. Theo Đức Kitô vì Ngài là chân lý của con người,
mà khó nghèo bắt đầu từ thân phận con người nhưng lại là khía cạnh của một chân
lý, suy ra khó nghèo là một nỗ lực để đến với chân lý. Khi đó ta không còn của
cải để bảo vệ, không còn quyền lực để bênh vực ta sống hoàn toàn nhờ ơn huệ, để
nhận ra bản chất làm người là nhận tất cả sự nghèo hèn, vì con người là nghèo
hèn và giới hạn, cho nên ta sống nghèo hèn là chân lý, là sống thật con người của
ta, vì thuộc tính của con người là giới hạn, là thiếu thốn nghèo nàn.
2. Hiện sinh
trong lời khấn khiết tịnh
Người ta thường định nghĩa khiết tịnh theo
nghĩa tiêu cực, là không lấy vợ, không lấy chồng. Có người phải sống độc thân
không chọn được người mình muốn lấy, có người vì ích kỷ thích sống một cuộc sống
an nhàn; song, cũng có người chọn cuộc sống độc thân để phục vụ đời một cách hữu
hiệu hơn. Trong cuộc sống tại thế, Chúa Giêsu không lập gia đình, không là một
người chồng, là vì Người muốn sống tương quan chính yếu, một người con, một người
anh em. Lựa chọn này ăn khớp với Tin mừng mà Người loan báo. Vương quốc của Người
là tất cả những anh em sống tình Cha.[38]
Chính Đức Kitô không hề có ý khinh chê chuyện
hôn nhân, mà lời khuyên Phúc âm về đức khiết tịnh chỉ có ý gợi lên rằng: trái
tim của người nam hay người nữ có thể có tình yêu hôn ước đối với chính Đức
Kitô. Đây là một lựa chọn đặc sủng nhận lấy Đức Kitô như một Đấng phu quân độc
nhất. Do đó, những người thực hiện cứu cánh nội tại, sẽ trở thành chiều kích
cánh chung. Người khấn khiết tịnh khước từ niềm vui tự do tạm bợ của cuộc đời
đôi bạn, nên họ đang sống và loan báo sự phục sinh (x. Lc 20, 34-36; Mt 22, 30;
Mc 12,15).[39]
Tin mừng mời gọi đừng biến cuộc gặp gỡ nam
nữ thành dịp người này thi thố quyền hành trên người kia. Trong đời sống đôi bạn
người ta có thể sống hiệp thông với nhau, trao ban phó thác cho nhau, nhưng người
ta cũng có thể chiếm đoạt nhau, buộc người kia phải phục lụy mình. Người khấn
khiết tịnh khước từ hưởng tình dục với một
người khác. Từ đó có thể minh chứng theo cung cách của mình, là mọi tình
yêu theo Tin mừng đều phải khiết tịnh, căn cứ trên sự tôn trọng và trao hiến
cho nhau.
Người khiết tịnh minh chứng rằng, mọi mối
tình đều có thể có phẩm chất và chiều sâu của nó, nhất là khi yêu thương như
Thiên Chúa yêu. Đây là khước từ mọi quyền hành mọi kiểu cách thống trị để chịu
đóng đinh bởi tình yêu. Chọn đời sống khiết tịnh còn minh chứng thêm một điều
này nữa; là nếu hình ảnh đôi bạn là hình ảnh hiển nhiên nhất của hạnh phúc con
người, và nếu nhiệm tích hôn nhân được chọn để diễn tả giao ước, thì hình ảnh
đó chưa phải là hình ảnh của Vương quốc, nơi đây phải là nơi mọi người đều là
anh em với nhau trong Đức Kitô. Chính vương quốc này mà ta hiến dâng cuộc đời
và tình cảm của ta. Ta có thể quản lý tình cảm trong niếm tin, cậy, mến, trong
tình hiếu thảo đối với Cha, tình yêu vô vị lợi, cởi mở đón nhận mọi anh chị em.
Vấn đề không phải là loại bỏ mọi ước muốn tình yêu, nhưng là phải sống những điều
đó trong viễn tượng Tin mừng mở ra khi mời gọi chúng ta sống khiết tịnh vì Nước
Trời[40].
Khi dấn thân trong đời sống khiết tịnh,
thì tu sĩ trẻ hiến thân cho ba đối tượng, Thiên Chúa, Hội thánh và tha nhân.
Thánh Phaolô khuyên rằng: “Tôi nài xin anh em hãy dâng hiến thân mình làm của lễ
sống động, thanh sạch đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12,1). Thiên Chúa không thèm
khát chiên bò, nhưng Người vui mừng nhận lễ vật tình yêu, đó là một quả tim
không chia sẻ, không bớt xén. Tu sĩ khước từ tình yêu xác thịt để chiếm hữu
tình yêu Thiên Chúa và trở thành hy lễ hiến dâng Người. Chính đức khiết tịnh là
một dấu chỉ, một tiếng nói tình yêu của tu sĩ muốn diễn tả với Thiên Chúa và với
mọi người. Các môn đệ xưa đã từ bỏ tất cả để theo Chúa hầu tạo thành một gia
đình mới, đó là Hội thánh. Tu sĩ khấn khiết tịnh cũng nhằm mục đích ấy, gia
đình mới của tu sĩ là cộng đoàn dòng tu, là Hội thánh, hiền thê của Chúa Kitô.
Từ đó họ dấn thân theo Chúa, phục vụ Hội thánh với con người hiện sinh hết tâm,
trí, lực. Cũng nhờ lời khấn này mà tu sĩ trở nên người thừa hành, chuyển tải
tình yêu Thiên Chúa và Hội thánh cho mọi người, với một con tim không dành
riêng cho ai mà là cho mọi người. Tu sĩ yêu tất cả mọi người, phục vụ mọi người
bằng chính tình yêu của Chúa Kitô.
Đức khiết tịnh là một kho tàng quý hóa,
nhưng nó chưa phải là cùng đích, mà chỉ là con đường là phương tiện để tu sĩ phục
vụ Hội thánh, yêu mến tha nhân và dễ dàng gặp gỡ Thiên Chúa, “phúc cho ai có
tâm hồn trong sạch vì họ sẽ được thấy Thiên
chúa” (Mt 5,8). Khiết tịnh hiện sinh theo Tin mừng có thể cho phép tu sĩ sáng tạo
được những tương quan khác tương quan vợ chồng và gia đình, chính vì thế mà đời
sống khiết tịnh có một giá trị cánh chung. Đời sống hôn nhân thì nhằm phát triển
đời sống nhân loại, theo dòng thời gian, còn đời sống khiết tịnh thì hướng về
điểm cuối, về Vương quốc, khi mà mọi khác biệt không còn nữa: Hy Lạp, Do Thái,
nô lệ, tự do, đàn ông, đàn bà, mà chỉ còn Đức Kitô là tất cả cho mọi người.
3. Hiện sinh
trong lời khấn vâng phục
Khi nói đến hiện sinh trong lời khấn vâng
phục, thì nghĩ ngay rằng lời khấn vâng phục như là “luật của tự do”. Tại sao
khi nói đến tự do mà còn đưa luật lệ vào? Thưa, nếu nói tự do là làm mọi việc
có trách nhiệm trước lương tâm, tự do là phương hướng đưa con người thăng tiến,
thì ta hãy nhìn hình ảnh con diều bay lên cao là nhờ gió, nhưng chỉ nhờ gió
thôi thì con diều có bay lên cao được không? Để bay lên cao thì con diều phải
có sợi dây buộc vào một vật cố định. Lời khấn vâng phục được ví như là sợi dây
diều, con diều khi bay lên thì điều kiện cần và đủ là phải có sợi dây, sợi dây
luật lệ, sợi dây bỏ ý riêng. Trong quyết định và trong hành động mà biết được
mình có tự do hay không, khi Đức Giêsu quyết định làm theo ý Cha, thi hành sứ mạng
Cha trao, thì Người đã sống một con người tự do. Đức Kitô tự do với của cải, tự
do với hiểu biết, tự do với quyền hành, Người tự do cả trước Thiên Chúa, trong
cầu nguyện cũng như trong lựa chọn.[41]
Để vâng theo ý Cha, Đức Giêsu đã sống trọn
vẹn giao ước, đã chiến đấu cho đến cùng và lãnh lấy cái chết, chết trên thập
giá. Tu sĩ tự do chọn điều mà Chúa Giêsu đã chọn để vâng ý Cha. Người môn đệ phải
bỏ tất cả để lên đường gặp gỡ những người mà mình không tính sẽ gặp và đồng
hành với họ. Vâng phục trước hết phải là sự lựa chọn của tu sĩ, chọn sống tính
tuyệt đối của tình yêu giữa một cuộc sống tạm bợ. Tôi vâng phục người khác
không phải vì họ không sai lầm, nhưng vì họ là những người tôi tớ phục vụ ý định
của Thiên Chúa, họ giúp tôi sống ơn gọi của tôi, trong mọi tìm kiếm lựa chọn.
Tuy nhiên cách thi hành đức vâng phục cũng phải tùy thời và tùy nền văn hóa.
Vâng phục quen gọi là bỏ mình, nhưng không có nghĩa bỏ mình theo như robot, làm
theo chương trình được cài sẵn, mà là vâng phục có trách nhiệm. Con người hiện
sinh không thể là robot, mà phải có sáng tạo và có vươn lên.
Điều quan trọng mà tu sĩ cần lưu tâm là
vâng phục để cứu thế. Tại sao dám khẳng định vâng phục là cứu thế? Vì ta dựa
vào hiện sinh của Tin mừng và các văn kiện của Hội thánh. Trước hết, Đức Kitô
đã dùng sự vâng phục để cứu thế, “Người là Thiên Chúa nhưng không nhất quyết nhận
mình là Thiên Chúa… mà sống vâng phục, vâng phục cho đến chết và chết trên thập
giá” (Pl 2,6-7). Trong bản văn khác của Thánh Phaolô gửi giáo đoàn Rôma, “vì do
sự bất tuân của một người, mà nhiều người bị liệt vào hàng ác nhân, cũng vì sự vâng phục của một người mà mọi
người được liệt vào hàng công chính” (Rm 5,19). Lời khuyên Phúc âm vâng
phục là lời mời gọi của Đức Kitô: “Hãy theo Ta”. Theo Đức Kitô là chu toàn ý muốn
của Thiên Chúa, “lương thực của Ta là làm tròn ý muốn của Cha Ta” (Ga 3,34).
Bên cạnh đó, một mẫu gương khác cho tu sĩ trẻ hôm nay đó chính là Đức Maria, Mẹ
được mệnh danh là Eva mới. Nếu Eva cũ bất tuân mà làm nên sự chết, thì Đức
Maria là Eva mới đã dùng lời xin vâng để cứu nhân loại.
Nhìn vào các văn kiện của Giáo hội, đặc biệt
thánh Giáo hoàng Gioan Phaolo II, đã nhấn mạnh đến sự cứu thế bằng đức vâng phục.
Ngài khuyên các tu sĩ bắt chước Đức Kitô để trở thành người cứu thế cho thời đại
hôm nay. Chính ngài đã dùng lời Thánh kinh
mà khuyên tu sĩ trẻ ngày nay vâng lời các bề trên của họ: “Anh em hãy vâng phục
những người lãnh đạo… vì họ canh giữ linh hồn anh em như những kẻ phải trả lẽ,
để họ vui mừng thi hành phận sự” (Dt 13,7). Một lời khuyên khác rất hiện sinh rằng:
Các con
thân mến, đức vâng phục mà các con đã tự ý ràng buộc khi hiến thân tron vẹn cho
Thiên Chúa bằng việc tuân giữ lời khuyên Phúc âm là biểu thị đặc biệt của sự tự
do nội tâm, cũng giống như sự biểu thị quyết liệt của Đức Kitô về sự tự do của
Người là sự vâng phục cho đến chết.[42]
Tóm lại, khi tìm hiểu về tu sĩ trẻ ngày
nay sống hiện sinh theo Tin mừng, ta thấy được nòng cốt của đời sống này không
gì khác hơn là sống ba lời khuyên Phúc âm. Khấn khó nghèo để giàu lòng bác ái
phục vụ mọi người; khấn khiết tịnh để yêu một tình yêu đại đồng như Đức Kitô đã
yêu; khấn vâng phục để được tự do, tự do đưa con người thăng tiến lên Siêu Việt,
và để cứu độ nhân loại như Thầy chí thánh.
Nhận định của bản thân thay lời kết
Từ trước tới nay, có lẽ nhiều người xem hiện
sinh bằng cặp mắt không mấy thiện chí, đó là sự lêu lổng của xã hội, những cuộc
sống vội vã của tuổi trẻ. Nhưng họ quên rằng bên cạnh hiện sinh tiêu cực đó,
cũng xuất hiện nhiều trường phái hiện sinh tích cực, nhằm dẫn con người đến những
ưu tư của cuộc sống, những hướng phát triển cho cuộc đời.
Thực ra, ta phải cảm ơn các triết gia hiện
sinh hữu thần như Kierkeggard, Gabriel Marcel, Jaspers…, qua các triết thuyết
hiện sinh này, họ đã nhắc nhở cho ta rằng, những thách đố những khó khăn ở xã hội
ngày nay chỉ là những “mật mã”, những “ẩn số” để biến đổi cái phi lý thành cái
hợp lý.
Với lối nhìn trên, chúng ta có thể tóm tắt
chủ đề “những thách đố của tu sĩ trẻ ngày nay với ảnh hưởng của tư tưởng hiện
sinh” với ba chiều kích:
Trước hết, tu sĩ trẻ là người dám sống sự lựa chọn. Chọn lựa là dám suy nghĩ, dám nói, dám
hành động với tinh thần trách nhiệm. Phải chấp nhận chọn lựa, cho dù đó là một
mất mát. Tu sĩ trẻ ngày nay không còn vâng phục tối mặt, mà với tinh thần cởi mở
và đối thoại, được góp ý kiến, thể hiện khả năng của mình để phục vụ tốt hơn.
Chính vì thế, các tu sĩ trẻ ngày nay đòi hỏi phải hết sức trưởng thành. Chọn lựa
là phải dám nói không, chấp nhận thiệt thòi, để sống đúng chân tính của mình, sống
triệt để tinh thần Phúc âm mà vẫn giữ được con người hiện sinh.
Thứ đến, tu sĩ trẻ là người phải đáp ứng nhu cầu hiện sinh
anh chị em. Và do chính tu sĩ trẻ cũng là con người hiện sinh, nên không thiếu những
bất toàn. Phải chăng, chính Chúa cũng không ngần ngại chọn ngay cả sự bất toàn
của họ và mời gọi họ phục vụ cho Vương
quốc? Như vậy, tu sĩ trẻ không dựa vào sức riêng của mình mà lo lắng về thành
công hay thất bại, mà chỉ dựa vào Thiên Chúa, dựa vào ý muốn của Người mà sống
sứ mạng của mình.
Cuối cùng, tu sĩ trẻ là người luôn biết hướng đến tương
lai.
Do đó, dù phải chu toàn những công việc trước mắt, nhưng họ phải nhắm đến đích ở
tương lai, đi vào tương lai, với bầu nhiệt huyết của riêng mình, với sự năng động
của tuổi trẻ, để dấn thân không chán nản không thất vọng.
Như vậy, ba nét tích cực hiện sinh là tu
sĩ trẻ ngày nay dám chọn lựa, dám sống hiện tại, và biết nhắm đến tương lai,
nhưng không bứt ra khỏi sợi “dây diều” của Giáo hội. Nhờ vậy, họ có thể bay
cao, bay xa và nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô.
[1] Trần Thái Đỉnh,
Triết Học Hiện Sinh, 1968, tr. 45
[2] Bocheki, Triết Học Tây Phương Hiện Đại, 1969, tr.
35
[3] Trần Thái Đỉnh,
Triết Học Hiện Sinh, 1968, tr. 26
[4] Bocheki, Triết Học Tây Phương Hiện Đại, 1969, tr.
43
[5] Nguyễn Trọng
Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương.
tr 22
[6] Sđd tr 30
[7] Bocheki, Triết Học Tây Phương Hiện Đại, 1969, tr.
53
[8] Nguyễn Trọng
Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương,
tr 36
[9] Nguyễn Trọng
Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương,
tr 59
[10] Sđd., tr. 150
[11] Bocheki, Triết Học Tây Phương Hiện Đại, 1969, tr.
83
[12] Nguyễn Trọng
Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương,
tr 18
[13] Georges Gusdorf, Soren Kierkegaard
người chứng của chân lý, Tôn Thất Hoàng dịch, tr 33
[14] Bocheki, Triết Học Tây Phương Hiện Đại, 1969, tr.
102
[15] Trần Thái Đỉnh,
Triết Hiện Sinh, tr. 91
[16] Gabriel Marcel, Hiện Hữu và Tha Nhân,
bản dịch Đặng Phùng Quân, tr. 17.
[17] Nguyễn Trọng
Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương.
Tr 103
[18] Tông Huấn Giáo Hội Tại Á Châu, số
42
[19] Phạm Văn Hiền,
Triết Sử Tây Phương, tr. 117
[20] Trần Thái Đỉnh,
Triết Hiện Sinh, tr. 75
[21] Bocheki, Triết Học Tây Phương Hiện Đại, 1969, tr.
311
[22] Trần Thái Đỉnh,
Triết Hiện Sinh, tr. 36
[23] Bocheki, Triết Học Tây Phương Hiện Đại, 1969, tr.
115
[24] Trần Thái Đỉnh,
Triết Hiện Sinh, tr. 42
[25]Bocheki, Triết Học Tây Phương Hiện Đại, 1969, tr.
132
[26] Trần Thái Đỉnh,
Triết Hiện Sinh, tr. 41
[27] Sdd. Tr. 43
[28] Nguyễn Trọng
Viễn, Lịch Sử Triết Học Tây Phương,
tr 64
[29] X. Bocheki, Triết Học Tây Phương Hiện Đại, 1969, tr.
138
[30] Huấn Thị Xuất Phát Lại Từ Đức Kitô, số 3
[31] Tông Hiến Đời Sống Thánh Hiến, lời
mở.
[32] Nội San Liên Tu Sĩ TPHCM, số 35
[33] X. Huấn Thị Xuất Phát Lại Từ Đức Kitô, lời
mở
[34] Sđd. Số 24
[35] Sđd. Số 7
[36] Nguyễn Văn
Liêm, Dạ Con Đây, tr. 16
[37] Nguyễn Văn
Liêm, Dạ Con Đây, tr. 32
[38] Nội San Liên Tu Sĩ TPHCM, số 1,
tr.70
[39] Tông Huấn Hồng Ân Cứu Chuộc,
1999, số 11
[40] Joseph
Thomas, Lao Động Tình Yêu Chính Trị,
1001, tr. 38
[41] X. Nội San Liên Tu Sĩ TPHCM, số 1, tr.73
[42] Tông Hiến Theo Chúa Kitô, 1999,
tr. 100-102
Đăng nhận xét