Tình nghĩa gia đình trước áp lực xã hội hiện đại

Dưới ánh sáng đức Tin Kitô giáo,
gia đình là nơi chốn an bình cho tâm hồn mình;
nơi đây con người có thể cảm nhận
mình được chấp nhận bản thân để có thể đồng hành,
liên luỵ với nhau trọn cuộc đời.
Tư Cù, OP.



Tình yêu vốn vô cùng đẹp nhưng cũng rất mong manh. Trong đời sống gia đình, tình yêu được củng cố bằng một thể chế tương đối vững bền. Nhờ thể chế ấy, bao đời nay, tình yêu vẫn có được cái nôi ấm áp để phát triển; trong thể chế ấy, tình yêu được định hướng một cách khá đúng đắn.


Hơn nữa, trong đời sống đức Tin, gia đình Kitô giáo được nối liền với mạch nguồn siêu nhiên. Tình yêu gia đình mô phỏng và diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với Dân riêng, tình yêu của đức Kitô với Giáo hội. Một cách nào đó, vận mạng của đời sống gia đình gắn liền với vận mạng của sự sống đức Tin.
Những thách đố mới của đời sống gia đình buộc người Kitô hữu phải nhìn lại phẩm tính đời sống đức Tin của mình; và ngược lại, một đời sống đức Tin chân thật phải có đủ sức mạnh giúp gia đình vượt qua sóng gió của thời cuộc. Do đó, đối với Giáo hội và với người Kitô hữu, thách đố của gia đình trước áp lực của xã hội hiện đại, có thể nói cũng chính là thách đố của phẩm tính đức Tin.
Ơn cứu độ của đức Giêsu Kitô, cuộc chiến thắng của đức Giêsu Kitô đối với thế lực của sự ác và thần chết… Cuộc chiến đó chắc chắn cũng đang diễn ra trong “mặt trận” đời sống gia đình. Làm sao nhìn ra được những dấu chỉ cuộc chiến thắng đó trong thế giới hiện đại ? Làm sao để gia đình Kitô giáo trở thành hiệu kỳ chiến thắng của tình yêu chân chính, tình yêu Kitô giáo, giữa lòng thế giới hôm nay ?
1. Những mối đe dọa từ sự thay đổi cơ cấu xã hội
1.1. Từ “an cư - lạc nghiệp” đến “lạc nghiệp – an cư”
Có một thực tế của cuộc sống hiện đại, đó là nếp sống của đời sống gia đình bị phá vỡ do nhu cầu của công việc. Điều tưởng như hiển nhiên với những thế hệ trước là “an cư - lạc nghiệp”, nay đã và đang dần dần bị đảo ngược thành “lạc nghiệp – an cư”. Đây là một sự đảo ngược không chỉ theo nghĩa không gian, nhưng còn theo nghĩa thời gian, và sâu xa hơn là một sự đảo ngược của giá trị, dính dáng tới nhiều giá trị căn bản của cuộc sống. “An cư” được hiểu trước tiên như có một ngôi nhà vật chất để ở; nhưng cũng có thể được hiểu như một bầu khí gia đình để “trở về”, như một sự ổn định trong tâm hồn để có thể chống lại áp lực của cuộc sống bên ngoài, như một hiện hữu căn bản làm nên ý nghĩa nền tảng của một cuộc đời để có thể hóa giải những biến động nhiều khi rất khắc nghiệt trong xã hội. Tất cả những yếu tố ấy, nhà ở, đời sống gia đình, sự bình an trong tâm hồn, ý nghĩa căn bản của cuộc sống...có liên hệ mật thiết với nhau, tương tác thuận chiều với nhau.
“Lạc nghiệp” được hiểu trước tiên là một công ăn việc làm ổn định; nhưng cũng có thể được hiểu như toàn những thúc bách của cuộc sống xã hội, như trách nhiệm mà mỗi người phải đảm nhận với xã hội, với tập thể,... Yếu tố “lạc nghiệp” cũng nhiều khi tương tác thuận chiều với “an cư”, nhưng không phải là ít khi tương tác nghịch chiều; nghĩa là không phải không ăn việc làm tốt thì gia đình êm ấm, không phải sự thành công trong xã hội cũng luôn luôn mang lại sự ổn định cho gia đình. Chính trong thực tế của cuộc sống hôm nay, chúng ta thấy rõ sự mẫu thuẫn lớn giữa “an cư” và “lạc nghiệp”, giữa lối sống trong gia đình và lối sống ngoài xã hội, giữa thời gian cho công việc và thời gian sống với gia đình, giữa và trách nhiệm với xã hội và trách nhiệm với gia đình; và sâu xa hơn cả là giữa “tình” và “lý”.
Khi nguyên tắc “an cư – lạc nghiệp” được thực hiện, đời sống con người được ổn định, trước tiên, từ ngôi nhà ở, từ đời sống gia đình, từ nền tảng ý nghĩa chính yếu của một đời người là niềm vui được chấp nhận bản thân...; trên nền tảng ấy, tâm hồn con người mới có thêm sức mạnh và công ăn việc làm mới có thể xuôi xắn, trách nhiệm với đời sống xã hội được chu toàn.... Ngược lại, bầu khí chung trên toàn thế giới hiện nay đang xoay chiều, nguyên tắc “lạc nghiệp – an cư” đang càng ngày càng trở nên đường lối thắng thế. Nguy cơ lệch lạc của cơ cấu an cư lạc nghiệp đã xuất hiện khi mà phụ nữ đòi được “giải phóng” khỏi xó bếp…; rồi vì những thúc bách của kinh tế, chuyện phụ nữ đi làm trở thành chuyện bình thường và là chuyện đương nhiên. Rồi tiếp đến là thực trạng di dân càng ngày càng trở nên phổ biến trên toàn thế giới. Mặc dầu những hướng dẫn của Giáo quyền cho thấy nhiều ý nghĩa của tình trạng di dân, nhưng chúng ta không thể không thấy có biết bao nhiêu gia đình bị đổ vỡ vì tình trạng di dân; có biết bao những kiểu gia đình lệch lạc do sự thúc bách của đời sống di dân… Đồng thời, chúng ta cũng thấy biết bao nhiêu tệ nạn xuất phát từ tình trạng đời sống và sinh hoạt gia đình bị xé nát do giờ giấc và nơi chốn làm việc … Nhiều con trẻ hư cũng chỉ vì bố mẹ mải mê làm ăn và mái ấm gia đình trở nên lạnh lẽo… Vì nhu cầu cuộc sống xã hội, những dịp hội họp có tính chất tình nghĩa càng ngày càng khó thực hiện, những buổi xum họp gia đình càng ngày càng ít đi; những tâm tình, cảm nghĩ riêng tư của mỗi người càng ngày càng không có cơ hội được bộc lộ và được cảm thông...
Thực sự con người vừa cần được “an cư” vừa cần có “lạc nghiệp”. Đời sống con người luôn luôn là một hành trình “đi – về”. Con người cần phải ra đi, “đi một đàng học một sàng khôn”, nhưng con người cũng luôn cần có chỗ có nơi để trở về, “ta về ta tắm ao ta...”. Tuy vậy, yếu tố nền tảng chắc chắn phải là “an cư”. Một người “lữ khách” sẽ không dễ để giải quyết một vấn đề nào đó cách căn bản; người “lữ khách” thường giải quyết tạm mọi vụ việc, như người ta đá cục gạch giữa đường để lấy chỗ bước đi mà không cần biết cục gạch văng đến đâu. Con người cần có một sự ổn định trong “nơi ở”, trong “cách ở”, nghĩa là cần một “hậu phương” để trở về, cần một “mái ấm” để xoa dịu tâm hồn; cần một mối tương quan tình nghĩa gia đình để có thể mạnh mẽ trong trách nhiệm với cộng đồng... Người ta nói : đằng sau sự thành công của một người đàn ông bao giờ cũng có bóng dáng một người đàn bà; câu nói đó có lẽ minh họa được cho thực trạng của đời người.
Cuối cùng, điều quan trọng hơn cả là có một sự đảo ngược giá trị : càng ngày người ta càng chuẩn hóa tương quan tình nghĩa gia đình theo một sự hợp lý có tính xã hội. Những vấn đề của đời sống gia đình không còn được lý giải từ nguyên lý tặng-không; mà dựa vào một sự trao đổi sòng phẳng…  “Xã hội lý” càng ngày càng đè bẹp “xã hội tình”.
1.2 Từ quyết định chấp nhận bản thân đến việc đánh giá sự vật bên ngoài
Những gia đình “kiểu cũ” thường được xây dựng, trước tiên, không phải do tình yêu, những do mai mối, do sự sắp xếp của gia đình… Điều đáng ghi nhận là những gia đình ấy lại khá bền vững. Trong khi đó, những gia đình “kiểu mới”, được xây dựng do tình yêu, thường rất nồng nàn, được tìm hiểu kỹ càng, được suy tính cẩn thận…thì lại bị đổ vỡ nhiều. Dĩ nhiên, có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng tới hệ quả ấy, đặc biệt là những nguyên nhân xã hội. Tuy nhiên, ta cũng có thể thấy một nguyên nhân sâu xa trong chính bản chất của tình yêu : Gia đình “kiểu cũ” được xây dựng trên một quyết định chấp nhận định chế hôn nhân, một thứ định chế, hoặc theo phong tục, hoặc theo luật pháp, theo đó, hôn nhân luôn mang ý nghĩa một sự chấp nhận bản thân của nhau và cùng chia sẻ cuộc đời với nhau. Dù người chồng/vợ “kiểu cũ” ấy không được tìm hiểu, không được lựa chọn, không được sống trong cảm giác bồng bềnh của tình yêu, nhưng họ thực sự vẫn nhìn nhận giá trị của hôn nhân như là một sự “trao thân gửi phận”, nghĩa là đón nhận hôn nhân trong tầm mức “bản thân” và “cuộc đời”, một tầm mức xứng hợp với phẩm giá con người.
Trong khi đó, gia đình “kiểu mới” được xây dựng, một cách vô tình hoặc hữu ý, trên việc đánh giá những tài năng, đức độ, sắc đẹp…; và bỏ quên khía cạnh chấp nhận chính bản thân của nhau. Ngày nay chẳng còn mấy tình trạng “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Các bậc cha mẹ rộng mở cho các bạn trẻ sắp bước vào đời sống hôn nhân được gặp gỡ nhau, tìm hiểu nhau, tự do quyết định về cuộc hôn nhân hệ trọng của đời mình... Những điều đó không phải chỉ là có vẻ văn minh hơn, nhưng thực sự xứng hợp với ý nghĩa của tình yêu chân thật. Tuy nhiên, việc đề cao tự do ấy, điều khẳng định tính tự nguyện của tình yêu ấy, hình như vô tình làm mất ý nghĩa hôn nhân như một định chế vượt trên tự do của mỗi người. Thật ra, ý nghĩa của luật pháp nói chung không có nghĩa là những quy định đè bẹp tự do mà là những hướng dẫn và đòi buộc để tự do được triển nở chân thật. Cũng thế, định chế hôn nhân Công giáo nhằm nhắc nhở và đòi buộc người Kitô hữu chọn đời sống hôn nhân như một sự dấn thân trọn vẹn, chấp nhận đồng hành với một ai khác ở mức độ bản thân và cuộc đời; những điều đó không phải là kỷ luật suông, không phải là sự ép buộc khiên cưỡng, nhưng là hướng dẫn để tình yêu được thể hiện trong chiều hướng chân thật, chiều hướng của một sự chấp nhận toàn vẹn bản thân của nhau và đồng hành với nhau trọn cuộc đời.
1.3. Hệ quả
Hai thực trạng nói trên, và dĩ nhiên còn nhiều nguyên nhân khác nữa, “hợp lực” với nhau để xâu xé đời sống gia đình hiện đại. Đời sống “đi đường” làm gia tăng lối suy tư trao đổi những sự vật ngoài bản thân. Chúng ta có thể thấy rõ sự khác biệt của hai nhu cầu căn bản khi so sánh thế giới trong nhà và thế giới ngoài đường. Khi ta đi ra đường, mọi sự đều là đổi chác. Trong thế giới ngoài đường, từ những đồ vật cho đến thân xác con người, từ những tài năng cá nhân cho đến vị thế xã hội, và cả đức độ của một con người, tất cả đều được đưa vào bài toán kinh tế thị trường, nghĩa là được đặt lên một bàn cân để cân nhắc lời lỗ của một cuộc trao đổi. Nét đặc trưng của việc buôn bán này là làm sao hai bên cùng có lợi, nghĩa là bên nào cũng phải thu lời được cho mình. Mặt khác, việc mua bán đổi chác ấy luôn là chuyện thời vụ, hiểu theo nghĩa là trong từng “hợp đồng” có tính ngắn hạn, bởi vì đó không phải là giao ước đụng chạm đến bản thân. Trong khi đó, khi về đến gia đình, người ta sống trong một bầu không khí khác, bầu không khí của một sự chấp nhận bản thân của nhau và liên đới với nhau trọn cuộc đời. Khi đó, những tương quan hằng ngày không phải là đổi chác, không phải là những trao đổi theo nguyên lý của sự công bằng. Cuộc trao đổi của thế giới ngoài đường không đụng đến được bản thân của con người, chỉ là những trao đổi những sự vật (sự vật là tất cả những gì không phải là bản thân của con người). Trong thế giới trao đổi sự vật đó, nếu người ta có xúc phạm đến phẩm giá, hoặc đối sử lịch sự với nhau, thì thật ra đó cũng chỉ là chuyện “lễ nghĩa” mà thôi. Trên nền tảng bấp bênh ấy, cuộc đối thoại ngoài đường thật ra cũng chẳng phải là cuộc đối thoại thoả mãn được khát vọng sống với của con người.
Ở trong gia đình, người ta chấp nhận bản thân của nhau. Nơi đây, những gặp gỡ, trò chuyện, công việc hằng ngày,… không phải là trao đổi, nhưng hướng mở tới một sự liên kết sâu hơn, làm dày lên nghĩa tình trong hành trình cuộc sống. Trong gia đình, mọi “trao đổi sự vật” chỉ là một cách diễn tả của bản thân cho nhau; trong khi đó, nơi thế giới ngoài đường, chính bản thân lại có nguy cơ bị giản lược vào “sự vật” để đổi chác.
Có rất nhiều trục trặc trong đời sống gia đình, trong cộng đoàn tu trì, trong những tổ chức hội đoàn... bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa nói trên; và nếu không nhận ra được nguyên nhân sâu xa ấy, người ta khó có thể giải quyết được vấn đề một cách tận căn. Thiếu sự hiểu biết bản thân của nhau, người ta chỉ còn biết đòi hỏi nhau về lý lẽ; thiếu sự cảm thông với những khó khăn của nhau, người ta sẽ khó có thể cùng đồng hành trong cách giải quyết một vấn đề; thiếu những lời “tâm sự”, càng ngày người ta chỉ còn biết nói những lời “đông đổng” với nhau...
2. Nét đẹp nhân bản của tình yêu Kitô giáo
2.1. Gia đình trong nhiệm cục cứu độ
Khác với nhiều nền văn hóa và tôn giáo khác vốn coi thường đời sống hôn nhân, truyền thông Do Thái-Kitô giáo luôn đề cao đời sống hôn nhân. Lý do có lẽ vì các nền văn hóa và tôn giáo khác muốn tìm con đường siêu thoát, con đường hoàn thiện nơi những con người ưu tuyển; trong khi đó, truyền thống Do Thái-Kitô giáo lại cho thấy ý định của Thiên Chúa muốn cứu độ tất cả mọi người, đặc biệt là những người bé mọn. Đời sống hôn nhân gia đình là một thực tại phổ biến và chung cho mọi người.
* Trong Cựu Ước, hình ảnh hôn nhân thường được sử dụng để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với Dân riêng của Người. Chẳng hạn, ngôn sứ Hôsê nói :
“Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu, Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực, trong ân tình và xót thương; Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành, và ngươi sẽ được biết ĐỨC CHÚA” (Hs 2, 21-22).
Thiên Chúa được diễn tả như một Đấng hay ghen :
“Vậy ngươi không được phủ phục trước một thần nào khác, vì ĐỨC CHÚA mang danh là Đấng ghen tương, Người là một Vị Thần ghen tương” (Xh 34,14).
Đồng thời, sự thờ ngẫu tượng được coi như là một hành vi ngoại tình đối với Thiên Chúa :
“Ở mọi đầu đường, ngươi xây gò và làm cho nhan sắc của ngươi ra ghê tởm; ngươi đã hiến thân cho mọi khách qua đường và gia tăng tội hoang dâm của ngươi.” (Ed 16,25)
Dĩ nhiên, đây là chỉ là hình ảnh, là một cách thức diễn tả, vì Thiên Chúa trong Sách Thánh hoàn toàn là siêu nhiên, là linh thiêng; và sách Sáng Thế đã hoàn toàn loại bỏ mọi thứ phái tính trong “thế giới” của Thiên Chúa. Tuy vậy, qua những hình ảnh, những cách thức diễn tả ấy, ta vẫn có thể đọc ra được, ít nhất, một sự trân trọng chứ không phải thái độ coi thường đời sống hôn nhân như nhiều nền văn hoá khác.
* Trong mầu nhiệm tình yêu Tân Ước, tình yêu giữa Chúa Kitô và Hội Thánh được diễn tả đặc biệt trong ý nghĩa của tình yêu hôn nhân. Đặc biệt, nơi đây, hôn nhân được nâng lên hàng bí tích, nghĩa là đời sống hôn nhân Kitô giáo gắn liền với đức Giêsu Chết-Phục Sinh và hội nhập đời sống hôn nhân của người nam và người nữ vào trong tình yêu giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. Điều đó có nghĩa là, trong hôn nhân Kitô giáo, mỗi khi người chồng lo cho vợ, thì đó cũng chính là đức Kitô đang lo cho Hội Thánh; và mỗi khi người vợ chăm sóc cho chồng, thì đó cũng chính là Giáo hội đang diễn tả lòng trung tín của mình với Hôn Phu là đức Giêsu Kitô.
Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy, Người thánh hoá và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền. Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Ki-tô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người. Sách Thánh có lời chép rằng : Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Ki-tô và Hội Thánh. Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng. (Ep  5, 25-33)
Chính vì thế, công đồng Vatican II nói :
Tình yêu vợ chồng đích thực được kết nhập trong tình yêu Thiên Chúa, được hướng dẫn và thêm phong phú nhờ quyền năng cứu chuộc của Chúa Kitô và hoạt động đem lại ơn cứu rỗi của Giáo hội, … (MV 48)
Đặc biệt, đỉnh cao của tình yêu hôn nhân Kitô giáo được thánh Phaolô diễn tả trong thư Ephêsô : “Vì lý do đó, tôi quỳ gối trước mặt Chúa Cha, là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất”. (Ep 3, 14-15)
Những khẳng định ấy cho thấy những giá trị tích cực trong đời sống gia đình. Mặc dù, theo lịch sử, nếp sống gia đình chỉ lộ diện trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể nào đó, nhưng gia đình đã thực sự được “cứu mang” trong ý định của Thiên Chúa, gia đình phản ánh một phần chân lý vĩnh cửu nơi Thiên Chúa. Đời sống con người được gạn lọc và mài dũa trong trong dòng lịch sử để bộc lộ bản chất chân chính của phẩm giá con người trong đời sống gia đình. Nếu như những tình cảm của đời sống gia đình, tình mẫu tử, tình phụ tử, tình huynh đệ… là những gì rất sâu xa và sống động trong lòng con người, thì chúng ta cũng có thể thấy hầu như tất cả những đường nét của tình nghĩa gia đình ấy ăn khớp sít sao với khuôn mặt Thiên Chúa mạc khải và ăn khớp sít sao với đường lối cứu độ lạ lùng của Ngài. Thực sự, suy niệm về đời sống gia đình dưới ánh sáng đức Tin cũng chính là suy niệm về kỳ công của Thiên Chúa trong cuộc sống con người và là suy niệm về chính tình yêu nhiệm mầu của Thiên Chúa đang thể hiện sống động trong cuộc sống hằng ngày của kiếp nhân sinh.
2.2. Hai nẻo đường của tình yêu
Tuy nhiên, nếu tình yêu của Thiên Chúa và đời sống gia đình nhân loại có một sự “liên tục” nào đó, thì cũng có một sự “đứt đoạn” nào đó. Tình yêu gia đình của con người vẫn cứ phải hướng lên tình yêu Thiên Chúa, mô phỏng, nối liền mạch nguồn và không ngừng được thanh luyện.
Đối với con người, nẻo đường bình thường của tình yêu gia đình diễn tiến theo sơ đồ : - trước tiên hai người yêu nhau vì những sự tốt đẹp của nhau – rồi đến lúc nào đó, tình yêu thể hiện trong việc đón nhận trọn vẹn hơn một con người, với cả cái xấu và cái tốt, vì hai người đã cùng “đồng hội đồng thuyền” với nhau qua một quá trình lịch sử – cuối cùng thì tình yêu chân chính sẽ đạt tới mức độ chấp nhận trọn vẹn bản thân của nhau, mặc dù có thể người bạn đời của mình chẳng còn gì gọi được là tốt cả. Đó là diễn tiến chân thực và đúng đắn của tình yêu mà không dễ gì mọi gia đình có thể đi đến đích. Trong diễn tiến ấy, ta có thể thấy hai yếu tố “bản thân” và “cuộc đời” đan xen và vun đắp cho nhau. Khi mà “bản thân” mỗi người bắt đầu lộ ra những khuyết điểm, thì yếu tố bề dày lịch sử lại bổ túc và đóng vai trò tích cực hơn để gìn giữ mái ấm gia đình….
Trong khi đó, trong đời sống đức Tin, tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, và tình yêu của những gia đình Kitô hữu, có một chiều hướng vận hành ngược chiều. - Trước tiên là Thiên Chúa giao ước chấp nhận trọn vẹn bản thân của ta, mặc dù Ngài biết rõ mọi khuyết điểm, yếu đuối của ta. - Rồi Thiên Chúa yêu thương con người bằng một thứ tình yêu quảng đại, để chấp nhận “bản thân” ta, dù ta có tệ hại đến đâu; và thứ tình yêu kiên nhẫn để vẫn một lòng trung tín với ta, bất kể những bất trung của ta có tệ hại đến đâu. - Cuối cùng, sự tình yêu đi bước trước ấy sẽ có thể làm phát sinh những hoa trái tốt lành nơi con người, nếu con người chịu “để cho tình yêu Chúa cải hoá”.
Việc đối chiếu hai nẻo đường ngược chiều của tình yêu như thế có thể làm rõ hơn những phẩm tính chân thật của tình yêu Kitô giáo. Tình yêu Kitô giáo thuộc về một đẳng cấp khác với tình yêu trong mức độ con người. Một khi tình yêu con người được gắn kết với tình yêu của Thiên Chúa, việc chấp nhận “bản thân” và “cuộc đời” của nhau không phải là một sự trao đổi những điều tốt đẹp, và cũng không phải là hệ quả của một quá trình lịch sử, mà là món quà tặng không, cần được đón nhận với lòng tri ân. Dưới ánh sáng đức Tin Kitô giáo, tình yêu trong gia đình biểu lộ nguyên lý căn bản của tình yêu Kitô giáo, nguyên lý “tặng không” :
Các tương quan giữa những phần tử trong cộng đồng gia đình được phát triển dưới sự thúc đẩy và hướng dẫn của luật “cho không” bằng cách kính trọng và vun trồng nơi mọi người cũng như nơi mỗi người, ý thức về phẩm giá con người như nguồn giá trị duy nhất, cụ thể hoá trong sự tiếp đón nồng nhiệt, gặp gỡ và đối thoại quảng đại, sẵn sàng phục vụ vô vị lợi và tương trợ sâu xa (T/h Gia Đình, số 43).
Nguồn cội của tình yêu ấy chính là sự xác định “phẩm giá con người như nguồn giá trị duy nhất”. Vì phẩm giá cao quý ấy, một xã hội văn minh không thể chấp nhận sự trao đổi, mua bán con người, dưới bất kỳ hình thức nào. Chẳng hạn một thanh niên tự hào : tôi “đẹp trai, học giỏi, con nhà giầu”, muốn cô nào mà chẳng được…, thì người đó chính là kẻ ấu trĩ, đã hiểu tình yêu như một sự đổi chác… Một tình yêu hôn nhân chân chính chỉ có thể xây dựng trên trên nền tảng “tặng không”, tặng không bản thân mình và đón nhận với lòng tri ân bản thân được tặng không của ai khác.
“Ai đem hết gia tài sự nghiệp mà đổi lấy tình yêu, ắt sẽ bị người đời khinh dể” (Dc 8,7).
Quả thật, gia đình Kitô giáo diễn tả thứ tình yêu cao quý và chân thật nhất, tình yêu bao hàm ý nghĩa dâng tặng trọn vẹn chính bản thân và trung tín liên luỵ trọn cuộc đời. Đó là một tình yêu “đi bước trước” với tất cả lòng quảng đại và trung tín bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa. Chỉ thứ tình yêu ấy mới diễn tả được phẩm giá cao quý của con người và bộc lộ tính cứu độ của Kitô giáo cho đời sống gia đình nhân loại.

2.3. Một đức Tin nhập thể trong những giá trị nhân bản
Đối diện với những khủng hoảng có tính cơ cấu như hiện nay, có lẽ những giáo huấn thuần tuý luân lý sẽ khó có thể chống lại sức mạnh của những trào lưu xã hội. Điều đáng buồn hơn nữa là những giáo huấn trong Giáo hội về đời sống gia đình hình như không mang tính giải thoát; ngược lại trở thành một gánh nặng chồng chất thêm vào những gánh gồng đã quá nặng của thực tế đời sống.
Tuy vậy, khủng hoảng của hôn nhân gia đình trong thế giới hiện đại cũng có thể chính là cơ may để đức Tin tìm được cách diễn đạt trọn vẹn hơn. Những nguyên nhân tạo nên khủng hoảng của đời sống gia đình không là gì khác hơn sự quên lãng những gia trị căn bản của tín lý và những hướng dẫn của luân lý Kitô giáo. Thật ra, tình yêu nói chung và tình yêu gia đình Kitô giáo không là gì khác hơn chính tình yêu của Thiên Chúa đang đổ tràn xuống đời sống con người:
“Vì lý do đó, tôi quỳ gối trước mặt Chúa Cha, là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất” (Ep 3, 14-15).
Bí tích Hôn Phối cùng những mục đích và đặc tính hôn nhân Công giáo, mặc dầu luôn có những đòi hỏi của trách nhiệm, nhưng chắc chắn không phải chỉ là một gánh nặng mà chính là nẻo đường giải thoát. Bí tích hôn phối chính là một giao ước để tình yêu hôn nhân được gắn kết vào mầu nhiệm Chết-Phục Sinh, mầu nhiệm tình yêu đến cùng của đức Giêsu. Từ cội nguồn tình yêu ấy, gia đình Kitô giáo được hướng dẫn và được nuôi dưỡng.
* Gia đình như một công đồng ngôi vị
Gia đình là một khuôn mẫu duy nhất trong các cộng đoàn nhân loại có được một phẩm tính riêng biệt: đó là một cộng đoàn các ngôi vị. Tông huấn Đời sống Gia đình viết rằng:
Gia đình, được thiết lập do tình yêu và được sinh động cũng do tình yêu, là một cộng đồng các ngôi vị: đôi bạn nam và nữ, cha mẹ và con cái, họ hàng. Bổn phận đầu tiên của gia đình là trung thành sống thực tại của sự hiệp thông, trong một cố gắng bền bỉ nhằm thăng tiến một cộng đồng đích thực gồm các ngôi vị. (số 18)
Ngôi vị là một khái niệm triết học phức tạp, có nhiều cách hiểu khác nhau. Tuy nhiên, ta có thể tạm hiểu cách chung, từ “ngôi vị” diễn tả một chủ thể có lý trí, có tự do và có nét độc đáo riêng biệt làm nên một phẩm giá. Ở trần gian này, con người có ngôi vị nên khác với các loài vật khác; và trong con người, tiếng ngôi vị cũng chỉ một thực tại toàn vẹn, một chủ thể đảm nhận tất cả mọi hoạt động của linh hồn và thân xác. Như thế, ta có thể hiểu một “cộng đồng ngôi vị” là nơi mỗi thành viên không chỉ đóng góp tài năng, tiền bạc, đức độ,…nhưng là đóng góp chính “cái tôi toàn vẹn của mình”, cũng như đón nhận toàn vẹn cái tôi của người khác. Ý nghĩa này cho ta thấy một sự khác biệt sâu xa giữa gia đình với các thứ cộng đồng hay cộng đoàn khác. Nơi xí nghiệp chẳng hạn, ta không đóng góp cái tôi toàn vẹn và người khác cũng không đón nhận toàn vẹn cái tôi của ta. Nơi đó người ta chỉ đóng góp công sức, tài năng…để nhận lại những gì lợi ích cho cái tôi riêng của mình…
Trên trần gian này, chỉ có duy nhất gia đình cho mới được phẩm tính của một “cộng đồng ngôi vị”. Khế ước hôn nhân là một khế ước mà hai người “trao thân gửi phận” cho nhau, để liên đới với nhau một cách trọn vẹn, “ khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe, khi gian nan cũng như lúc thịnh vượng”. Tông huấn Đời sống Gia đình viết :
Sự hiệp thông đầu tiên là sự hiệp thông được thiết lập và phát triển giữa đôi bạn : nhờ khế ước của tình yêu vợ chồng, người nam và người nữ “không còn phải là hai nhưng là một xác thịt” (Mt 19,6) và được mời gọi lớn lên không ngừng trong sự hiệp thông với nhau qua việc trung thành mỗi ngày với lời cam kết hôn nhân là trao hiến trọn vẹn cho nhau (số 19).
Đức Tin Kitô giáo cho thấy, vị yêu thương, Thiên Chúa trao ban chính bản thân mình, chứ không phải chỉ là trao ban một đồ vật, một món hàng nào đó. Điều đó giống như một người “nắm đàng lưỡi” chứ không nắm đàng chuôi, và niềm tin rằng tình yêu sẽ được đáp trả chính là sức mạnh duy nhất để đợi chờ. Tình yêu trao ban cần phải được chờ đợi, để lãnh nhận chính bản thân của người tín hữu tự do trao tặng. Thiên Chúa đã muốn chọn con đường yêu thương như thế. Thiên Chúa đã ban Con Một của Ngài cho chúng ta; và mỗi người Kitô hữu, khi lãnh bí tích Rửa Tội, chấp nhận chết đi cho con người cũ để sống một con người mới hoàn toàn, con người mới hoàn toàn thuộc về Chúa, từ lối sống cho tới cả những ý nghĩ thầm kín nhất….
* "Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa"  (Rm 14,7-8)
* "Đức Ki-tô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình". (2Cr 5,15)
Có thể nói, tất cả đời sống Kitô hữu không là gì khác hơn sự triển khai nguồn sức sống mới từ bí tích Rửa Tội. Chúng ta có thể thấy rõ giao ước của bí tích Rửa Tội không phải là một thứ giao ước thuận mua vừa bán. Trong loại giao ước như thế, mỗi bên chỉ góp vào một phần sự vật nào đó của mình chứ không đóng góp chính bản thân mình. Ngược lại, trong giao ước “móng nền”, giao ước “ngôi vị” sẽ làm nên một “cộng đồng ngôi vị”, trong đó, người ta đem chính bản thân mình ra để “ký kết”. Trong giao ước ngôi vị như thế, mỗi bên trao phó trọn vẹn bản thân mình cho nhau và cũng đón nhận trọn vẹn bản thân của người kia. Sống trong giao ước “móng nền” của bí tích Rửa Tội, người Kitô hữu nhận ra Thiên Chúa là Đấng “cùng phe” với mình, Thiên Chúa giúp mình “trả nợ đời” chứ Ngài không phải là ông chủ nợ. Do vậy, giao ước hôn nhân diễn tả một tình yêu thương không rút lại, như giáo lý Kitô giáo vẫn luôn khẳng định; và sự kiện những thành viên có cùng chung máu mủ ruột rà, là cha, mẹ, anh chị em của nhau, cũng là một sự kiện không bao giờ có thể thay đổi, ít là trên bình diện luân lý, mặc dù luật pháp có những quy định cho phép “từ con”. . .
“Tình yêu thương vợ chồng bao gồm một toàn thể tính trong đó có đủ mọi yêu tố cấu tạo nên ngôi vị…” (Tông Huấn gia Đình, số 13).
* Gia đình là nơi con người được “ở với nhau” :
Các môn đệ đầu tiên không tìm đến với đức Giêsu như một vị thầy dạy học, nhưng như “Đấng ở  với”: “Đức Giêsu quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi : "Các anh tìm gì thế ?" Họ đáp: "Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu ?" (Ga 1,38)
Và đức Giêsu đã mời gọi các ông, trước tiên, không phải là học một bài học, mà là xem chỗ Người ở và ở lại với Người : “Người bảo họ : ‘Đến mà xem.’ Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười” (Ga 1,39).
Cũng vậy, trong gia đình, các thành viên hiện diện cho nhau với toàn vẹn cái tôi của mình; được chấp nhận và chấp nhận người khác với toàn vẹn cái tôi ấy. Mối liên kết ở mức độ “cái tôi” ấy làm nên một nơi “ở với”, nơi các thành viên có được một “quê hương” để sống trọn vẹn bản thân mình, lại vừa có trách nhiệm trọn vẹn với cả điều tốt và điều xấu nơi cha mẹ, anh chị em của mình :
Sự hiệp thông vợ chồng ăn rễ sâu từ trong sự bổ túc tự nhiên giữa người nam và người nữ, và được nuôi dưỡng nhờ ý chí của đôi bạn đích thân muốn chia sẻ với nhau toàn thể dự phóng cuộc đời của họ, chia sẻ với nhau điều họ có và điều họ là : bởi đó, một sự hiệp thông như thế là kết quả và là dấu hiệu của một đòi hỏi nhân bản sâu xa (số 19).
Dưới ánh sáng đức Tin Kitô giáo, gia đình là nơi chốn an bình cho tâm hồn mình; nơi đây con người có thể cảm nhận mình được chấp nhận bản thân để có thể đồng hành, liên luỵ với nhau trọn cuộc đời. Nếu như cơ cấu xã hội đang phản ảnh một sự xâm chiếm của yếu tố “lạc nghiệp” trên yếu tố “an cư”, thì hơn ai hết, những gia đình Kitô giáo cần làm chứng cho một chiều hướng chân chính của bản chất người, chiều hướng khẳng định gia đình mới là tế bào của xã hội, chứ không phải chỉ là một hình bóng phản chiếu quy luật xã hội.
“Bởi vì ‘Đấng Tạo Hoá đã đặt gia đình làm nguồn gốc và nền tảng cho xã hội con người’ nên gia đình trở thành ‘tế bào đầu tiên và sống động của xã hội” (T/h Gia Đình, số 42)
Mặc khác, tình yêu Kitô giáo không đóng kín trong chính mình nhưng bao hàm tính phong phú, có khả phát triển và “sinh sản” :
“Như thế, vì bản chất và ơn gọi của nó, thay vì đóng khung trên chính mình, gia đình rộng mở đến những gia đình khác và đến xã hội, và chu toàn vai trò xã hội của mình” (T/h Gia đình, số 43)
Do đó, kinh nghiệm đầu tiên về tha nhân của con người được hình thành trong đời sống gia đình, kinh nghiệm ấy chính là ánh sáng soi chiếu cho những kinh nghiệm về tha nhân trong đời sống xã hội. Chiều hướng đích thực tình yêu là mang kinh nghiệm sống với nhau trong nguyên lý “tặng không” của đời sống gia đình để soi chiếu và biến đổi những mối tương quan xã hội chứ không phải chiều hướng ngược lại như tình hình hiện nay.
Như vậy, phát huy sự hiệp thông đích thực giữa những ngôi vị có trách nhiệm trong gia đình trở thành một việc thực tập căn bản và không thể thay thế được cho đời sống xã hội, một gương mẫu và là một khích lệ cho các tương quan cộng đồng mở rộng, được đánh dấu bằng các đức tính : kính trọng, công bằng, ý thức đối thoại, tình yêu (T/h Gia đình, số 43).
Tạm kết
Hôn nhân - gia đình vốn là hình ảnh tiêu biểu của tình yêu. Thời nào cũng vậy, từ xưa tới nay, vẫn có những gia đình đổ vỡ, vẫn có những gia đình không có hơi ấm yêu thương, vẫn có những gia đình chẳng khác gì địa ngục… nhưng hình ảnh gia đình như là biểu tượng của tình yêu vẫn còn đó. Liệu chừng đến một lúc nào đó, hình ảnh gia đình không còn là hình ảnh tiêu biểu của tình yêu?
Những áp lực của đời sống xã hội đang làm rúng động tận nền tảng của đời sống gia đình, làm biến dạng ý nghĩa chân thực của tình yêu. Không kể những đổ vỡ trong đời sống gia đình, trên thế giới ngày nay còn xuất hiện và đang lay lan những mẫu gia đình kỳ lạ, gia đình đồng tính, gia đình tạm thời, gia đình ba hoặc bốn vợ/chồng… Kitô giáo không chấp nhận những mẫu gia đình kỳ lạ ấy, không phải chỉ chúng khác lạ, nhưng vì chúng phá vỡ ý nghĩa đích thực của tình yêu.
Những thách đố của đời sống gia đình hiện nay cũng có thể là một cơ may để người Kitô hữu có thể khám phá lại sức mạnh của sự sống Kitô giáo. Hơn lúc nào hết, mỗi người Kitô hữu cần xác tín được ý nghĩa đức Tin như là được “ở với Chúa”. Đây chính là lúc mỗi người Kitô hữu hiểu rằng đức Tin không phải chỉ là sống luân lý, là “sống thế nào”, mà thiết yếu là “sống-với-ai”. “Ai” ở đây trước tiên là chính Chúa Giêsu; rồi cũng là gia đình, là anh chị em trong gia đình. Nền tảng đức Tin ấy giúp người Kitô hữu xây dựng đời sống gia đình của mình trên nền tảng “an cư”, cũng như xây dựng cộng đoàn, hội dòng trên nền tảng tình nghĩa...

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn