Mầu Nhiệm Mặt Trăng
Khi Kitô
giáo bước vào ngưỡng cửa của Thiên Niên Kỷ III, Thánh Giáo Hoàng Yoan Phaolô II
đã chia sẻ trong bức tâm thư:
Một thế kỷ mới, một thiên niên kỷ
mới đang mở ra trong ánh sáng của Chúa Kitô. Nhưng không phải tất cả mọi người
đêu có thể nhìn thấy ánh sáng này. Công việc tuyệt vời và thúc bách chúng ta,
đó là trở thành 'sự phản ánh' của nó. Đây là mầu nhiệm mặt trăng đã chiếm một phần lớn việc chiêm niệm của các
Giáo Phụ trong Giáo Hội; các ngài đã sử dụng hình ảnh này để cho thấy sự phụ
thuộc của Giáo Hội đối với Đức Kitô, là Mặt Trời có ánh sáng được mặt trăng
phản chiếu.[2]
Bản thân Đức
Yoan Phaolô II cũng đã trích dẫn từ Giáo Phụ Augustinô:
Mặt trăng được hiểu chính là GH, điều đó có nghĩa là GH không có ánh sáng của riêng mình, nhưng từ Con
Thiên Chúa Duy Nhất; Ngài được gọi là Mặt Trời một cách bóng bảy ở nhiều nơi
trong Thánh Kinh.[3]
4) Trước khi
làm giáo hoàng, Đức Benedict XVI cũng thường xuyên nhắc đến hình ảnh này. Trong
tuyệt tác "Tại Sao Tôi Vẫn Còn ở
Trong Giáo Hội" (1973), ngài viết:
Bản chất của Giáo Hội là tự nhận
mình không là gì cả trong chính bản thân mình, và nếu có điều gì mà người cho
là đáng giá, thì thật sự nó cũng không đáng là gì, trong điều gì mà Giáo hội
tồn tại thì cũng chỉ để rồi bị lấy mất đi, và ngay trong sự kiện mà GH có ánh
sáng thì thật sự cũng không phải tự thân nó có. Giáo Hội là mặt trăng, mầu nhiệm mặt trăng, và do đó GH tồn tại cho
các tín hữu, và chính vì thế mà GH mới là nơi hiện hữu của mọi quyết định
thiêng liêng trường tồn .[4]
5) Lúc còn là Hồng Y,
Bergoglio đã từng nhấn mạnh rằng, khi GH không còn là "mysterium lunæ, ”
GH sẽ sống với các hiểm nguy khi tự mình qui
chiếu (self-referential) về mình, vì lúc đó Giáo Hội không
còn sẵn sàng ra khỏi mình để dấn thân loan báo Tin Mừng, GH trở nên tự qui chiếu và trở thành bệnh hoạn
(nghĩ đến người phụ nữ hoàn toàn bị còng lưng lâu năm mà Tin Mừng nói đến). Các
tệ nạn đó, theo thời gian, gặm nhắm vào các tổ chức Giáo hội, biến GH trở thành
một thứ mà mà các nhà thần học ngày nay gọi một cách bóng bảy, một danh xưng
của tâm lý: tự ái kỷ thần họ,[5] và là miếng mồi ngon của tục thế tính thiêng liêng.”[6]
Bergoglio đã sử dụng
diễn ngữ này của Hồng Y Henri de Lubac, người Pháp, cùng Dòng Tên
với Ngài, một trong những nhà thần học vĩ đại nhất của thế kỷ XX.
là mối hiểm nguy lớn nhất, sự cám dỗ xảo trá nhất;
nó luôn luôn tái sinh, ngấm ngầm, khi tất cả những thứ khác đã bị chế ngự và
ngay những chiến thắng thậm chí cũng nuôi dưỡng nó. Nếu ta để cho tính thế tục thiêng liêng này xâm lược vào
Giáo Hội và làm bại hoại GH bằng cách tấn công ngay vào nguyên lý của chính
GH, thì nó sẽ là vô cùng tai hại hơn so với bất
kỳ thế tục tính nào chỉ mang tính luân lý... (Đó
là) Một chủ nghĩa nhân văn tinh tế, đối thủ của Thiên Chúa
hằng sống, và một cách tiềm ẩn, cũng không thể kém hơn, là kẻ thù của con người, và có thể len lỏi vào
trong chúng ta bằng nhiều cách." [8]
6) Thật vậy, "mầu nhiệm mặt trăng," một thuật ngữ có nghĩa là Giáo
Hội phải phản chiếu ánh sáng của Chúa Kitô như mặt trăng phản chiếu ánh sáng
mặt trời, chớ không phải của mình; mầu nhiệm mặt trăng sẽ bị suy yếu và do đó
GH để cho đủ loại mêsiah thuyết hữu thời tự xem mình như là một thứ thần học thuộc thế gian.[9]
Hồng
Y niên trưởng J. Ratzinger trong thánh lễ khai mạc Cơ Mật Viện (18/4/2005) để
bầu vị giáo hoàng mới cũng đã cảnh báo sự “hỗn loạn” tục thế tính vào những thập niên cuối cùng
của tk XX:
Biết bao
nhiêu làn gió chủ thuyết mà chúng ta
đã biết đến trong những thập niên cuối cùng “Con thuyền nhỏ tư duy của nhiều
Kitô hữu đã thường bị đánh bởi những đợt sóng này, trôi giạt từ thái cực này
sang thái cực khác: từ Marxist tới chủ nghĩa tự do, tới mức chủ nghĩa tự do
phóng túng; từ chủ nghĩa tập thể đến chủ nghĩa cá nhân; từ chủ nghĩa vô thần
tới chủ nghĩa duy huyền bí tôn giáo mơ hồ; từ chủ nghĩa vô tín đến chủ nghĩa
hỗn tạp và v. v… Nhiều giáo phái mới được đẻ ra mỗi ngày và xảy ra điều mà
Thánh Phaolô đã nói về sự lường gạt con người và sự tinh quái nhắm lôi kéo con
người đến chỗ lầm lạc (Cf. Ep 4, 14). [10]
Đức Benedict nêu lên cái
tinh quái nhất chính là sự bóm méo chân lý, khi đức tin rõ ràng đặt nền trên
kinh Tin Kính của Giáo Hội thì lại gán cho nhãn hiệu cuồng tín, và trong khi ai
đó bám víu vào chủ nghĩa tương đối,
nghĩa là để chính mình “bị sóng đánh trôi giạt theo mọi chiều gió đạo lý”
(Phaolô) thì dường như lại được ngợi khen như là cách thức hành xử thời thượng
và thức thời. Dần dần chủ nghĩa tương đối trở thành chủ nghĩa độc tài, và phủ định tất cả những gì
mang tính cùng đích hay chung kết và điều tệ hại là để cho cái tôi và ý muốn của mình là mẫu mực duy nhất.[11]
7) Ngoài ra sự tự ái kỷ còn bọc
lộ rõ nét khi nó gắn liền với thực hành thiêng liêng. Thật vậy, sau một thời
gian quá dài bị lơi là, thực tại thiêng liêng, nền tảng về hoán cải đã thấy
được một sự nở rộ, tựa như một mốt thời trang nhỏ nào đó. Có một sự tràn ngập
các bài viết liên tục về đề tài này, từ những bài tường thuật của báo chí bình
dân về lòng sùng kính cho đến những phân tích thần học bác học của niềm tin
Kitô giáo. Nhiều bài viết này có giá trị.[12] Nhưng có nhiều bài thường sa vào một thứ nhị nguyên mập mờ giữa sự hy sinh và hoàn thành bản thân, nói cách
khác, một thứ tự ái kỷ đang len lỏi vào.
(i) Một đàng, chúng ta được mời gọi từ bỏ mình, đàng khác chúng ta được
thúc bách để hiện thực bản thân của chính chúng ta một cách trọn vẹn. Trong khi
lời mời gọi Tin Mừng bước theo Đức Yêsu,
thường bị hiểu sai lầm như là sự đòi
buộc một sự hy sinh hay từ bỏ sự hiện thực đích thực bản thân, thì một "tâm
lý bình dân" đã dựng nên một bản ngã[13] mà thiết yếu đó là cả một mảng đầy ham muốn mà sự hiện thực có nghĩa là
tôi càng được thoả mãn bao nhiêu ham muốn là càng tốt: “Các anh/chị không bao
giờ làm như thế là đủ cho các anh/chị cả."[14]
(ii) Thật vậy, nhiều nơi trên thế giới ngày nay, ngay nơi chính những cộng
đồng Kitô hữu, đã rơi vào dạng tự ái kỷ hiểm
nguy này, vì đã muốn thay thế việc bước theo Đức Kitô khắc khổ đơn thuần qua
các khóa tu luyện thiền, Yoga và các dẫn xuất của chúng:.., những huấn luyện
theo thời thượng, những bảng trắc nghiệm tâm lý của cá tính học, và những điều
khác tương tự.[15]
(iii) Chúng ta biết xảy ra các điều như thế ngay từ
các giáo sư thần học thuộc xu hướng thế gian, các mục tử, các hội đoàn theo chủ
nghĩa cơ hữu,[16] trong những thư viện tôn giáo và
phi tôn giáo (đôi khi rất khó để phân biệt với nhau!) đang phổ biến một thứ
thần học chọn tiêu chuẩn và sự tham chiếu tham khảo là những nguyên tắc của thế
gian: chủ nghĩa Marxism, tâm lý tuổi mới, khoa học kỹ thuật, thần học ở hội
quán... và phương tiện truyền thông.
Trong khi đó vẫn không ít Kitô hữu khác, sống đơn sơ nghèo hèn như các
anawim, nhẫn nại ngày qua ngày nuôi dưỡng mình bằng Lời Chúa, gương sáng Tin
Mừng, lời giảng dạy của Giáo hội, các người thầy thiêng liêng và dấn bước loan báo
Tin Mừng muốn chia sẻ niềm vui mà họ đã áp ủ trong lòng cho mọi người mà không
cần đến các phương tiện ồn ào của truyền thông, không cần đánh bóng tên tuổi
mình.
8) Cuối cùng, Bergoglio hay Đức Phanxicô, nhắc nhở Kitô hữu chúng ta không
nên quá tự qui chiếu, sa vào những kiểu cách chính trị trong nội bộ Giáo hội
cùng đủ thứ vấn đề, nhưng hãy đi ra ngoài để chia sẻ Tin Mừng với toàn thế
giới, đặc biệt là người nghèo và người bị tổn thương. Như Đức Maria,[17] chúng ta hành sử tốt nhất khi chúng ta phản ánh và tỏa chiếu ánh sáng của
Đức Yêsu Kitô Chúa chúng ta; tựa như mặt trăng phản chiếu ánh sáng của mặt
trời.
2. Người
Sống Đời Thánh Hiến sống Mầu Nhiệm Mặt Trăng
1) Chính vì mầu nhiệm GH chính là “mầu nhiệm của mặt trăng”[18] mà theo Alvaro, dung nhan của Thiên Chúa, là tình yêu, phải soi rọi vào tâm hồn chúng ta và chúng ta phải phản chiếu khuôn mặt Ngài trong đời sống của
mình, tựa như là mặt trăng, phản ánh Đức Kitô là mặt trời, “Mặt Trời Công
Chinh” như phụng vụ thường gọi, và nhờ đó chúng ta có khả năng xua đuổi bóng
tối của ngu dốt, sợ hãi, buồn phiền, nản chí và
thiếu vắng sự nhạy cảm và cũng như lẽ sống.[19]
2) Đây là một cách cụ thể để sống đời sống thánh hiến của chúng ta
cho Thiên Chúa Ba Ngôi và để làm vinh danh Ngài. Đây phải là tuyển chọn căn bản của chúng ta mà mọi thứ khác phải trở nên thứ yếu.
Chúng ta là những con người
bằng xương bằng thịt, nhưng lại chứa đựng một kho tàng lớn lao bên trong chúng
ta, tựa như những bình sành. Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong
những bình sành, để chứng tỏ quyền năng
phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi. (2 Cr 4,
7)
Đức Phanxicô cũng đã nhắc lại
tư tưởng nảy trong một thông điệp gửi trên trang Twitter của Ngài: “Chúng ta là những bình sành, dễ vỡ và nghèo
nàn, nhưng bên trong lại chứa đựng một kho tàng vĩ đại.”[20]
3) Kho tàng này chúng ta
không thể giữ riêng cho mình để tự tán thưởng[21] nhưng phải chia sẻ nó. Tông Huấn “Niềm Vui Tin Mừng” không ngớt nhắc lại
câu leitmotiv (điệp ca), chúng ta cần ra ngoài, đi ra ngoài, cần xuất hành, khi
chúng ta đã gặp gỡ được gương mặt Đức Yêsu, có được niềm vui của Ngài, thì cần
ra ngoài san sẻ niềm vui này cho biết bao nhiêu người không có được tình bằng hữu
như thế của Đức Yêsu.
Trong cuốn “Nguyện Gẫm Dành
Cho Tuần Tĩnh Tâm,” thánh Yoan Lasan (1651-1719)[22] đã truyền cho những người dự tĩnh tâm những nguồn cảm hứng và phương tiện để
làm như vậy.
Theo ngài, chỉ những tâm hồn hoàn toàn hoán cải và quy
hướng về Thiên Chúa và cho ý định của Ngài mới có cảm thức về công việc của
Ngài trong những người anh chị em và trong lịch sử.[23]
4) Ơn gọi của người sống đời
thánh hiến, phải chăng, chính là để đáp
trả với một cách sáng tạo theo tinh thần Tin Mừng với Thiên Chúa nhập thể trong
các hoàn cảnh cụ thể và cho những nhu cầu của con người cần đến chúng ta, những
người nghèo, những trẻ em và người trẻ gặp hiểm nguy trong đời sống luân lý?
5) Dung nhan Thiên Chúa cũng như những khuôn mặt của trẻ em và người trẻ
phải là một mạc khải được giác ngộ
cho chúng ta. Dung nhan Ngài đã phản ảnh lại trên khuôn mặt của người nghèo và
người bé mọn.[24] Chân Phước Phaolô VI[25] đã nhắc nhở điều này trong bài diễn văn bế mạc Công Đồng Vatican II năm
1965 bằng những lời lẽ tuyệt vời như sau:
Trên khuôn mặt của mỗi con người, đặc biệt của những ai đau buồn sầu khổ, chúng ta có thể và phải có
khả năng nhận ra khuôn mặt của Chúa Kitô, Con Người. Và nếu trên khuôn mặt của Chúa Kitô chúng ta có thể và
phải nhận ra dung nhan của Chúa Cha trên trời, nhân loại chúng ta trở thành
Kitô hữu và Kitô giáo của chúng ta trở nên “quy thần,”[26] đến mức chúng ta có thể
khẳng định: muốn biết biết Thiên Chúa cần
phải biết con người.[27]
3. Vì Thiên Chúa đã Trao Cho Chúng
Ta Thừa Tác Vụ Đem Lại Sự Sống, nên Chúng Ta Không Sờn Lòng Nản Chí (2 Cr 4, 1)
Chúng ta,
các người được mời gọi sống đời thánh hiến, đã được Thiên Chúa Ba Ngôi yêu
thương kêu gọi (không phải do sáng kiến cá nhân) để liên kết với nhau cho một
thừa tác vụ mà Ngài đã ủy thác cho chúng ta do tình yêu của Ngài.
1) Thật vậy, qua Giáo Hội, thừa tác vụ của người sống đời thánh hiến
được trao phó cho chúng ta như một phần của
kế hoạch nhiệm mầu của Ba Ngôi-Thiên Chúa.
Kế hoạch yêu thương này được
trao cho để đem lại sự sống cho nhân loại. Sự sống mà Chúa Cha đã trao cho con
Con Một của Ngài khi đến thế gian, nay Ngài lại nhờ những nghĩa tử của Ngài tiếp
tục công trình của Con Ngài khi Đấng này về trời.
Tôi nghĩ, điều này quan trọng, vì sự sống mà ta cố đem lại cho
nhân loại chỉ có thể xuất phát từ Ba Ngôi. Chúng
ta có lý do để nhấn mạnh điều đó, nếu chúng ta nhớ lại đoạn Tin Mừng theo
Marcô 3,13-15 (= Lc 6, 12-13).
2) Hai bản văn trọng tâm và rất
quan trọng giúp chúng ta hiểu việc hình thành nên cộng đồng đặc biệt này
gồm những người thận cận nhất của Đức Yêsu là ở Marcô 3, 13-19 và Luca
6, 12-13.[28] Bản văn Marcô bắt đầu bằng
cách nói rằng Đức Yêsu lên núi và gọi đến
với Ngài những kẻ Ngài muốn. Và các ông đến với Ngài. Ngài lập Nhóm Mười
Hai, để các ông ở với Ngài và để Ngài sai các ông đi rao giảng,
với quyền trừ quỷ.
(i) Trong huyền thoại
các dân tộc, núi là nơi con người đặt bàn thờ tôn kính Thần Thánh, nơi
các vua hay các tư tế dâng lễ vật kính Trời, Đất. Kinh Thánh cũng nói đến con người gặp Thiên Chúa ở trên núi cao.[29]
Trong Tin Mừng, Đức Yêsu
thường lên núi cầu nguyện.[30]
Trước biến cố vĩ đại chọn nhóm Mười Hai,
Marcô viết: “Ngài lên núi và gọi
đến với Ngài những kẻ Ngài muốn. Và các ông đến với Ngài.” (Mc 3, 13).
(ii) Các biến cố dẫn đến
việc này đã xảy ra bên bờ hồ Galilê, nơi Đức Yêsu lánh mặt khỏi hội đường sau
khi Ngài vừa chữa lành kẻ bại liệt trong ngày Sabat. Và bây giờ, Ngài đi lên
“núi, những nơi cao,” như Cựu Ước thường viết, nghĩa là nơi Ngài có thể đi vào hiệp thông với Thiên Chúa
Cha, vượt quá những công việc và sinh hoạt của cuộc sống hằng ngày, tránh
những đám đông luôn lũ lượt kéo đến Ngài (Mc 3, 7-8).
(iii) Trong trình thuật
song song với Marcô, Luca cho thấy cái bi tráng, và cái nghiêm trọng hơn của
việc tuyển chọn.
Trong những
ngày ấy, Đức Yêsu lên núi cầu nguyện,
và Ngài đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng
Thiên Chúa. Đến sáng, Ngài kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi
là Tông Đồ. Lc (6, 12).
(1) Như vậy, theo Luca,
hành động kêu gọi các môn đệ đến với Ngài là một biến cố cầu nguyện.[31]
(2) Hình như Luca muốn
cho thấy, các môn đệ không phải là những
người được chọn cách bâng quơ hay ngẫu nhiên hay sau qua một trắc nghiệm
chức năng, tâm lý nào đó.[32]
Họ được sinh ra từ sự thân mật sâu xa của
Đức Yêsu với Chúa Cha.
(3) Thật vậy, Luca cho
thấy, Đức Yêsu đã thức suốt đêm cầu
nguyện với Cha của Ngài, và ta có thể nói, thật sự các môn đệ được sinh ra
từ đó. Qua Diễn Từ Ly Biệt, chính Yoan cũng hé lộ cho chúng ta thấy cội nguồn
mối thân tình này giữa các môn đệ và Chúa Cha: Trước tiên, chính các môn đệ
được Chúa Cha yêu mến họ, vì họ đã yêu mến Đức Yêsu, Thầy của họ, và tin rằng
Thầy của họ từ Thiên Chúa mà đến” (Ga 16, 27). Những môn đệ là “những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho
Ngài, và Ngài đã cho họ biết danh Cha. Họ
thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho Ngài, và họ đã tuân giữ lời Cha.” (Ga 17, 6). Đức Yêsu đã hứa cầu nguyện cho các môn đệ, những kẻ Cha đã ban cho Ngài, bởi
vì họ thuộc về Cha. (Ga 17, 9).
3) Hệ luận trong sứ vụ
được trao phó cho chúng ta, như là người
sống Đời Thánh Hiến: Nhân Danh
Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần[33]
“Lạy Chúa Ba
Ngối người thân cận của con (… ) tư tưởng của con mà rời xa Ngài là không còn
quê hương (R. M.
Rilke).
Thật vậy, nhờ tình yêu của Đức Yêsu, chúng ta trở nên những người phục vụ con người, người nam,
người nữ, trẻ em và người trẻ, đặc biệt là những người cần chúng ta nhất và những người xa ơn cứu rỗi.[34]
(i) Các lời khấn và mục tiêu tối hậu của lời khấn của chúng ta: trước hết là tìm cách
làm vinh danh Thiên Chúa: Đấng được mạc khải trong Chúa Yêsu, Đấng ước muốn tất
cả mọi người được ơn cứu độ và vinh quang lớn lao nhất của Ngài là không một ai
phải hư mất, Đấng là Thiên Chúa Ba Ngôi, là hiệp
thông, sự vận động của tình yêu và sự gặp gỡ.
(ii) Thiên Chúa–Ba Ngôi: Các Ngôi Vị Thiên Chúa (hypostatic) có
tương quan với nhau. Bởi vì sự phân biệt
thật sự giữa các Ngôi Vị với nhau không phân chia thần tính duy nhất, nên sự phân biệt đó chỉ cốt tại các mối tương
quan quy chiếu đến các Ngôi Vị với nhau. Trong các danh xưng nói lên mối
tương quan của các Ngôi Vị, Chúa Cha có tương
quan với Chúa Con, Chúa Con có tương
quan với Chúa Cha, và Chúa Thánh Thần có
tương quan với hai Ngôi kia.[35]
Mỗi ngôi vị mở ra cho tình yêu không ngừng nghỉ. Mối tương quan, vốn
chính là tình yêu, là bản chất của
Thiên Chúa-Ba Ngôi. Như thánh Bernard viết: “Trong Thiên Chúa Ba Ngôi, điều bảo đảm cho sự hiệp nhất tối cao và và
vượt sức hiểu biết của phàm nhân là gì, nếu không phải là tình yêu?”[36]
(iii) Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi là Tình Yêu, kinh nghiệm riêng của chúng ta về tình yêu thì diễn tả điều này
cách tuyệt vời nhất:
Đó là lý do
tại sao các cộng đoàn tu sĩ ở khắp nơi trong đại gia đình Hội Dòng phải là một
linh tượng (icon) của đời sống Ba Ngôi cho GH và thế giới hôm nay: trong
các cộng đoàn phải có sự hiệp nhất giữa
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.[37]
(iv) Nhà thần
học D. Bonhoeffer trong tuyệt tác Sanctorum
Communio (1963) [38] đã có ý niệm rất quan trọng
về Giáo Hội, hay một Cộng Đồng Kitô nào khác: Giáo Hội là Cộng Đồng Duy Nhất
trong đó mạc khải Thiên Chúa được hiện thực và hình thành.[39]
Chính vì thế, mối quan hệ
xây dựng trên tình yêu phải chiếm vị trí ưu tiên trong sứ mạng. Một tình
yêu hỗ tương.
Như mỗi một ngôi vị trong Ba
Ngôi, không có hiện hữu nào khác hơn là hiện hữu qua và cho hai ngôi vị kia. Hiện
hữu cho một người là một quà tặng, ngang qua người khác là tiếp đón. Tiếp đón
là cho đi, cho đi là yêu thương… Mầu
nhiệm Ba Ngôi giải nghĩa toàn bộ các hiện thân của con người trong cuộc sống hiện
sinh của nó.[40]
4) Tôi – Bạn – Chúng Ta.[41] Tai sao tôi phải quan tâm về
chính mình? Tôi không có nhiệm vụ phải nghĩ về mình. Nhiệm vụ của tôi là nghĩ
về Chúa. Việc của Chúa là quan tâm về tôi (Simone Weil).
Ngôi vị “Ngài” của Thiên Chúa không tách rời
với cái “Tôi” mỏng giòn sẽ rời khỏi cuộc đời trần thế và cái “Chúng Ta” tạo nên
bởi các người thánh hiến mà với họ các đấng sáng lập đã hiện diện để dấn thân
phục vụ các người nghèo và đặc biệt các người trẻ nghèo xa ơn cứu độ.
4. Một Cái Nhìn Thần Bí về Giáo Hội:
Một GH Phục Vụ[42]
Yêu mến Giáo
hội này, ở lại trong Giáo hội này, hãy là Giáo hội này
(Augustinô).
1) Trong xã hội ngày càng tục hóa, những người thánh hiến cần một
cuộc hoán cải mang tính mục vụ, một
canh tân trở lại với Tin Mừng bước theo Thầy Yêsu như người môn đệ:
(i) Đó là: một GH Hiệp Thông (koinonia): cởi
mở, gần gũi, tiếp đón, đơn sơ và khiêm tốn; (ii) một GH Phục Vụ và Chữa Lành (diakonia), không bạo lực,[43]
được mời gọi xây dựng và chứng nhân
cho một GH nghèo và cho người nghèo, dám chạm đến xương thịt Đức Kitô trong những
ai đau khổ;[44]
và (iii) một GH loan báo Tin Mừng (kerygma) “thời thuận tiện cũng như không
thuận tiện” để cho mọi người có thể cảm nhận được lòng nhân từ của Chúa Cha,”Đấng
chậm bất bình và giàu lòng xót thương.” (Tv 86, 5. 15).
2) Và đó là một cuộc hoán cải dẫn đưa chúng ta xây dựng một
Giáo Hội đặt trên Chúa Yêsu Kitô như viên đá góc tường: (i) Tránh kiểu tự cung tự cấp tự mãn (tự tham chiếu,
self-referential), lòng hoài cổ, một kiểu xã hội không tưởng kỳ dị, chủ bại, tìm kíếm hiệu năng và hiệu
quả như là giá trị tự thân, quên tính mỏng dòn của mình; (ii) Một hoán cải, đưa
đến một GH, nơi con người quan trọng hơn là
các cấu trúc, quy định và nghi lễ, tựa
cách sống của Thầy Yêsu.
3) Đức Hồng Y Martini
giáo chủ Milanô, đã từng nói với chúng ta về một Giáo Hội đang mệt mỏi mất tính
năng động. (i) Còn Đức Phanxicô, luôn nhắc lại rằng ngài thích một Hội Thánh bị bầm dập, bị tổn thương và nhơ
bẩn vì phải dấn thân ra ngoài các đường
phố, hơn là một Hội Thánh hành chánh... chỉ quan tâm đến việc nằm ở trung
tâm và cuối cùng bị vướng vào một mạng lưới của những cố chấp và thủ tục;[45] (ii) Ngài vạch ra rằng
“những cám dỗ ảnh hưởng đến những người làm mục vụ” là “chủ nghĩa cá nhân, một cuộc khủng hoảng về căn tính và làm cho lòng
nhiệt thành bị nguội đi;” (iii) Theo ngài mối đe dọa lớn nhất là “chủ nghĩa thực dụng màu xám của cuộc sống hàng ngày của Hội Thánh, trong đó tất cả có
vẻ tiến hành bình thường, mà trên thực tế đức tin đang bị mệt mỏi.”[46]
4) Chính vì
thế, người môn đệ phải “phục hồi sự tươi
trẻ ban đầu của Tin Mừng, dám tìm “những
đại lộ mới” và “những nẻo đường mới
sáng tạo,” mà không phải giam hãm
Đức Yêsu trong “những phạm trù nhàm chán” của chúng ta.
(i) Đức Phanxicô
cảnh báo chúng ta cần chống lại “tinh thần chủ bại,” và ngược lại, Ngài thôi
thúc các Kitô hữu trở thành những “dấu
chỉ của niềm hy vọng, mang lại một “cuộc
cách mạng của dịu hiền.”[47]
(ii) Alvaro trong Thư Mục Vụ 2014 cũng nói tương tự, nhưng một cách
cụ thể: anh em chúng ta có thể và bổn phận
làm tươi trẻ lại GH; Vì chúng ta có một vinh
dự riêng để phục vụ các trẻ em và người trẻ, là những người mà niềm hy vọng, năng lực và sự rộng mở đến một tương lai
tuy còn đầy ẩn số, nhưng chúng ta phải để bị “tiêm nhiễm” bởi chúng.
(iii) Vì sứ mạng chúng ta trong GH tiếp tục là cần thiết và luôn hợp
thời. Vượt quá các khác biệt văn hóa và tôn giáo, chúng ta cần lặn ngụp vào kinh nghiệm nhân sinh của người trẻ và tìm trong
đó một sự mở ra với Tin Mừng vốn có khả năng thật sự chạm đến đời sống và đặt
chúng ta vào sứ mạng phục vụ vốn đến từ Thiên Chúa, Đấng muốn mọi người được cứu
độ (1 Tm 2.3).
5. Để Sinh Hoa kết Quả Tốt Đẹp Cần
Một Lòng Mộ Mến Nhiệt Thành với Chúa Yêsu[48]
Hãy hướng mắt chúng ta về Đức Yêsu, Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin (Dt 12, 2).
Đó là bởi vì, như Đức Phanxicô quen nói,
tình yêu của Thiên Chúa có một cái tên và
một gương mặt: đó là Đức Yêsu Kitô. Đi
theo Đức Kitô có nghĩa là sống một linh đạo Nhập Thể vốn giúp ta hình thành và
sống kinh nghiệm về một Thiên Chúa đã thành xương thịt một cách cụ thể trong lịch
sử.
Các nhà thần học linh đạo thường khuyến
khích chúng ta sử dụng các phương thế độc đáo giúp chúng ta giữ gìn sống động
ngọn lửa yêu mến Chúa Yêsu: Bí Tích Thánh Thể và Nguyện Gẫm.
1) Varillon[50]
đã có một câu nói thật tuyệt vời: Thánh
Thể là tóm tắt mọi sự, là điểm khởi đầu của mọi ngã phân kỳ và đồng quy. Nó
có nghĩa là sự hiệp nhất giữa Thiên Chúa và con người trong Đức Kitô; là quá khứ, hiện tại và tương lai; là tự
nhiên và lịch sử; là tiếp đón và dâng hiến; là cái chết và sự sống.
2) Thánh Thể giúp người thánh hiến chúng
ta nhen nhóm lại mỗi ngày một cách bí tích dây
liên kết, sự hiệp thông với anh em của
chúng ta, với trẻ em và người trẻ, với
cả nhân loại. Vì khi ta ăn Thân Thể Đức
Kitô ta hội nhập vào nhân loại (Augustinô).
3) Đức Yêsu đã gán cho bữa ăn một tầm
quan trọng đặc biệt, như là nơi chốn thân
mật để tham gia vào Nước Trời và giúp người thánh hiến sống niềm vui như là
tu sĩ, một niềm vui chan hòa biết san sẻ và cho đi.
4) Thánh Thể cũng giúp chúng ta mỗi ngày
được lắng nghe Lời Chúa và để ta bị thách
đố bởi Lời đó: Lời mời gọi chúng ta nói lên “amen” với ý Chúa Cha theo
gương Đức Yêsu, Con Một Ngài, Đấng đã từng nói: “Lương Thực của Thầy, đó là thi
hành ý muốn của Chúa Cha,” và nhờ đó ta được hiệp thông với chính Đấng, là
Logos của Cha. Đồng thời, từ bàn tiệc Thánh Thể này chúng ta ý thức được bản
thân ta cũng là người nghèo, được Chúa Cha trao cho bánh “siêu bản thể,”[51]nên
từ đó cần biết chia sẻ bánh ta nhận được cho người nghèo.
1) Gương mẫu tuyệt hảo của thinh lặng và cầu nguyện riêng là chính
Chúa Yêsu. Tin Mừng nhiều lần lặp lại rằng Chúa Yêsu lui ra một nơi thanh vắng
để cầu nguyện và đây là một luận chứng thuyết phục nhất cho chúng ta rằng Chúa
Yêsu cầu nguyện, rằng việc cầu nguyện là một phần của cuộc đời Ngài.
2) Việc cầu nguyện của chúng ta, thay vì dựa trên quá nhiều lý
thuyết hay kỹ thuật, cần tập trung về con người của Chúa Yêsu. Chúng ta có thể
thêm một lý do hiện sinh cho điều xác quyết trên.
(i) Mỗi một người thì độc
đáo duy nhất trước Thiên Chúa, nên mỗi một người có một phương thế riêng để hiện diện trước Chúa, Đấng luôn đối xử với
chúng ta trong một cách thức cá nhân, Đấng gọi
chính tên tôi từ trước khi tôi sinh ra và ghi khắc tên tôi trong lòng bàn tay
Người (Cf. Is 49.1-16);
(ii) Cho nên, cầu nguyện cộng đoàn thì không đủ cho dù nó rất quan
trọng và cần thiết. Cầu nguyện cá nhân và gặp Chúa một mình cũng là điều cơ bản
và phải là một phần của đời sống hàng ngày. Cộng đoàn phải cổ vũ cho điều này
và đó cũng phải là một phần của chương
trình cá nhân hàng năm.
(iii) Đó là tại sao trong trường học của Đức Yêsu mỗi một người
chúng ta phải trở nên một thầy dạy và một chứng nhân về cầu nguyện, như Chúa
Yêsuvới các môn đệ, trong một cách thế để học trò của chúng ta có thể nói,
“Thưa thầy/cô/cha, hãy dạy con cách cầu nguyện.” [53]
Toàn thể sự
hiện hữu của Đức Maria là một bài ca của sự sống, một bài ca tình yêu của sự sống
(ĐGH Phanxicô)
1) Đức Maria trước hết, là mạc
khải của Thiên Chúa: Người không
tách rời khỏi mầu nhiệm Thiên Chúa-Ba Ngôi, nền tảng và cùng đích của ơn gọi của
mỗi chúng ta như là người thánh hiến.
Vì các người sống đời thánh hiến có thể khám phá rõ hơn ý nghĩa của
chính sự hiến dâng của bản thân trong lời “Fiat” triệt để mà Đức Maria đã thưa
với Thiên Chúa. Họ có thể học hỏi nơi Người sự dễ dạy đối với Thần Khí là Đấng
đã làm cho họ nên giống Đức Kitô, nhờ lòng tin, cậy, mến và hướng họ về cùng
Chúa Cha là nguồn mạch mọi sự lành và cùng đích mọi họat động tông đồ.[55]
2) Chúng ta đến với Đức Maria, mẹ của các tu sĩ, với lòng trìu mến
con thảo sâu sắc. Người hiện diện trong suốt dòng lịch sử cứu độ của mỗi con
người chúng ta (phàm tục lẫn linh thánh), trong hành trình ơn gọi của ta.[56] (i) Người là bí tích của sự dịu hiền qua tình yêu mẫu
tử của Đức Mẹ.[57] Thiên Chúa
chọn Người để thể hiện trong con người của Mẹ khía cạnh mẫu tử đó; (ii) Người
là Trinh Nữ, nhưng lại là Mẹ. Karl Barth đã nhấn mạnh rằng sự
trinh nguyên của Đức Maria là bài ca cho sự ưu việt cao vời của Thiên Chúa, cho
cái duy vinh quang Thiên Chúa; (iii)
Người còn là mẫu nhân loại lý tưởng.
Đức Mẹ còn chính là sự mời gọi chúng ta sống và tái khám phá
giá trị của khía cạnh nữ tính trong
chúng ta và văn hóa chúng ta.[58] Người hiện diện trong các
biến cố quan trọng của nhân loại (tại Nazareth, Bêlem, nơi đền thờ, Cana, trên
bước đường rao giảng của Con Người, dưới chân thánh giá, tại lễ Hiện Xuống, tại
những thánh địa…(iv) Vì lẽ đó, Đức Maria cũng là hy vọng của các dân tộc, là cội nguồn niềm vui. Trong Người chúng
ta tìm thấy mọi điều mà chúng ta muốn trở thành; (v) Mẹ Maria, cuối cùng, là con
đường độc đáo để sống trọn vẹn đời thánh hiến của chúng ta[59];
(vi) Đó cũng là điều thánh Yoan Lasan khuyên nhủ cho người nguyện gẫm, khi ngài
nói chúng ta hãy mở lòng ra cho Lời, để có thể truyền đạt Lời cho người khác,
vì chỉ bằng cách đó ta trở nên Nhà Tạm của Lời Chúa, bí tích của sự hiện diện
của Thiên Chúa, như Mẹ Maria: Tôn kính Đấng Trinh Nữ như là nhà tạm của đền
thờ sống động mà Thiên Chúa đã dựng nên và tô điểm bằng chính tay Ngài.[60]
Chúng ta
không nên sợ hãi lòng tốt hay sự dịu dàng (ĐGH Francis)
1) Theo Alvaro, hiệp nhất mật
thiết là một diễn ngữ vượt quá đời sống
trong cộng đoàn. Sự hiệp nhất mật thiết, ngài giải thích, tựa như một người
đang sống trong tình yêu của Thiên Chúa-Ba Ngôi, một Thiên Chúa không là gì
khác ngoài tình yêu: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin
vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời (Ga 3, 16)
2) Sự diễn tả này là mạnh mẽ
và hấp dẫn. Nó gợi đến lời cầu nguyện linh mục của Chúa Yêsu vào lúc chia
tay các môn đệ. Ngài khuyên nhủ các môn đệ phải yêu mến nhau, như Ngài yêu họ.
Người sống đời thánh hiến được mời gọi để sống trong cộng đoàn.
Chính vì thế không có gì khác để mỗi người sống trong cộng đoàn, là phải cầu
xin thiết tha với Đức Yêsu để xin Ngài ban cho họ phải hiệp nhất lòng trí với
các anh/chị em của họ trong cộng đoàn. [62]
Nhưng họ
cũng xác tín rằng chỉ có Thánh Linh, Thiên Chúa của các tâm hồn, mới có thể gìn
giữ con tim của họ và con tim của các anh/chị em trong cộng đoàn làm một trong
trái tim của Đức Yêsu, nghĩa là được sự hiệp nhất. [63] Và
chỉ bằng phương cách hiệp nhất này mà họ đạt được bình an vốn là cội nguồn của niềm vui trong cuộc đời của người
thánh hiến.
3) Sự hiệp nhất mật thiết này không phải là một tình yêu kiểu
Platon, hay kiểu tình yêu trừu tượng “trên trời,”[64]nhưng là tình yêu hiện
sinh thật sự, cần được bày tỏ và diễn đạt ra.
Kết Luận
Nếu anh/chị
em không làm điều đó cho chúng con, ai sẽ làm?
1) Tu sĩ
chúng ta hiện hữu trong dòng chảy của thế giới, không phải là để quy chiếu về
chúng ta. Các lời khấn đẩy chúng ta đến với các người nghèo, người không có
tiếng nói trong xã hội, với các người trẻ, các trẻ em dễ bị tổn thương, và
những người ít được yêu mến và quan tâm nhất. Nếu chúng ta không làm, ai sẽ làm? Vào thời điểm này của lịch sử
chúng ta, cái ý tưởng “chúng ta” đã mở rộng cửa cho cho các người trẻ tình
nguyện, các giáo dân liên kết và hợp tác.
2) Đàng khác, khi dấn thân, “chúng ta có một mẫu mực khác, đó là
Con Thiên Chúa, là người thật. Ngài là
thước đo của chủ nghĩa nhân bản đích thật.”[65] Chỉ có Ngài mới cho chúng
ta cảm nhận được thế nào là một đức tin trưởng thành, một đức tin xốc vác đến
trước không sợ khó, can đảm tiến bước vì Đức Chúa đã hứa ở với ta đến tận cùng
thế giới, vì lúc nào Ngài vẫn nói với chúng ta: “ơn ta đủ cho con.”
3) Một cách thật thực tế Đức
Benedict XVI cho rằng,
Đức tin “trưởng thành” không phải là
một đức tin trôi theo những làn sóng thời thượng hay mốt mới. Đức tin với vóc
dáng đầy đủ và trưởng thành là một đức
tin ăn rễ sâu xa nơi tình bằng hữu với Chúa Kitô. Đó là tình bằng hữu mở
lòng chúng ta cho tất cả những gì là thiện hảo và cho chúng ta những tiêu chuẩn
để phân biệt giữa đúng và sai, giữa giả trá và chân thật. [66]
Vì thế người
tu sĩ chúng ta phải đạt đến mức trưởng thành trong đức tin chín chắn này, và
chỉ khi đó, khi phải hướng dẫn đàn chiên Đức Chúa giao cho chúng ta, chúng ta
mới có khả năng dẫn chúng đến với đức tin này, và chỉ có đức tin ấy kiến tạo sự
hiệp nhất được thực hiện trong đức bác ái.[67] Và cuối cùng, chỉ khi đó
chúng ta mới đem lại được sự sống và sự sống dồi dào như Thầy Yêsu đã hứa.[68]
Mặt Trăng và Đất Mẹ
Tài Liệu Tham Khảo
Álvaro
Rodríguez Echeverría (25/12/2013). Được
Thánh Hiến Bởi Thiên Chúa Ba Ngôi Như Một Cộng Đoàn Sư Huynh, Thư Mục Vụ.
(Bản dịch của F. Vincent Nguyễn Anh Quân). SàiGòn: Signum Fidei Tu Thư.
Conn,
W.E. (1978). Hoán cải: Viễn tượng về sự
biến đổi cá nhân và xã hội. (bản dịch của V-L. Nguyễn Hữu Quang)
Gelpi,
Donald L. (1998). The Conversion
Experience. NY: Paulist Press.
Lonergan,
Bernard (1994). Method in Theology.
Toronto: University of Toronto Press
Osborne,
Kenan (2009). A Theology of the Church for the Third Millennium: A Franciscan
Approach. MA: Library of Congress.
[1] Zen-Jesus-Mary.jpg
[2] Yoan Phaolô II (số 54). Novo Millenio Ineunte,
6/1/2001.
[3] Thánh Augustinô: "Luna intellegitur Ecclesia, quod
suum lumen non habeat, sed ab Unigenito Dei
Filio, qui multis locis in Sanctis Scripturis allegorice sol appellatus
est": Enarrationes in Psalmos, 10,
3: CCL 38, 42).
[4] Nghĩa là từ Thiên Chúa. Cf. Joseph
Ratzinger (1973). Why I am still in the
Church.
[5] Theological narcissism.
[6] spiritual worldliness (Pháp: mondanité spirituelle, “it is the worst
evil that can come upon the Church”).
[7] Méditation
de L’Église.
[8] Trích dẫn này từ Henri de Lubac được
Bergoglio làm nổi bật trong một bài viết từ
năm 1991 lúc đó ngài chỉ đơn thuần là linh mục dòng Tên, sau được tái bản vào
năm 2005 và đã được phân phối cho các tín hữu và các công dân của thủ đô Buenos
Aires, nơi ngài trở thành Tổng Giám Mục. Cuốn này đã được in tại Ý (trước khi
ngài lên ngôi Giáo Hoàng) dưới tựa đề “Guarire dalla Corruzione” (Chữa Lành Sự
Bại Hoại).
[9] Theology of mundane.
[10]
http://z9.invisionfree.com/csnt/ar/t512.htm
[11] Ibid. Bài giảng trong thánh lễ khai mạc Cơ Mật Viện
(18/4/2005).
[12] Gelpi. (1978). Kinh Nghiệm về TC: Một thần học về sự xuất
hiện nhân bản. W.E Conn (1978). Hoán
cải: Viễn tượng về sự biến đổi cá nhân và xã hội.
[13] Self.
[14] B. Lonergan (1994, tr.104-5).
[15] Chúng là những phương tiện tốt lành
nhưng không thể thay thế sự khắc khổ khi bước theo Đức Kitô với những từ bỏ cần
thiết.
[16] Fundamentalism.
[17] Không phải ngẫu nhiên mà một biểu tượng tuyệt vời của Đức
Maria chính là mặt trăng.Trong cuộc sống của mình, Người để cho Đức Giêsu Con của
Người tỏa sáng trên tất cả các con cái Thiên Chúa và mọi tạo vật.
[18] được Đức Phanxicô nhắc lại trong bài
diễn văn tại hội nghị Mật Tuyển Viện, trước khi được bầu làm Gíao Hoàng
(13/3/2013).
[19] Alvaro, Bề Trên Tổng Quyền Dòng Lasan,
Thư Mục Vụ 2014.
[20] Ngày 9/8/2013.
Cf. TMV, tr. 1.
[21] in a narcissistic way. Cf. TMV, tr. 2.
[22] Đấng Lập Dòng
Các SH Trường Kitô (Brothers of the Christian School).
[23] TMV, tr. 2.
[24] Khó mà tách biệt
điều này với điều kia mà không phải là chủ nghĩa giảm trừ (reductionist). Ibid.
[25] Được tôn vinh Chân Phước vào ngày 19/10/2014 nhân dịp
kết thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục Đặc Biệt lần III về Gia Đình. Ngài có thể được
tôn vinh Hiển Thánh vào năm 2015, nhân dịp kỷ niệm 50 năm bế mạc Công Đồng
Vatican II (1965-2015) và cũng là 50 năm khởi sự Thượng Hội Đồng Giám Mục.
[26] Theocentric.
[27] Cf. TMV, tr. 2.
[28] Cf. VL NH Quang (2014, tr. 30-34). Làm Thần Học-làm Mộn Đệ. Ch II. Sàigòn:
Signum Fidei Tu Thư.
[29] Xuất Hành (6, 3) gọi Ngài là El-Shaddai,
“Thiên Chúa ở nơi cao.”[John L. McKenzie (1995, tr. 316). God.] Theo huyền thoại
Sêmit, El- Shaddai: “Đấng Ngự Trên Núi Cao.” Ngoài ra còn có nghĩa Thiên Chúa
Toàn Năng, Đấng Nuôi Dưỡng. Cf. D. R W. Wood (2005, tr. 420-421). God, Names of. PV các Giờ Kinh dịch là Thiên Chúa Toàn Năng) Các tổ phụ thường
lập bàn thờ trên núi để kính Thiên Chúa [Ví dụ Abraham ở Beth-El (St 12, 8), ở
núi Moria tế lễ Isaac (St 22, 1.14); Môsê chăn chiên bên kia sa mạc, đến núi
Horeb, núi của Thiên Chúa (Xh 3, 1); Dân Israel vào chiếm hữu đất sẽ đặt lời
chúc phúc trên núi Garizim và lời nguyền rủa trên núi Evan (Đnl 11, 29); Nhưng
sau khi hủy diệt thành Ai, Yoshua dựng bàn thờ kính Chúa trên núi Evan (Giosuê
8, 30); những nơi cao biệt đãi mà con người gặp gỡ Thiên Chúa: Núi Sinai (Xh
19, 3. 16. 24; Núi Sion (Tv 68, 16; 84, 5. Sau này đền thờ Yêrusalem ở trên núi
Sion…]. Cf. J. R. Donahue & D. J. Harrington (2002, tr. 212). The Gospel of Mark (Sacra Pagina).
Minnesota: The Liturgical Press.
[30] Ngài đưa các môn đệ lên núi cao (Mc 9, 2); (Mt 17, 1) và đang lúc cầu nguyện Ngài biến hình trước
các môn đệ (Lc 9, 28-29); Ngài lánh lên núi cầu nguyện sau phép lạ hóa bánh ra
nhiều (Mc 3, 45-46; Mt 14, 22-23; Ga 6, 15…); Ngài ban hiến chương Nước Trời từ
trên núi, tựa như một Môsê mới (Mt 5,
1); Ngài cầu nguyện trên núi Oliu
trước cuộc tử nạn dữ dội (Lc 22, 34.41.45; Mc 14, 26.32; Mt 6, 30.36.39); Ngài
đưa nhóm mười một môn đệ lên núi tại
Galilê và trao sứ mạng rao giảng cho các ông (Mt 28, 16). Và có lẽ Ngài lên
trời từ núi Olive, vì Luca kể lại
trong Công Vụ các Tông Đồ (1, 12) sau khi Chúa lên rời: “Bấy giờ các ông từ núi
gọi là núi Ôliu trở về Giêrusalem. Núi này ở gần Giêrusalem, cách đoạn đường
được phép đi trong ngày sabát.”
[31] A prayer event. Cf. J.
Ratzinger (tr. 194). Op. Cit.
[32] Đức Benedict đã nói tương tợ về con
người cách chung, trong buổi lễ đăng quang giáo hoàng (26/4/2005) của Ngài:
“Chúng ta không phải là một sản phẩm ngẫu nhiên và vô nghĩa của tiến hóa. Mỗi người chúng ta là kết quả của một sự suy tư của Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta được mong đợi, mỗi người chúng ta được yêu mến, mỗi người chúng ta là một sự cần thiết.”
[33] TMV,
tr. 6.
[34] Cf.
Álvaro Rodríguez Echeverría. Được Thánh
Hiến Bởi Thiên Chúa Ba Ngôi Như Một Cộng Đoàn Sư Huynh. Thư Mục Vụ (TMV) tr. 1, 25/12/2013).
[35] GLHTCG, số 255.
[36] Thánh Bernard, The Book of God’s Love,
c. 12, n. 35: PL 182, 996B.
[37] NG 39, 3.
[38] Tài Liệu Posthumous (in sau khi tác giả
chết).
[39] Câu nói thời danh này áp dụng vào đời tu
rất có ý nghĩa cho đời sống Cộng Đoàn. Khi có mâu thuẫn trầm trọng trong Cộng
Đoàn mà các biện pháp cùng các phương tiện của nhân loại: xã hội học, tâm lý
học, phân tâm học, tâm lý trị liệu…không giải quyết được, thì còn biện pháp
đụng tới tận chiều sâu thẳm của con người: Câu hỏi, (1) CĐ còn có thể để cho
mạc khải Thiên Chúa đến được không? (Nghĩa là còn để cho Thiên Chúa đến
không?); (2) CĐ còn có để cho Ngài hiện thực điều Ngài muốn tốt nhất cho CĐ?
[40] linh mục
Varillon, một tu sĩ Dòng Tên người Pháp.
[41] TMV,
tr. 8.
[42] TMV,
tr. 9.
[43] Cf. tài liệu Aparecida, 278.
[44] Đức
Phanxicô nói:”Ngưởi được mùi của con chiên.”
[45] Tông
huấn Niềm Vui Tin Mừng, số 49.
[46] The grey
pragmatism of the daily life of the Church, in which all appears to proceed
normally, which in reality faith is wearing down.
[47] A revolution of tenderness.
[48] TMV, tr. 13.
[49] TMV, tr. 14.
[50] Cha François Varillon (1905-1978), dòng
Tên, sinh và chết tại Lyon. một bậc thầy linh đạo chuyên hướng dẫn các khóa
linh thao cho linh mục, tu sĩ và giáo dân, một nhà giảng thuyết sáng giá trong
khắp nước Pháp, đã thiết lập những nhóm giáo dân sống đạo.
[51] Lời cầu thứ tư: Xin Cha Ban cho chúng con hôm nay “bánh “epiousioV” (=
supersubstantia (Latinh), thánh Yêrôme trong Vulgata). Diễn ngữ “chúng ta”nói
lên tính cộng đồng. Bánh ta nhận được là cho cộng đồng nữa chứ không phải giữ lại
cho riêng ta.
[52] Trong di chúc,
thánh Yoan Lasan chia sẻ với các SH điều xác tín của đời ngài được diễn tả
trong luật Dòng năm 1718: Các Sư Huynh của
Dòng này phải có một lòng mộ mến lớn lao với việc nguyện gẫm và họ phải xem nó
như công việc đầu tiên và chính yếu trong các việc thường ngày và là một
cách hữu hiệu nhất để thu hút chúc lành
của Thiên Chúa hơn tất cả các phương thế khác.
[53] Ví dụ Phương pháp Nguyện Gẫm của Lasan
được gợi hứng từ phương pháp Xuân Bích bắt đầu từ cha Olier và có 3 bước cơ
bản:
(1) Đặt Chúa Yêsu trước mắt ta, nhìn xem Ngài
chiêm ngưỡng Chúa Cha, tôn vinh Danh Cha, như lời câu cầu xin đầu tiên của Kinh
Lạy Cha. Đó chính là tôn thờ (adoration); (2) Đặt Chúa Yêsu trong tim
ta, và như vậy bước vào sự kết hiệp (union) và gắn bó với Chúa Kitô,
để trong giây phút ưu tuyển này Ngài đổ đầy trên ta sức mạnh biến đổi và trao ban
sự sống thần linh của Thần khí Ngài,
và để ta mở lòng đón nhận “Nước Cha trị đến”; (3) Đặt Chúa Yêsu trong tay ta
là sự hợp tác, và đó là câu cầu nguyện thứ ba của Kinh Lạy Cha, “Ý
Cha thể hiện.” Nhưng sự hợp
tác đúng hớn là sự mở lòng đón nhận quà tặng từ Thiên Chúa và tác động của Thần
Khí hơn là nỗ lực của riêng chúng ta và để chương trình của Ngài được thực hiện
nơi chúng ta.
[54] TMV. Tr. 17.
[55] Cf. Luật Dòng FSC, 76
[56] Người luôn luôn là Nữ Hoàng và Mẹ, Đức Bà Ngôi
Sao Sáng của Các Trường Học Kitô giáo, đấng bảo trợ chính của các Hội Dòng:
chúng ta đặt mình dưới sự che chở của Đức Mẹ mỗi ngày khi ta kêu cầu Người vào
cuối giờ kinh nguyện sáng tối và sau mỗi giờ nguyện gẫm. Chúng ta trông cậy vào
Đức Mẹ, đặt hoàn toàn nơi Mẹ lòng tín thác của chúng ta, sau Thiên Chúa. Yoan
Lasan. Sách Nguyện Gẫm (số 151, 3).
[58] Nếu như AE phải
cho chúng sự kiên quyết của người cha để kềm chế và lôi kéo chúng ra khỏi tật xấu,
anh em cũng phải có sự dịu dàng của người
mẹ để kéo chúng về với anh em, và làm cho chúng mọi điều tốt lành vốn tùy thuộc
nơi anh em.Cf. (NG 101, 3)
[59] Luật Dòng của FSC khẳng định: Các SH khám phá rõ hơn ý nghĩa của việc
hiến thánh của mình trong lời “Xin Vâng”triệt để Mẹ đã thưa với Thiên Chúa
(Luật, 76).
[60] NG 191, 3.
[61] Close union. TMV, tr. 25.
[62] Cf. Yoan Lasan. Nguyện Gẫm 39, 3.
[64] A disembodied love.
[65] Bài giảng của ĐHY Josheph Ratzinger
trong thánh lễ khai mạc Cơ Mật Viện (18/4/2005). Cf
http://z9.invisionfree.com/csnt/ar/t512.htm
[66] Bài giảng của ĐHY Josheph Ratzinger
trong thánh lễ khai mạc Cơ Mật Viện (18/4/2005). Cf
http://z9.invisionfree.com/csnt/ar/t512.htm
[67] Về vấn đề này, thánh Phaolô mang lại cho chúng ta những lời
thật đẹp, trái với những lời vòng vo lên xuống của những kẻ như trẻ thơ bị vùi
giập theo làn sóng. Cf. Bài giảng của ĐHY Josheph Ratzinger trong thánh lễ khai
mạc Cơ Mật Viện (18/4/2005).
[68] Ngài nói hãy thực thi chân lý trong tình
bác ái, vì đó là công thức căn bản cho sự hiện hữu Kitô Giáo. Chân lý và yêu
thương đồng quy nơi Đức Kitô. Chân lý và bác ái đồng nhất với nhau tùy theo mức
độ gần gũi của chúng ta với Chúa Kitô trong cuộc sống của chúng ta. Tình yêu mà
không có chân lý chỉ là tình yêu mù quáng; chân lý mà không có yêu thương chỉ
là “não bạt phèng la” mà thôi (1 Cr,13,1).
Đăng nhận xét