Lửa hy vọng


Dẫn nhập
Chúng ta hãy tưởng tưởng mình đang trên một con tàu lênh đênh giữa biển cả, giông tố gào thét, bầu trời mù mịt không một ánh sao; trên tàu lại không có la bàn, mọi người tìm cách chống chọi với sóng gió, và hoàn toàn lạc hướng. Trong trường hợp như thế, chúng ta hoang mang và sợ hãi đến cực độ, mạng sống và cái chết gần kề. Và rồi, ô kìa, không xa mạn phải thuyền bao nhiêu, ánh sáng của ngọn hải đăng lập loè trong gió bão. Nhìn thấy ngọn hải đăng, mọi người biết rằng mình đã có cơ hội sống.
Niềm hy vọng chính là ngọn hải đăng ấy. Trong cuộc đời đầy phong ba bão tố này, con thuyền đời ta không ít lần tròng trành, lạc hướng; không ít phen ta muốn buông xuôi bỏ cuộc vì quá mệt mỏi, chán chường; hơn một lần ta bị thương tích, ngã quỵ, chúng ta có thấy niềm hy vọng như ngọn hải đăng có thể dẫn lối để ta vào đất liền bằng an hay không ?
Con người ngày nay đang mất dần niềm hy vọng, mất dần lòng tin tưởng vào Chúa. Còn chúng ta, Chúa cấm chúng ta thất vọng. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống, chúng ta vẫn được mời gọi vươn lên, mời gọi tín thác vào lượng hải hà của Chúa. Hơn thế nữa, chúng ta còn được mời gọi trở nên dấu chỉ của niềm hy vọng cho con người thời đại hôm nay; và chúng ta phải luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của chúng ta.
Muốn sống được niềm hy vọng như thế, trước tiên chúng ta cần đọc thấy đời mình trong dòng lịch sử cứu độ.
I. Đọc thấy đời mình trong dòng lịch sử cứu độ
1. Lịch sử cứu độ : lịch sử của lời hứa
Có thể nói, khởi đầu lịch sử cứu độ là một lời hứa. Ngay sau khi nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã hứa sẽ không bỏ nhưng cứu độ con người. [1] Và rồi trong suốt dòng lịch sử thăng trầm ấy, Thiên Chúa tiếp tục hứa hẹn: Thiên Chúa hứa sẽ không giáng phạt con người bằng cơn đại hồng thuỷ nữa,[2]sẽ cho ông Abraham một dòng dõi đông như sao trời cát biển,[3] sẽ cho cho xuất hiện một Vị Cứu Tinh từ dòng dõi vua Đavít[4]
Con người của mọi thời phải nhận thấy lịch sử đời mình qua dòng sử cứu độ này, và một thực tại được tỏ bày: con người được Thiên Chúa yêu thương. Dung mạo một Thiên Chúa yêu thương được tiệm tiến mặc khải cho con người. Trong mỗi khúc quanh của lịch sử, Thiên Chúa lại tỏ bày rõ nét hơn dung mạo yêu thương và kế hoạch cứu độ của Người. Kế hoạch này được thể hiện qua Đức Giêsu Kitô, Đấng là kết tinh của lời hứa, là Con Chí Ái của Chúa Cha. Đức Giêsu đã đến cắm lều ở trần gian để trở nên bạn nghĩa thiết của con người, yêu thương và cứu chuộc họ. Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa Cha được mặc khải một cách trọn vẹn là Đấng giàu lòng thương xót và rất mực thứ tha. Qua những bước thăng trầm, đặc biệt những lúc lịch sử con người trở nên đen tối nhất, Thiên Chúa lại được tỏ lộ như Vị cứu tinh, là niềm hy vọng, là ánh sáng dẫn lối con người tiến bước. Khi con người chìm ngập trong tội lỗi, Thiên Chúa được tỏ bày là Đấng Thánh Thiện muôn trùng, thương xót vô cùng và thứ tha tất cả.
Qua lịch sử cứu độ, chúng ta có thể thấy được nhiệm cục tình thương Thiên Chúa thể hiện nơi con người. Khởi đầu là con người được tạo dựng và yêu thương, và rồi con người với những bước chân lầm lỡ đã thất trung và phản bội. Trong đau khổ con người đã hồi tâm sám hối, Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương qua việc thứ tha. Và chóp đỉnh của tình thương ấy là Thiên Chúa đã ban chính Con Một của mình để giao hòa nhân loại với Người và ban cho nhân loại ơn cứu độ.
2. Lịch sử cứu độ : lịch sử của lòng thành tín và yêu thương
Như đứa con là kết qủa của tình yêu cha mẹ, mỗi chúng ta và cả nhân loại này cũng thế, là kết quả tình yêu của Thiên Chúa. Vì yêu thương Thiên Chúa đã sáng tạo con người, để cho con người được thông chia chính sự sống của Người,[5]mang hình ảnh sống động của Người.[6] Con người được tham dự vào quyền sáng tạo của Thiên Chúa, và ngày càng lan tràn trên mặt đất. Thiên Chúa không yêu thương con người một cách chung chung, đại khái, nhưng đó là một tình yêu cụ thể, cá vị ; khởi đầu bằng việc Người chọn Israel làm dân riêng của mình,[7] chăm sóc và bảo vệ dân, dẫn dân đến vùng đất sự sống.
Dân Thiên Chúa được ví như người tình của Giavê, Đức Chúa tỏ tình với dân như người yêu sắp cưới.[8] Cô gái Israel quá được yêu thương nhưng lại vong thân, thất nghĩa, ngoại tình, phản bội Đức Chúa là Đức lang quân. Nhưng cho dù dân có bất trung, Người vẫn trung tín và yêu thương đến cùng. Đức Chúa lại tiếp tục tái lập hôn ước với người vợ bất trung ấy.[9] Thiên Chúa yêu thương cũng được tỏ bày như người mẹ, người mẹ hiền ấp ủ con thơ.[10] Người mẹ trao ban sự sống cho con mình thế nào, thì Thiên Chúa cũng là sức sống cho dân Người như vậy.[11] Con người mắc nợ Thiên Chúa sự sống, sự hiện hữu của mình. Không chỉ con người mà toàn thể vũ trụ này, toàn thể muôn loài thọ sinh đều mắc nợ Thiên Chúa, bởi vì “Tình thương Người chan hòa mặt đất”.[12] Cả thế giới là một bài ca tán dương tình yêu của Người. Đặc biệt tình yêu đó tỏ lộ qua lòng xót thương. Lòng xót thương này cùng một trật cho thấy con người mỏng dòn, yếu đuối, tội lụy và cần đến Chúa biết bao.
Đây là một khúc quanh lớn trong lịch sử của con người. Bao phen con người đã nói “không” với Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vẫn nói “có”, một tiếng “có” tràn đầy mãnh lực yêu thương. Chúng ta thấy điều này lan tỏa trong trong Kinh thánh, đặc biệt trong Tin mừng. Xin lấy ba dụ ngôn tiêu biểu theo Tin mừng Thánh Luca, để thấy dung mạo Thiên Chúa xót thương được Đức Giêsu diễn tả như thế nào.
Dụ ngôn “con chiên lạc”:[13] Thiên Chúa luôn là một Mục tử nhân lành thí mạng sống mình vì đoàn chiên. Người không muốn để một ai hư mất. “Những người Cha ban cho con, con không để hư mất người nào”.[14] Mỗi con người đều có một vị trí, một giá trị tuyệt đối trong trái tim nhân hậu của Thiên Chúa. Vì thế, “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là chín mươi chín người công chính không cần hối cải”.[15]
Trong dụ ngôn “đồng bạc bị mất”[16]: Cái lôgic của Thiên Chúa là cái nghịch lý theo kiểu con người, chỉ một đồng bạc mất, khi đã tìm được thì mời hàng xóm láng giềng, bà con bạn hữu đến ăn mừng. Nếu không đặt vào trong mối tương quan tình yêu, lòng thương xót, thì không thể nào chúng ta cảm được niềm vui tột cùng của người phụ nữ tìm thấy đồng bạc. Bà là hình ảnh của một Thiên Chúa đang kiếm tìm và gặp được lời đáp xin vâng của con người.
Đỉnh cao của ba dụ ngôn về lòng thương xót là dụ ngôn “người cha nhân hậu”.[17] Qua dụ ngôn này, dung mạo của một Thiên Chúa yêu thương tỏ hiện rõ rệt, Người là Cha, một người Cha rất mực khoan nhân, yêu thương đến tận cùng và luôn tha thứ. Chúng ta bắt gặp nơi đây niềm an ủi lớn lao mỗi khi thấy mình xa rời Thiên Chúa và hồi tâm trở về. Nơi đó vẫn một vòng tay giang rộng, một trái tim thổn thức đợi chờ, chỉ một việc phải làm là người con lăn vào vòng tay Cha, để thấy mình được yêu thương mà thôi. Mọi tội lỗi, mọi bất trung giờ đây đứng trước một tình yêu quá lớn tất cả chẳng con là gì, tất cả nhường chỗ cho hạnh phúc tràn về. Thiên Chúa của chúng ta là như vậy.
Rải rác đây đó, ta vẫn bắt gặp hình ảnh Thiên Chúa gần gũi với con người, đi bên đời họ, chữa lành những đau khổ thể xác và tâm hồn. Đi đến đâu, Người thi ân giáng phúc đến đó, dẫu cho con người khước từ hay vong ơn.
3. Lịch sử cứu độ : lịch sử của những mảnh đời được xót thương
Phúc thay kẻ được lỗi lầm mà được tha thứ,
người có tội mà được khoan dung” (Tv 31).
Ơn thứ tha đã được Cựu ước khắc họa đậm nét. Đavít phạm tội được Chúa thứ tha, [18]ơn thứ tha này cũng được ban cho cho dân Israel khi dân sám hối trở về. Thời Tân ước ơn tha thứ càng được tỏ bày hơn nữa, những người tội lỗi đến với Đức Giêsu đều được thứ tha, những bệnh nhân đều được chữa lành và đón nhận được ơn tha thứ. Người phụ nữ ngoại tình,  Phêrô chối Chúa, Tôma chậm tin, Phaolô ngã ngựa… và rồi cuối cùng, họ cũng nhận ta một điều là Thiên Chúa sẵn lòng thứ tha.
Trên bước đường lữ thứ trần gian hôm nay, hơn một lần chúng ta gục ngã vì tội lụy, có bao giờ quay về với Chúa mà không được thứ tha ! Đó phải là một niềm xác tín, một lời mời gọi chúng ta vươn lên mãi, tin tưởng vào tình yêu và không bao giờ nản lòng và thất vọng. Thiên Chúa vẫn làm những việc diệu kỳ trên những yếu đuối của con người, có những thứ tội trở nên “tội hồng phúc”, vì qua đó, Thiên Chúa lại càng gần gũi, liên lụy với con người hơn. Trong kinh Tin kính chúng ta vẫn đọc, Giáo hội dạy rằng : “Vì loài người chúng ta và để cưú rỗi chúng ta, Người đã từ trời xuống thế”. Thiên Chúa đã đi vào cuộc đời, cùng chung số kiếp với con người, để cảm thông thứ tha và cứu độ. Đỉnh cao của cuộc nhập thể là hy tế thập giá, nơi đó, một con người Giêsu trần trụi đã trở thành lễ vật hiến tế Chúa Cha, để bộc lộ lời thứ tha trọn vẹn và mãi mãi. Bên thập giá, tên trộm lành đã ăn trộm được cả Nước Trời.
Nếu trong Cựu ước Thiên Chúa còn mang dáng dấp một quan tòa ngay thẳng, phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội cha ông của chúng, một Thiên Chúa còn thiên vị, ghen tương, yêu người này và ghét kẻ nọ (yêu Aben và ghét Cain), thì trong thời Tân ước, qua Đức Giêsu, Thiên Chúa được tỏ bày trong dung mạo người cha nhân từ, một người cha mang trái tim người mẹ. Trong trái tim Đức Giêsu, nước mắt và nụ cười, khổ đau và hạnh phúc của con người đều được Người ôm ấp tất cả. Có một Giêsu đã vào cuộc đời và yêu thương con người đến thế.
II. Những bước thăng trầm của đời dâng hiến
1. Những cú “đảo phách” giữa bản trường ca cuộc sống
Cuộc sống không phải lúc nào cũng bằng phẳng, mà dẫu có bằng phẳng, chắc gì đã phải là hay. Ví như bản nhạc lúc nào cũng đều đều, thì chỉ là những nốt nhạc xếp bên cạnh nhau, chứ đâu phải là bản hoà âm, là tác phẩm. Trong bản nhạc, những cú đảo phách là cần thiết. Hay ví như mặt hồ lúc nào cũng yên ả, không một đợt sóng, thì mặt hồ cũng buồn tẻ. Nhiều khi những đợt sóng làm mặt hồ sinh động hơn. Chúng ta không đi tìm những sóng gió trong cuộc sống, nhưng khó khăn ắt sẽ đến. Có những khó khăn nằm thâm căn cố đế trong lòng mình, có những khó khăn do môi trường, xã hội, hay hoàn cảnh tạo nên. Chúng ta đã có kinh nghiệm về khó khăn, hoặc rồi sẽ phải đối diện.
Tôi cố mãi mà sao không hoà nhịp với cộng đoàn được, không thể thương cái thằng sống bên cạnh mình. Mỗi giờ kinh đối với tôi sao mà rời rạc, vô vị quá. Tôi đã cố cởi mở với mọi người, nhưng sao chỉ thấy vỏ ốc đời mình mới là chốn tôi tin tưởng dung thân. Tôi đã rất thận trọng trong mọi mối tương quan, nhưng làm sao vẫn thấy đổ vỡ, hay lệ thuộc. Tôi đã cố gắng vượt qua sự yếu đuối của mình, nhưng sao lỗi phạm mãi vẫn không buông tha tôi. Tôi rất muốn tha thiết với đời tu, nhưng sao bản thân tôi vẫn quá nhiều dính bén tình cảm, danh vọng, tiền bạc… Nếu muốn làm một bản liệt kê những “cú đảo phách” như thế, chắc hẳn chúng ta có thể kể ra đây nhiều hơn nữa.
Dẫu cho có những lúc chúng ta gặp khó khăn, khủng hoảng như thế, hay có thể bi đát hơn nữa, chúng ta không được quyền thất vọng. Tôi rất thích câu nói của cha Timothy Radcliff, nguyên Bề trên Tổng quyền dòng Đa Minh: “Khủng hoảng là dấu hiệu của sự sống”.
Trong cuốn “Những người lữ hành trên đường hy vọng”, Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận có trích lại những tâm tình của cha Charles de Foucauld, đáng để chúng ta suy gẫm :
Dù con xấu xa, dù con tội lỗi, con cũng trông cậy vững chắc rằng con sẽ được lên trời. Chúa cấm con thất vọng về điều đó.
Dù con bội bạc cách mấy, khô khan cách mấy, hèn nhát cách mấy, lợi dụng ơn Chúa cách mấy, Chúa vẫn cứ bắt buộc con phải hy vọng được sống đời đời dưới chân Chúa trong tình thương và sự thánh thiện.
Chúa cấm con ngã lòng trước sự khốn nạn của con. Chúa không cho con nói : “Tôi không thể đi tới được, đường lên trời khó khăn quá, tôi phải thụt lùi và trở xuống chỗ thấp”.
Trước những sa ngã trở đi trở lại của con, Chúa lại cấm không cho con nói: “Tôi không thể sửa mình được, tôi không có sức để nên thánh, tôi không xứng đáng để vào Thiên Đàng…”
Vậy Chúa muốn con phải trông cậy luôn vì Chúa ra lệnh, và vì con phải tin vào quyền năng và tình thương của Chúa.[19]
2. Những dấu lặng cần thiết
Lại trở về với bản nhạc, bản nhạc hay có khi là nhờ những dấu lặng, những dấu lặng làm cho cảm xúc con người được dâng trào, được cảm thụ.
Trong bản nhạc cuộc đời, cũng rất cần những dấu lặng như thế. Nếu thiếu sự hồi tâm, thiếu đời sống cầu nguyện, thiếu những giờ phút thinh lặng chỉ mình mình đối diện với Chúa, thiếu những phút giây hoàn toàn thoát ly mọi công việc để nhìn lại chính mình… thì chúng ta rất khó có thể vượt qua và đứng vững trước sóng gió là những cơn cám dỗ, là những dịp tội, là những đam mê, là những đổ vỡ trong tương quan, là những thất bại trong cuộc sống, là những lúc bị hiểu lầm, chống đối …
Trước những biến cố quan trọng, Đức Giêsu luôn rút vào nơi thinh lặng và cầu nguyện với Chúa Cha. Người cũng mời gọi các môn đệ hãy rút vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi đôi chút. Chúng ta cũng được mời gọi dành những phút giây thinh lặng như thế, để có thể nghe được tiếng Chúa nói với mình trong từng biến cố; và đặc biệt, trong thinh lặng ta được mời gọi đi vào mối tâm giao thân tình với Đức Giêsu, Người là Đấng sẻ chia trọn vẹn mọi thành công và thất bại của ta trong cuộc sống, cùng cung vai gánh vác với ta những gánh nặng phận người. Và chính nhờ vậy, mà khi trải qua đêm tối cô đơn khắc khoải, chúng ta thấy Người là Đấng lấp đầy những khát vọng sâu xa. Có nhiều lúc chúng ta đi tìm những thứ khác (không phải là Người), để lấp đầy khoảng trống, nhưng khốn thay, tâm hồn chúng ta lại bị khoét sâu và vỡ vụn hơn nữa. Trong khoảng lặng của sự cô đơn, chúng ta nhận ra Đức Giêsu là bạn của mình, một người bạn đúng nghĩa. Người hiện diện ở đó, không khuyên lơn, không trách móc, không lên lớp dạy luân lý, không tìm cách kéo ta ra khỏi sự cô đơn, nhưng Người cùng lặng lẽ cảm thông và chia sẻ.
Chính lúc cô đơn tuyệt vọng nhất, đêm tối dày đặc nhất, thì ta lại thấy vỡ òa một ánh sáng linh diệu xuyên thấu tâm hồn mình. Đức Giêsu cũng cô đơn, nhưng không bi lụy, không ngã gục, mà vẫn đi đến trọn hành trình vâng phục : “Xin vâng ý Cha, đừng theo ý con”.[20] Đức Giêsu luôn gần gũi, đồng hội đồng thuyền với chúng ta. Con đường Người đi, không phải là con đường hoa thơm cỏ lạ, nhưng là lối mòn đầy sỏi đá. Con đường đó, chúng ta cũng đang được mời gọi dõi bước.
3. Thiên Chúa : một nhạc sĩ hoà âm tuyệt vời
Trong đêm vọng phục sinh, Giáo hội đã phải thốt lên những lời vui sướng : “Ôi tội hồng phúc”. Thiên Chúa tạo dựng chúng ta cách lạ lùng, nhưng cứu chuộc còn lạ lùng hơn nữa. Theo lẽ tự nhiên, sau khi nguyên tổ phạm tội, là chúng ta thua rồi, vô phương cứu chữa.[21] Nhưng biệt tài của Thiên Chúa là Người có thể vẽ đường thẳng bằng những nét cong ! Thiên Chúa nghệ sĩ là vậy. Hơn thế, Người còn là Cha của chúng ta nữa.
Khi chiêm ngắm về kế hoạch cứu độ nhiệm mầu của Thiên Chúa, thánh Phaolô, đặc biệt trong thư gởi tín hữu Rôma, đã cho chúng ta những xác tín hết sức mạnh mẽ: “Ở đâu tội lỗi đầy tràn, thì ở đó ân sủng còn chứa chan gấp bội”; “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến người”; “Tôi tự hào về những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô thể hiện trong tôi”; “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô…?” Những xác tín ấy, là nguồn động lực rất mạnh giúp chúng ta luôn giữ vững niềm hy vọng.
Hãy can đảm trao phó cuộc đời chúng ta cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay. Thánh Phaolô còn mời gọi chúng ta hãy hy vọng ngay cả khi không còn gì để hy vọng nữa.[22] Bởi vì niềm hy vọng của chúng ta không phải là niềm hy vọng hão huyền, nhưng là niềm hy vọng đặt nền trên lời hứa của Thiên Chúa.[23] Chính khi có một niềm hy vọng son sắt, vàng đá, chúng ta mới có thể trả lời cho những ai chất vấn về niềm hy vọng của chúng ta.
III. Hy vọng : một nẻo đường tâm linh cho con người thời đại hôm nay
1. Bước đi lầm lũi trong đức tin, là lối diễn tả một niềm hy vọng
Sau bao những thất bại ê chề trong cuộc sống, sau bao lần vật lộn với sự yếu đuối của bản thân, con người ngày nay, nhất là những người nghèo khổ, thấp cổ bé miệng, chỉ còn biết bám víu vào một điều duy nhất là Thiên Chúa sẽ cứu mình. Kitô giáo không phải là đạo của những người hùng Hercules, nhưng là đạo của những người nghèo, đạo của sự tín thác, cầu khấn. Chẳng lạ gì khi các tôn giáo khác du nhập vào Việt Nam, Phật Giáo chẳng hạn, từ là một nỗ lực tự giải thoát mình, đã biến thành một thứ tôn giáo lễ bái, khấn xin. Con người tự nhận thấy mình không đủ sức mang vác vận mạng đời mình, rất cần một sự đỡ nâng đến từ bên ngoài. Theo niềm tin của chúng ta, sự đỡ nâng đó là niềm hy vọng, là chính Chúa.
Có những mảnh đời thoạt trông như không còn một chút niềm hy vọng, nhưng họ vẫn lầm lũi bước đi, vẫn mơ hồ chờ đợi một chút ánh bình mình loé rạng dẫu cho cả cuộc đời mình là đêm đen, giông tố. Chính những bước chân lầm lũi ấy, diễn tả một niềm hy vọng lạ lùng; nói như ngôn ngữ của thánh Phaolô, đó là hy vọng ngay cả khi mình không con gì đễ hy vọng nữa.[24] Cha Timothy Radcliff có một lối diễn tả bằng hình ảnh rất hay, con người sống niềm hy vọng giống như một kẻ ngồi chờ ở trạm xe buýt, dù chưa thấy bóng giáng chiếc xe đâu, nhưng lòng vẫn tin chắc rằng thế nào xe cũng đến. Hoặc niềm hy vọng được diễn tả như hình ảnh chị đan sĩ ngồi gảy đàn trong đêm vọng phục sinh với ngọn nến cháy sáng làm rạng rỡ khuôn mặt chị, còn xung quanh chỉ là bóng đêm mịt mù.
Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê thì diễn tả rằng:
Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài. Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống. Chấm nối chấm cho đúng, đường sẽ đẹp. Sống mổi phút cho tốt, đời sẽ thánh. Đường hy vọng do mỗi chấm hy vọng. Đời hy vọng do mỗi phút hy vọng.[25]
2. Thánh Thần luôn tác động trong mọi biến cố của cuộc sống
Dọc theo dòng lịch sử cứu độ, chúng ta thấy xuyên qua biết bao biến cố thăng trầm, tội lỗi của dân Chúa, Thánh Thần Chúa vẫn luôn hiện diện, và Người có thể rút tỉa từ sự dữ những điều lành cho con người. Trong lịch sử Hội thánh, chúng ta thấy không thiếu những lúc đen tối, nhưng Thánh Thần vẫn dẫn dắt Hội thánh qua những khó khăn, Hội thánh vẫn được thanh luyện, và vẫn là Hiền thê xinh đẹp của Đức Giêsu.
Qua một cơn lũ lụt, nhà cửa bị cuốn trôi, bao người phải chết chóc, đói khổ… nhưng, sau đó, đồng ruộng lại được phù sa bồi đắp, đất đai lại mầu mỡ hơn. Đặc biệt hơn nữa, trước khi xảy ra thiên tai, nhà ai người đó ở, việc ai người đó làm, nhưng khi xảy ra tai ương, mọi người sát lại gần nhau, chia sẻ cho nhau miếng cơm manh áo; tình làng nghĩa xóm, tình nghĩa đồng bào lại rực sáng lên, làm ấm lòng những ai đang lạnh giá.
Người sống niềm hy vọng phải luôn nhìn thấy dấu hiệu sự sống ngay trong đống đổ nát, chết chóc; phải nhìn thấy ngay trong đống tro tàn vẫn còn than hồng âm ỷ, có sức bùng cháy lên mãnh liệt; phải thấy không bao giờ con người là thua cuộc, vì vẫn còn Thiên Chúa đỡ nâng.
Chúng ta hãy tập nhìn cuộc sống với cái nhìn lạc quan của Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về thế giới, càng không bao giờ thất vọng về con người. Trong lịch sử đời mình, thường những trang bi đát, tăm tối, lại là những trang in đậm dấu ấn tình yêu của Thiên Chúa. Lịch sử của bao vị thánh lớn cũng khởi đi từ những trang tăm tối như thế. [26]
3. Tôi biết tôi đặt niềm hy vọng vào ai
Nẻo đường hy vọng là nẻo đường rất đẹp, và chắc chắn dẫn chúng ta đến đích; bởi vì chúng ta biết chúng ta đặt niềm hy vọng vào ai, vào Đấng nào. Đức Giêsu chính là đối tượng niềm hy vọng của chúng ta. Người đem đến cho chúng ta niềm hy vọng cứu độ, niềm hy vọng được sống vĩnh cửu. Đức Giêsu chính là trung tâm điểm của lịch sử, là Đấng các ngôn sứ loan báo, là điểm thành toàn của lời hứa Thiên Chúa xưa kia. Chính Người là Đấng sẽ lấp đầy niềm hy vọng cháy bỏng của con người thời đại hôm nay. Người là Đấng muôn dân trông đợi, là Đấng Cứu Độ duy nhất, là đường, là sự thật, và là sự sống. Chính Đức Giêsu đã nói: “Thầy đến để thế gian được sống và sống dồi dào”. Đức Giêsu chính là đích điểm niềm hy vọng, là hạnh phúc đích thực của con người. Niềm hy vọng của con người mãi mãi là trống rỗng nếu không đạt đến Đức Kitô, nếu không được Người chiếm hữu, lấp đầy.
Vì Lạy Chúa, chính Ngài là Đấng con trông đợi,
lạy Đức Chúa, chính Ngài là Đấng con tin tưởng
ngay từ độ thanh xuân …
Cả lúc con già nua da mồi tóc bạc,
lạy Thiên Chúa, xin đừng bỏ rơi con (Tv 70).


Kết luận
Niềm hy vọng của chúng ta không phải chỉ là những ngôn từ đẹp trên chữ viết, không phải là món quà quý cất kỹ và lấy ra dùng khi có dịp cần đến, và càng không phải là mớ lý luận, suy tư thần học suông; nhưng niềm hy vọng ấy là chính cuộc sống cuả chúng ta. Làm sao trong mọi lúc, mọi nơi, mọi suy nghĩ, hành xử, chúng ta đều có thể toát lên niềm vui, niềm hy vọng. Nếu ở bên đống lửa hồng, chúng ta sẽ cảm nhận được sức nóng của nó, làm sao để cho người khác tiếp xúc với chúng ta, họ không phải thất vọng, nhưng cảm thấy mình được sưởi ấm, được lạc quan hơn, trưởng thành hơn trong đời sống đức tin và cả trong mọi mối tương quan cuộc sống. Chính khi sống được như thế, là chúng ta đang trả lời cho những ai chất vấn về niềm hy vọng của chúng ta.


[1] Xc. St 3,15.
[2] Xc. St 8,20 - 9,15.
[3] Xc. St 15,5.
[4] Xc. 2 Sm 7
[5] Xc. St 2, 7.
[6] Xc. St 1, 26-27.
[7] Xc. Đnl 7, 6  - 9,11.
[8] Xc. Dc 4, 12-16.
[9] Xc. Hs 2, 16-25.
[10] Xc. Is 49, 13-16.
[11] Xc. Gr 31, 1-9.
[12] Tv 32.
[13] Lc 15, 4-7.
[14] Ga 17, 12.
[15] Lc 15, 7.
[16] Lc 15, 8-10.
[17] Lc 15, 14-31.
[18] Xc. 2 Sm 12, 1-17.
[19]ĐHY Fx. Nguyễn Văn Thuận, Những người lữ hành trên đường hy vọng, tr. 547-548.
[20] Mc 14, 36.
[21] Đây cũng là một quan điểm thần học về ơn cứu chuộc của anh em Tin Lành, họ cho rằng, sự sa ngã của con người không thể nào phục hồi lại được. Con người hoàn toàn bị băng hoại, hư mất; và ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu chỉ như tấm áo choàng cho chúng ta khoác vào mà thôi.
[22] Xc. Rm 4,18-25.
[23] Xc. Dt 6,10-20.
[24] Xc. Rm 4,18-25.
[25] Fx. Nguyễn Văn Thuận, “Những người lữ hành trên đường hy vọng”, tr. 544; ĐHV 978.
[26] Xc. Phạm Quốc Văn, OP. “Trên đường Emmau”, tr. 118-122.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn