Dẫn
nhập
Ngoài đặc tính là đốt
cháy, lửa còn toả nhiệt. Lửa không nóng
thì không còn là lửa thật, mà là lửa giả – vô dụng ! Ta nói về lửa nhiệt thành. Một điều rõ nét
nhất nơi tuổi trẻ chúng ta, đó là lòng nhiệt thành. Chúng ta đang được mời gọi
dâng hiến bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ, của sức làm trai, của những con người
không sợ gì gian khó. Văn hào Victor Hugo có câu nói để đời :
Nếu còn lại một nghìn thôi, tôi ở trong
số đó
Nếu còn lại một trăm, tôi vẫn chống địch
không rời
Nếu còn lại mười người, tôi là người cuối
sổ
Và nếu chỉ một người còn đứng đó, chính
là tôi.
Khởi
đi từ những ý tưởng ấy, chúng ta nhiệt thành bước vào hành trình ơn gọi.
I.
Lắng nghe – đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa
1. Từ ơn gọi
của các ngôn sứ
Lần dở lại những trang Kinh thánh, chúng
ta hãy nhìn lại ơn gọi của các ngôn sứ. Chúa gọi mỗi người mỗi cách, mỗi hoàn
cảnh khác nhau. Vài trường hợp điển hình như: Chúa kêu gọi ông Isaia trong một
bầu khí uy nghiêm, sợ hãi, khắp đền thờ khói toả mịt mù, đến nỗi vị ngôn sứ
phải thốt lên: “Khốn thân tôi, tôi chết mất ! Vì tôi là một người môi miệng
ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức
Chúa các đạo binh” (Is 6,5). Và rồi chính môi miệng ô uế ấy của Isaia đã
được Chúa thanh tẩy bằng than hồng gắp từ bàn thờ.[1]
Sau khi được thanh tẩy, ông đã mạnh dạn đáp lời mời gọi của Thiên Chúa với tất
cả nhiệt tâm : “Dạ con đây, xin sai con đi”.[2]
Còn đối với ngôn sứ Giêrêmia, Thiên Chúa
đã chọn ông ngay khi ông còn trong dạ mẹ.[3]
Việc chọn lựa này không khỏi làm cho ông hốt hoảng, vì ông thấy mình còn còn
quá trẻ, lại không có tài ăn nói.[4]
Nhưng Chúa thích thế, thích cái tật ăn nói ngọng nghịu của ông, Chúa đã chọn
ông, đặt Lời của Người vào miệng ông để nhổ, để lật, để huỷ để phá, để xây, để
trồng. [5]
Đặc biệt, Chúa đã “chộp lấy” Amos và bắt
ông làm ngôn sứ, khi ông đang đi sau đàn vật.[6]
Và kể từ đó, đời ông gắn liền với sứ vụ Lời, để tuyên sấm cho Israel .
Một điểm chung nơi ơn gọi của các ngôn
sứ, là tất cả các ông đều không được chuẩn bị trước, đều sợ hãi trước sứ mạng
nặng nề, đều tìm cách thoái thác. Thế nhưng một khi đã được mời gọi và chọn
lựa, các ông đã sống chết cho sứ vụ của mình được trao phó.
Từ ơn gọi của các ngôn sứ, chúng ta mạo muội
nhìn về ơn gọi của mình, dẫu biết rằng chẳng ai trong chúng ta dám bảo “tôi
sinh ra là để đi tu” cả.
2. Đến ơn gọi của chính bản thân mình
Nếu ai đó hỏi : “Tại sao anh/chị đi tu ?”
bạn sẽ trả lời thế nào? Một câu hỏi đơn giản và cũng rất khó trả lời, hoặc chỉ
trả lời bằng lý thuyết. Con đường chúng ta đến với ơn gọi, mỗi người mỗi khác,
mỗi khởi điểm, mỗi động lực khác nhau. Có động lực tốt, có động lực cần phải
được thanh lọc. Nôm na, mọi người hiểu rằng chúng ta đi tu. Trên bước đường tu
hành ấy, chúng ta cần hoàn thiện mỗi ngày, cần thay đổi nhiều; hoàn thiện trong
từng mối tương quan, thay đổi từ cái nhìn nếp nghĩ, vươn lên khỏi cái nhìn chật
chội hẹp hòi, đón nhận những buồn vui, chan hoà và trân trọng cuộc sống… Có thể
mượn lời thơ Tagore để gởi gắm tâm tình của chúng ta:
Thượng Đế, đây lời tôi cầu nguyện
Xin tận diệt, tận diệt trong tôi mọi biển
lận tầm thường.
Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên
để gánh chịu mọi buồn vui.
Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang
để đem tình yêu gánh vác việc đời.
Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường
để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khổ
hay cúi đầu khuất phục ngạo mạn, quyền
uy.
Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai
để nâng tâm hồn lên khỏi ty tiện hằng
ngày.
Và cho tôi sức mạnh tràn trề
để âu yếm dâng mình theo ý Ngài muốn.[7]
Lời kết của khổ thơ
này, có thể lấy làm khởi đầu và đích điểm cho ơn gọi của chúng ta: dâng mình
theo ý Chúa muốn. Xin cho ý Chúa được thể hiện trong cuộc đời của mỗi chúng ta.
3. Nhận diện những thách đố
Mỗi thời đều có những thách đố khác nhau.
Trong thời đại toàn cầu hóa, vi tính hóa, di động hoá, tiện nghi hoá, vật chất
hoá, hợp lý hoá… con người cũng dễ có nguy cơ bị tha hoá. Mối nguy này không
miễn trừ một ai, người tu sĩ cũng có nguy cơ bị tha hoá, nghĩa là biến thành
một ai khác chứ không còn phải là mình. Thách đố về căn tính là một vấn nạn lớn
ảnh hưởng đến cả sự tồn vong của chúng ta.
Với bối cảnh xã hội như thế, chúng được
khuyến khích để lội ngược dòng. Chúng ta cần
nhận diện những dòng chảy quá mạnh, quá ồ ạt : dòng chảy tục hóa, hưởng thụ,
thờ ơ, coi nhẹ phẩm giá của con người... Các chọn lựa đi liền với những bậc
thang giá trị bị đảo lộn, lòng người không khỏi hoang mang. Đâu là những giá
trị đích thực trong cuộc sống? Đâu là một đời sống đạo đúng nghĩa? Đâu là
khoảng không tự do mỗi người có thể xoay xở ? Hoặc đâu là sự dung hoà giữa việc
chọn lựa Chúa, với những thực tại của đời thường ? ... Những câu trả lời theo
mẫu in sẵn chỉ việc điền vào có lẽ không thoả mãn được những vấn nạn hiện sinh
này. Vẫn cứ phải lội ngược dòng, dẫu lòng chưa xác tín hay sao ?
Một điều rất thật, là mỗi người trẻ hôm
nay đều là những “con đẻ của thời đại” được mang những “gien di truyền của bố”
từ nếp suy nghĩ, cách hành xử, kiểu xoay xở... Cái khó là phải thanh lọc, phải
lột xác. Đau lắm!
Bên cạnh đó, theo xu hướng chung của xã
hội, người môn sinh của Đức Giêsu cũng rất dễ có nguy cơ đánh mất sự thăng bằng
giữa những lo toan bề bộn của cuộc sống và đời sống thiêng liêng. Và rồi đâu
phải người môn sinh lúc nào cũng hăng hái, có những lúc chán nản, muốn buông
xuôi, muốn bỏ cuộc; ấy là chưa kể những vấp váp trên hành trình có vẻ như đơn
độc dẫu đang cùng đi với nhiều người. Bóng mát bên đường vẫn mời gọi, một cám
dỗ muốn dừng chân.
Nhận diện những
thách đố ấy, để chúng ta không ngỡ ngàng, bối rối, khi quyết định đáp lời xin vâng
với Thiên Chúa.
II. Tiếng “vâng” vọng về từ cuộc sống
1. Lời đáp trả
với cả tấm lòng
Đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa không phải chỉ là một
tiếng “vâng” vọng lại, mà còn là chấp nhận hệ lụy cả cuộc sống, là trái tim
được dâng trao, là hiệp thông cả những ân phúc và đau khổ với Người. Công đồng
Vaticanô II trong Lumen Gentium số 7 đã dạy chúng ta :
Đang khi
còn là lữ hành trên mặt đất, bước theo vết chân Người trong đau thương và bách
hại, chúng ta cùng thông hiệp với những đau khổ của Người như thân thể kết hợp
với đầu. Hiệp thông với sự thương khó của Người để cùng được vinh hiển (Rm 8.7).
Đáp lời
xin vâng, cũng có nghĩa là bước theo Chúa Giêsu. Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê
Nguyễn Văn Thuận đã chia sẻ kinh nghiệm 14 bước theo Chúa Giêsu, đó cũng phải
là những bước chân chập chững của chúng ta :
Bước
lang thang
ra chuồng bò ở Bêlem, bước hồi hộp trên đường trốn sang
Aicập, bước bồn chồn trở về Nagiarét, bước phấn khởi
lên đền thánh với cha mẹ, bước vất vả suốt 30 năm lao động, bước
yêu thương 3 năm rao giảng Tin mừng, bước thao thức tìm
chiên lạc, bước xót xa vào Giêrusalem đầm đìa nước mắt, bước
cô đơn ra trước tòa không người thân, bước ê chề
vác thánh giá lên đồi tử nạn, bước thất bại chôn mồ kẻ khác,
không tiền bạc, không manh áo, không bạn hữu, bước khải hoàn sống
lại, hãy vững lòng Thầy đã thắng thế gian, bước khổng lồ đi khắp
thế gian rao giảng Tin Mừng, bước liều mạng lăn xả vào thử thách,
chấp nhận mọi hậu quả, vì Chúa đã dạy con liều mạng”.[8]
Con
đường Đức Giêsu đã đi, cũng sẽ là con đường của mỗi chúng ta, có lang thang,
hồi hộp, bồn chồn; có phấn khởi, vất vả, yêu thương; có thao thức, xót xa, cô
đơn; có ê chề, thất bại, liều mạng; nhưng tất cả đều là những bước khổng lồ
hùng tráng, bước khải hoàn loan báo Vương Quốc Thiên Chúa hiện diện ngay giữa
lòng trần gian.
2. “Được – thua” trong lời đáp trả
Cứ thường tình, mọi hành động của con người đều nhắm tới lẽ
được – thua. Theo Chúa chẳng phải để được – thua, nhưng những phúc lợi Tin mừng
kể lại là điều rất thật.
Trước
hết, theo Chúa là “được kho tàng trên trời”.[9]
Câu truyện anh nhà giàu muốn theo Đức Giêsu, trong Tin mừng Maccô[10]
và Matthêu[11], là một bằng chứng cụ
thể. Chỉ tiếc có điều người thanh niên giàu có này đã không dám can đảm, không
đủ quang đại, hay đúng hơn không dám đặt niềm tin vào Đức Giêsu mà bước đi theo
Người.
Kho tàng
đích thực của người môn đệ, không gì khác hơn là chính Chúa, là được thuộc trọn
về Chúa. Chúng ta được mời gọi sống trong bậc tu trì, Chúa ban cho chúng ta kho
tàng trên trời để chúng ta luôn khát khao vươn tới. Người ban cho kẻ Người gọi
khả năng dâng hiến trọn cuộc đời của họ để phục vụ Nước Trời. Nhất là ban cho
họ khả năng biết kết hiệp mật thiết với Người để trở nên bạn hữu của Người.
Càng từ bỏ, chúng ta càng thuộc trọn về Chúa, càng là của Chúa, càng trở nên bạn
hữu của Chúa hơn.
Chúng ta
chỉ hiểu được điều này nhờ đức tin, một đức tin tinh ròng không dính bén, không
sa đà trong những thực tại trần gian. Và dù đã hiểu, đã đáp trả tiếng mời gọi,
nhưng thiếu thiện chí, do dự, không dứt khoát, cũng không hiểu được đầy đủ: vì
họ bị những giá trị trần thế, bản năng, đam mê, yếu đuối của con người che mắt,
làm cho họ không thấy được những thực tại siêu nhiên sáng chói. Thực tại này
chỉ tỏa sáng hoàn toàn cho linh hồn nào hoàn toàn trung tín, thuộc trọn về một
mình Chúa, hiến trọn cuộc đời của mình để chiếm đoạt kho tàng trên trời là
chính Chúa, như ta vẫn hát “Chúa là gia nghiệp đời con”. Được như thế quả là
hạnh phúc tuyệt vời, bút mực nào có thể diễn tả nổi !
Như vậy,
lẽ được – thua từ lời xin vâng chính là cảm nghiệm của chúng ta về Đấng siêu
việt, Đấng vừa kêu gọi, khích lệ, trợ lực, và cũng là chính phần thưởng của ta
nữa.
3. Đi đến trọn hành trình
Có thể ví
được hành trình theo Chúa của ta cũng giống như hành trình leo núi của những
vận động viên thích chinh phục độ cao mạo hiểm. Đích điểm là sự thách đố của
ngọn núi cao hùng vĩ; muốn chinh phục, vận động viên phải thật thanh thoát nhẹ
nhàng. Càng lỉnh kỉnh hành trang, người leo núi càng nặng nề và có nguy cơ bỏ
cuộc.
Muốn đi đến trọn hành trình theo Chúa,
chẳng ai có thể cậy sức riêng mình. Chúng ta chỉ có thể đóng góp một phần nhỏ
bé là sẵn sàng trao hiến trọn vẹn trái tim, và cố gắng làm trống rỗng gói hành
trang lỉnh kỉnh bao nhiêu có thể.
Để kết
thúc đoạn suy niệm này, xin được trích dẫn bài thơ “La Besace” – “Chiếc Bị”, do
nữ tu Mai Thành dịch, đăng trong cuốn “Hiến dâng và phục vụ”:
Nghe tiếng bạn mời tôi hôm ấy
lúc tôi còn mê mải với vần thơ
hoặc loay hoay tính lại số tiền nhà
tôi vội vã nghe theo và dấn bước.
Tôi mang theo một ống tiêu bằng trúc.
Nhiều áo quần và cả một tập thơ
Một bao đầy kỷ niệm thiết tha
Với nhiều vật quý nhét căng đầy bị.
Cùng bạn lên đường mặt trời vừa hé
Tôi bước sau với chiếc bị trên vai
Chân kéo lê trên một quãng đường dài
Bạn đi trước tay không ôi nhẹ nhõm.
Một ngày qua bên cánh đồng gió thoảng
Tôi mỏi vai xin ngừng lại giữa đường
Mở bị ra tôi quăng gói áo quần
Rồi cùng bạn dưới trời tôi rảo bước.
Vẫn tay không bạn nhẹ nhàng đi trước
Tôi đi sau mồ hôi đẫm áo choàng
Sắp lên cầu để vượt khỏi giòng sông
Tôi vất lại tập thơ và sáo trúc.
Rồi đi tiếp đường lên cao uốn khúc
Chẳng bao lâu cánh tay mỏi rã rời
Tôi nài xin: Dừng nghỉ một chút thôi”
Để tìm lại một tấm hình đã mất.
Hình mẹ tôi, người tôi yêu dấu nhất
Chụp vào ngày hôn lễ với cha tôi
Mất thật rồi, tay tôi bỗng buông xuôi
Mắt tối tăm giữa mặt trời đúng ngọ.
Rồi đêm về khi trăng vừa mới ló
Với màn sương nhè nhẹ phủ không gian
Tôi quăng luôn cả chiếc bị trên đường
Nắm tay bạn nhanh chân tôi đi tiếp.
Nhưng bỗng nhiên bạn bảo tôi ngừng bước
Dưới vòm trời trong suốt ánh trăng soi
Bạn tươi cười nhỏ nhẹ vỗ vai tôi:
“Hãy dừng chân vì ta đã đến đích”.
III. Nhạy bén và thức tỉnh
1. Nhạy bén với
nhu cầu của ai khác
Có nhiều người quan
niệm: đi tu là trốn tránh trách nhiệm, là li dị với trần gian, là bàng quan
trước bao vấn đề của cuộc sống. Quan niệm ấy không đúng, nhưng không phải là
hoàn toàn vô lý đâu. Cũng như chẳng vô lý khi Karl Mark kết án “Tôn giáo là
thuốc phiện mê hoặc con người”. Có thể nói, chính nhờ chủ nghĩa Cộng Sản, chúng
ta phản tỉnh và nhạy bén hơn với sứ mạng trần thế của mình. Công đồng Vaticanô
II đã cho chúng ta những hướng đi đúng đắn nhằm trả lời cho những ai muốn chất
vấn về sứ mạng của chúng ta.
Chúng ta hãy tập nhạy bén với nhu cầu của
ai khác; ai khác ở đây có thể là Giáo hội, là cộng đoàn, là những người thân
cận, là những anh/chị em đang cùng chúng ta chung sống, là những người chúng ta
có dịp gặp gỡ. Đức Giêsu đã chạnh lòng thương đám đông khi thấy họ như đoàn
chiên không người chăn dắt;[12]
Đức Maria quan tâm đến gia chủ khi tiệc cưới hết rượu.[13]
Có bao giờ những nhu cầu của Giáo hội, của cộng đoàn, của anh em … trở thành
mối bận tâm của chúng ta không ? Chúng ta có thấy cần phải trách nhiệm với ai
khác trong cuộc đời mình không ? Dấn thân theo Chúa không phải để mình được yên
ổn, xin cho tôi hai chữ bình an, mà là để trách nhiệm hơn với cuộc đời, với con
người. Đó cũng phải là nỗi ưu tư, là chính sứ mạng của mỗi anh/chị em chúng ta.
2. Thức tỉnh với
chính mình và với thời đại
Trong
thời đại chúng ta, cha Anthony De Mello, SJ. đang được nhiều người biết đến,
như một “người hướng dẫn và làm chứng cho ánh sáng”.[14]
Trong các tác phẩm của mình, hầu như cha Anthony đều quay quắt một điều là sự
Thức Tỉnh. Điều này nhắc nhở chúng ta, nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của người
lính canh là phải tỉnh thức. Chúng ta được mời gọi để làm ngôn sứ, làm người
lính canh. Trước tiên, chúng ta phải thức tỉnh với chính mình, thức tỉnh trong
mọi hành vi, trong từng nếp nghĩ, trong lối hành xử. Rất nhiều khi chúng ta ngủ
mê giữa ban ngày. Chúng ta vẫn làm việc, vẫn giảng dạy, vẫn sống; nhưng nhiều lúc
không biết mình đang làm gì, nói gì, và sống ra sao. Cái khó là chúng ta vẫn
tưởng mình đang thức ! Các bậc thầy tâm linh Ấn Độ cho rằng, không nên cố đánh
thức những ai đang ngủ mà nghĩ rằng mình thức.
Thức tỉnh
để thấy rõ mình hơn. Người làm việc, đi lại, nói cười trong mơ là kẻ mộng du.
Người đó không biết mình. Thức tỉnh cũng còn là để nhìn rõ đời hơn, kẻ nhìn đời
trong mơ là kẻ ảo tưởng. Cuộc đời đó tuy đẹp, nhưng không có thật. Và cuối
cùng, thức tỉnh để nhận ra tiếng Chúa, sẵn sàng mở cửa tiếp đón Người. Khổ nỗi,
chẳng biết lúc nào Chúa đến, chập tối hay nửa đêm, do vậy chúng ta rất cần tỉnh
thức.
Khi thức
tỉnh, chính là chúng ta đang sống thực, sống giây phút hiện tại. Ai sống trong
quá khứ, thì không những người ấy ngủ mà còn là chết nữa, vì quá khứ đã chết
rồi. Và ai sống mà mơ mộng vào tương lai, người ấy là một kẻ lầm lạc, kẻ điên,
vì tương lai không có thực. [15]
3. Để mình tự do với
bao thứ “lập trình” trong cuộc sống
Cuộc sống của ta dù muốn dù không cũng bị
bao thứ lập trình nhào nặn lên. Bởi vì cuộc sống ấy bị lệ thuộc vào bao con
người, ý thức hệ, quan điểm sống, giáo dục, văn hóa, xã hội… Làm sao để ta
không trở nên một người máy chịu sự chi phối của tất cả những yếu tố đó.
Để được là chính mình, chúng ta không thể
sống rập khuôn. Tất cả những khuôn đúc có sẵn, dù là rất hoàn hảo, thì cũng
không còn chỗ dành cho sự tự do sáng tạo của con người. Chẳng vậy, có những nhà
tu đức cho rằng, không bao giờ nên bắt chước các thánh, vì các ngài có con
đường nên thánh riêng, chúng ta có con đường nên thánh riêng. Có vị ra như còn
quá khích khi nói rằng : “Đừng bắt chước một ai, kể cả Chúa Giêsu. Chúa
Giêsu không phải là bản sao của ai cả. Muốn theo Chúa Giêsu, bạn phải là chính
bạn một cách đích thực, như Ngài là chính Ngài”.[16]
Đây thực sự là vấn đề căn tính của chúng ta. Đánh mất chính mình, cũng có nghĩa
là mất luôn lối ngỏ đi về. Chúng ta cần tỉnh thức, cần giác ngộ.
Thế giới trước và sau khi ta giác ngộ
chẳng khác gì nhau, nhưng thực ra có một sự thay đổi rất lớn, đó là sự thay đổi
lối nhìn, thay đổi não trạng của chính chúng ta về thế giới. Sự thay đổi này
quan trọng và cần thiết. Điều từng làm ta khắc khoải trước kia, thì giờ đây
không còn quan trọng nữa; trái lại, ta từ từ khám phá ra những điều kỳ diệu mà
từ trước đến nay chẳng bao giờ thấy cả.
Kết
luận
Hãy xin Thánh Thần đốt lên ngọn lửa nhiệt
thành nơi trái tim mỗi người chúng ta. Cần lòng nhiệt thành để vượt qua những
lúc nhàm chán trong cuộc sống, cần lòng nhiệt thành để xây dựng nước Chúa ngay
ở trần gian này, cần lòng nhiệt thành để vực dậy bao tâm hồn đang ủ rũ héo tàn,
cần lòng nhiệt thành để khơi gợi lửa nhiệt thành vốn đang tiềm ẩn nơi những
người anh em, cần lòng nhiệt thành để hăng say bước theo Chúa.
Lòng nhiệt thành ấy cần một
trái tim độ lượng;
Lòng nhiệt thành ấy cần một
tâm hồn trắc ẩn;
Lòng nhiệt thành ấy cần
thức tỉnh không ngừng;
Lòng nhiệt thành ấy rất cần chúng ta thi thố hằng ngày trong cuộc sống.
Cuộc sống đang mời gọi chúng ta nhập cuộc. Còn e ngại gì, e ngại gì sao chúng
ta chưa dám dấn thân ?
[1] Xc. Is 6,6-7.
[2] Is 6,8.
[3] Xc. Gr 1,4-5.
[4] Xc. Gr 1,6.
[5] Xc. Gr 1,9-10.
[6] Xc Am 7,15-16.
[7] R. Tagore, Lời dâng 36.
[8] Trích Sứ điệp lao
tù, VietCatholic, CD3.
[9] Xc. Mc 10,21; Mt 19,21
[10] Xc. Mc 10,17-22.
[11] Xc. Mt 19,16-22.
[12] Xc. Mc 6,34.
[13] Xc.
Ga 2,1-12.
[14] Đây cũng là tên của một tác phẩm : Anthony
De Mello, guide et témoin de la lumìere, của tác giả MARIA PAZ MARIĐO. Đã có bản dịch tiếng Việt: Cuối cùng
ta cũng tự do, của dịch giả Trần Duy Nhiên.
[16] Ibid, tr. 84.
Đăng nhận xét