Nhân loại không có tương lai, nếu
không có gia đình.
Gia đình là sự hiệp thông tình yêu,
xây dựng trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ và được mời gọi trở thành đền thờ của sự sống,
Giáo hội thu nhỏ, tế bào của xã hội.
Gia đình là sự hiệp thông tình yêu,
xây dựng trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ và được mời gọi trở thành đền thờ của sự sống,
Giáo hội thu nhỏ, tế bào của xã hội.
(ĐGH Gioan Phaolô II).
Vincente
Nguyễn Viết Vinh
Xitô Châu Sơn
Xitô Châu Sơn
Dẫn nhập

Gia đình, trong tư cách cộng đoàn tình yêu, tự phản
chiếu trong đời sống của Giáo hội. Thật vậy, Giáo hội có thể được xem như một
gia đình, gia đình của Thiên Chúa gồm những con trai và con gái của Cha trên
trời. Như một gia đình, Giáo hội là một nơi, trong đó, mọi thành phần của mình
cảm thấy tự do khi phải mang những đau khổ của mình, đồng thời biết rằng sự
hiện diện của Đức Kitô trong việc cầu nguyện của Dân Người là nguồn mạch lớn lao của việc chữa lành. Vì lý do dó, Giáo hội hỗ trợ
cách tích cực ở mọi mức độ của tác vụ gia đình và đặc biệt trong
những nơi liên hệ đến các bạn trẻ, và những bạn trẻ đã trưởng thành. Đứng trước trào lưu tục hóa, cổ võ
sự ích kỷ và tán thưởng hời hợt thay vì
các đức tính quảng đại và tự chủ, các bạn trẻ cần sự nâng đỡ và hướng dẫn của Giáo hội. Nhờ vậy, nhiều bạn trẻ vốn mong ước trở thành những
mẫu gương mạnh mẽ, đầy nhiệt huyết và trách nhiệm sẽ không sợ phải tuyên xưng
một tình yêu vô điều kiện cho Đức Kitô và cho Giáo hội của Người. Về điều này,
các linh mục luôn cống hiến và phảỉ tiếp tục cống hiến một sự đóng góp đặc
biệt, không tính toán cho đời sống của giới trẻ Công giáo.
Quả như lời giáo huấn của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI trong buổi tiếp kiến chung tại quảng trường Thánh Phêrô vào
sáng thứ tư, 6.6.2012: “Nhân loại không có tương
lai, nếu không có gia đình. Gia đình là
sự hiệp thông tình yêu, xây dựng trên hôn nhân giữa một người nam và một người
nữ và được mời gọi trở thành đền thờ của sự
sống, Giáo hội thu nhỏ, tế bào của xã hội”. Nếu một khi các gia đình bị đổ vỡ, không chóng thì chầy cả dân tộc và cả đất nước cũng sẽ
bị đổ vỡ theo, và hậu quả cuối cùng
chắc chắn sẽ không tránh khỏi, đó là “ngõ cụt” của sự bất hạnh và khốn cùng của
cả xã hội. Vì thế, ai gây ra sự sụp đổ cho gia đình là đào hố chôn cả nhân loại.
I. Vai trò của gia đình
Gia
đình có nguồn gốc trong chính tình yêu của Đấng Tạo Hóa dành cho thế giới được
Ngài sáng tạo, như đã nói “từ nguyên thủy” trong sách Sáng thế 1,1. Trong Tin mừng,
Chúa Giêsu khẳng định điều ấy đầy đủ: “Thiên Chúa đã yêu thương đến
nỗi đã trao ban con duy nhất của Ngài” (Ga
3,16).
Người
Con duy nhất đồng bản tính với Chúa Cha,
“Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng”, đã đi vào lịch sử loài người qua
gia đình. “Người đã thực sự trở nên một người giữa
chúng ta, giống như chúng ta trong mọi sự, ngoại trừ tội lỗi” (Gaudium et Spes, 22).
1. Gia đình Công giáo sống giữa thế gian mà không thuộc về thế
gian
Trong Tin mừng thứ tư và thư thứ nhất của thánh Gioan, từ “thế gian” có nhiều nghĩa. Cần phân biệt những
ý nghĩa này; khi nói chúng ta sống giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian
(x. Ga 17,14-19), nghĩa là chúng ta chung sống với những con người như chúng
ta, chúng ta cần có những mối tương quan: tương quan nhân vị, tương quan với
các thành viên trong gia đình, tương quan bạn bè, đồng nghiệp...; nhưng chúng
ta không thuộc về thế gian, không yêu chuộng thế gian, không đồng lõa với tất
cả mọi tham vọng trong thế gian, không cộng tác với công việc của ma quỷ trong
thế gian. Các gia đình được mời gọi sống yêu thương và cư xử với tư cách là hình ảnh của Thiên Chúa, là con cái của Thiên Chúa.
Chúa Kitô đã chọn để sinh ra và lớn lên trong chính gia đình
nhân loại; Người từng sống ẩn dật tại Nazareth, tuân phục cha mẹ trần thế...
Như vậy, mầu nhiệm Thần linh nhập thể của Ngôi Lời, có một tương quan
chặt chẽ với gia đình nhân loại. Công Đồng
Vatican II dạy rằng: “Con Thiên Chúa, qua nhập thể, như “đã kết
hợp với mọi người”. Nối bước Chúa Kitô, Đấng đã đến trần gian “để phục vụ”
(Mt 20, 28), Giáo hội coi rằng
phục vụ gia đình là một trong những công việc chính của mình. Theo chiều hướng
này, con người và gia đình đều thiết lập “Con đường của Giáo hội”[3], một cách nào đó, gia đình chính là trường dạy phát
triển nhân tính[4]. Cho dù người Kitô hữu sống trong môi trường và xã hội
nào thì yếu tính thánh thiêng của gia đình Kitô cũng không bị ảnh hưởng xấu làm
biến chất, nhưng luôn luôn duy trì được yếu
tính và bản vị như mình “là”. Gia đình sống giữa thế gian, nhưng không
thuộc về thế gian là thế đó. Nếu như chức năng tư tế thừa tác có nhiệm vụ thánh
hóa trần gian, thì Sách Giáo Lý cũng đề cao và nhấn mạnh trọng trách của gia
đình Kitô giáo chân chính với những lời này:
Gia đình là nơi thể hiện đặc biệt chức tư tế cộng đồng của người cha, người mẹ, con cái
và mọi phần tử trong gia đình, nhờ lãnh nhận các bí tích, kinh nguyện
và tạ ơn, chứng từ đời sống thánh
thiện, hy sinh và đức ái hữu hiệu. Gia đình là trường học đầu tiên về
đời sống Kitô giáo và là một trường học phát triển nhân tính. Chính
trong gia đình, người ta học biết làm
việc với sự nhẫn nại và niềm vui, yêu thương huynh đệ, quảng đại tha thứ luôn, nhất là phụng thờ Thiên Chúa qua kinh nguyện và hy lễ đời
sống
(GLHTCG, Số 1657).
2. Chứng tá của gia đình Kitô trong thế giới ngày nay
Đứng trước nền văn minh vật chất, nhiều thứ lý thuyết
hiện đại đang chiếm đoạt trái tim con người, làm cho nhân loại bị vong thân, ta
thấy vai trò của gia đình càng quan trọng biết bao. Trong thế giới ngày nay,
gia đình cần phải trở thành một ốc đảo của tình yêu, nơi mà tình yêu được khôi
phục tận ngọn nguồn và duy trì sự thánh thiêng thuần khiết, duy trì sự tin
tưởng nơi nhau, và nhất là niềm tin sắt son nơi Thiên Chúa. Gia đình Kitô, theo cách của mình, cần phải
tỏ lộ lòng tin tưởng này, trở nên như bí tích của lòng tin tưởng, để là nơi mà
tình yêu dâng trào theo sức mạnh nguyên thủy của nó và có thể triển nở, có sức
làm cho tình yêu loài người được ân thánh biến đổi.
Chúng ta đừng quên rằng tình yêu
luôn đi đôi sự thủy chung; sự thủy chung chỉ có được khi bám rễ sâu trong tình yêu chân chính. Các gia đình Kitô cần phải là chứng tá liên lỷ của sự thủy
chung này, và can đảm chống lại tất cả những gì có nguy cơ ngăn trở tình yêu, thui chột tình yêu và làm cho
tình yêu không được toàn vẹn. Gia đình Kitô có một chỗ đứng cơ bản trong nhân
loại và trong Giáo hội ngày nay, cung cấp những chứng tá sinh động
bằng trái tim yêu thương xả kỷ của những người nam nữ đang đảm nhiệm vai trò làm cha làm mẹ. Tình yêu phát
xuất trực tiếp từ trái tim của người nam và của người nữ đã khơi dậy tình yêu nơi con cái,
và cứ thế tiếp nối qua các thế hệ, làm nên những chứng tá sống động trong thế
giới này.[5]
II. Gia đình là đền thờ của sự sống
Khi nói đến gia đình, ta hiểu ngay gia đình là nơi từ đó sự sống mới
xuất hiện, là nơi mầm sống được ươm trồng.
Nói
khác đi, gia đình chính là đền thờ
của sự sống. Chính vì thế,
không thể chối từ vai trò cưu
mang sự
sống, khai sinh sự sống, nuôi dưỡng sự sống của mình bao lâu gia
đình còn muốn là gia đình đúng nghĩa, gia đình đang thực
thi sứ mạng của mình. Một gia đình không yêu quý, trân trọng sự sống sẽ không còn là một gia đình, không
xứng đáng nữa với lòng yêu mến của những phần tử
trong
gia đình.
1. Quà tặng sự sống nơi
các gia đình
Sự sống con người là quà tặng hào phóng của Thiên Chúa
ngang qua các gia đình. Sự sống ấy là hoa trái tình yêu sung mãn của đời sống
đôi bạn. Trong đời sống ấy, tính dục góp phần làm toát lên vẻ đẹp và sự thánh
thiện của gia đình. Nhiều người lầm tưởng rằng Giáo hội coi thường hay đánh giá
thấp tính dục. Họ quên rằng: theo Giáo Lý Công giáo, hôn nhân được xây dựng
trên tính dục khi “người nam và người nữ trở nên một thân xác” thì “họ không có
quyền phân ly” (Mt 12,6). Thánh Gioan Chrysotome ngay ở thế kỷ thứ ba đã nói: hình ảnh hoàn hảo nhất của Thiên
Chúa Ba Ngôi được thể hiện trong sự hiệp nhất nên một giữa vợ và chồng. Sự hiệp
nhất trọn vẹn trong tâm hồn và thân xác này mang ba đặc tính:
Hiệp nhất nên một: Sự hiệp nhất được xây dựng từ khác biệt giữa người
nam và người nữ. Không có hiệp nhất nếu không có khác biệt; nói cách khác, có
khác biệt mới có hợp nhất. Chính những khác biệt giữa người nam và người nữ đã
lôi cuốn, hấp dẫn họ và thúc đẩy họ kết hợp thành một trong nhau. Xây dựng hôn
nhân không phải lôi cuốn người mình yêu để nghiền nát, làm tiêu tan họ. Đàng
khác, hiệp nhất “nên một” trong hôn nhân không có nghĩa đánh mất bản thể hay
làm chủ thể vong thân; vì hôn nhân không chiếm đoạt nhưng nhận lãnh, không ích
kỷ nhưng vị tha, không thống trị nhưng tương kính, tôn trọng. Trong hôn nhân,
mỗi người gặp được “cái mình” hoàn hảo, triển nở, phong phú hạnh phúc, tốt đẹp
hơn; vì sự kết hợp nên một trong hôn nhân được xây dựng và hình thành nhờ “cho
đi và đón nhận” trong tự do của yêu thương.
Sự hiệp nhất mang tính thân mật, riêng tư: Riêng tư, thân
mật là đòi hỏi quan trọng trong đời vợ chồng. Thiếu không gian riêng tư, thiếu
thời gian riêng tư, đời sống vợ chồng khó có thể đứng vững. Vợ chồng riêng tư
để thân mật kết hợp trong tinh thần, trái tim và thân xác. Hôn nhân không chỉ
là gắn bó nên một trong thân xác, mà còn nên một trong tinh thần, gắn bó trong
tình yêu. Trái tim và thân xác là hai yếu tố xây dựng đời sống riêng tư, thân
mật của vợ chồng. Đời sống tình dục của vợ chồng nếu bị phơi bày, trình diễn,
công cộng hoá sẽ mất hết giá trị đích thực của tình yêu kết hợp trong
hôn nhân, vì tình yêu này đòi được giữ kín, và riêng tư thân mật như một điều
kiện để hiện hữu. Chính vì thân mật riêng tư mà vợ chồng được mời gọi phải luôn
quảng đại sẵn sàng cho nhau, phục vụ nhau, làm triển nở nhau trong đời sống
tính dục. Trong hôn nhân, vợ chồng không giữ thân xác mình như giữ một miếng
đất, thửa ruộng, nhưng cho nhau một cách trọn vẹn, tự hiến cho nhau một cách
quảng đại, hân hoan để mỗi ngày nhờ những trao - nhận không ngừng như xi măng làm
chắc chắn hơn lòng trung tín, gia đình sẽ tránh được nhiều đe dọa trước cám dỗ
của bất trung.
Đặc tính thứ ba của
kết hợp trong hôn nhân là đón nhận sự sống: Con cái là kết qủa của sự hiệp nhất tâm hồn và thân xác của cha mẹ.
Giây phút hạnh phúc của vợ chồng là khi họ ban cho đời một sự sống, một con người mới qua sự kết hợp thân xác. Rất tiếc, trong xã hội tiêu thụ ngày nay, hạnh phúc này đã bị mất
đi nhiều khi người ta chỉ còn lưu tâm đến hưởng thụ cá nhân. Người ta không còn
biết nhìn niềm vui trên nụ cười của trẻ thơ: nụ cười biết ơn đã được vào đời,
nụ cười hạnh phúc đã được yêu thương, nụ cười hồn nhiên đang được đón nhận và
sẻ chia. Người ta cũng đánh mất ý thức căn bản về sự sống khi không nhận sự có
mặt của con cái như món quà được Thiên Chúa trao ban, và con cái không chỉ là
con cái của cha mẹ mà còn là những công dân thế giới được cứu độ, công dân của
Nước Trời đang được Thiên Chúa ký thác trong tình yêu của cha mẹ. Ý thức này
càng khó được chấp nhận khi đối diện với những đứa con tật nguyền, bệnh hoạn,
khó dạy. Không ai dám chối cãi gánh nặng như bùn cha mẹ phải gánh khi con cái
có vấn đề; nhưng không phải vì thế mà quên mầu nhiệm của gia đình và mầu nhiệm
vào đời của từng con người. Không sự gì có thể ra ngoài thánh ý Chúa và không
sự sống nào đã hiện diện trong đời mà không mang một ơn gọi, một lý do trong
mầu nhiệm tạo dựng và cứu độ của Thiên Chúa. Vấn đề là chúng ta chưa đủ đức tin
để nhận ra việc Chúa làm trên từng con người, từng cuộc đời.
Như thế, gia đình mang trách nhiệm cộng tác với Thiên
Chúa sinh ra sự sống. Thiên Chúa đã ký thác nơi cha mẹ bổn phận và vinh dự này
và đợi chờ cha mẹ tuyệt đối tôn trọng sự sống trong gia đình. Chúng ta cùng
chia sẻ đoạn Kinh thánh sâu sắc, gây nhiều xúc động nói lên giá trị của sự sống
và thái độ tuyệt đối tôn trọng sự sống của chính Thiên Chúa trong Cựu ước. Đó
là câu chuyện Abraham đem con mình là Isaác lên núi tế lễ Thiên Chúa Giavê (St 22,1-13).
Abraham vâng lời Thiên Chúa đem người con duy nhất của
mình lên núi cao, ông trói Isaác và đặt trên đống củi chuẩn bị giơ gươm sát tế con. Nhưng
chính lúc vung gươm, sứ thần đã ngăn tay ông lại và cho ông biết Thiên Chúa đã
nhận của lễ quý báu ông dâng là tấm lòng thanh sạch đầy tín thác của ông vào
Thiên Chúa. Một con cừu mắc sừng vào bụi cây đã trở nên của lễ thay cho Isaác. Nhiều người khi đọc đoạn Kinh thánh này đã chỉ chú
trọng đến sự vâng lời của Abraham. Những người này quá chú trọng
đến phía nhân loại là thái độ của Abraham khi chú giải mà
vô tình bỏ quên phần của Thiên Chúa. Không chối bỏ giá trị của đức vâng lời
tuyệt đối của Abraham, nhưng ta đừng quên: khi đem con trai duy nhất hiến tế
Thiên Chúa, Abraham vẫn còn chịu ảnh hưởng của các bộ lạc cùng sống từ nếp sống
hàng ngày đến nghi thức thờ phượng các thần. Các bộ lạc này, vào
thời ấy, có tục giết con người để tỏ lòng tôn kính các thần. Họ cho rằng các
thần thích thịt, máu người vì người quý hơn động vật, thực vật. Tục tế thần
thánh bằng máu thịt người là tục lệ thịnh hành
trong các bộ lạc ở thời Abraham. Cũng một ý nghĩ như họ, ông đem con trai tế Thiên
Chúa Giavê. Nhưng Giavê Thiên Chúa của ông, Đấng vừa gọi ông bỏ vùng đất cũ đến
miền đất mới, Đấng vừa hứa cho ông làm tổ phụ một dân “đông như sao trên trời,
nhiều như cát dưới biển” không giống như các thần của các bộ lạc kia. Khi gọi
ông bỏ đất cũ ra đi, Thiên Chúa muốn ông ra khỏi ảnh hưởng của các bộ lạc thờ
“hư thần”, muốn ông đến một miền đất mới, từ đó, Ngài sẽ đổi mới não trạng, nếp
suy tư, đời sống của ông để chuẩn bị cho ông trở thành tổ phụ của một dân riêng
được chính Ngài tuyển chọn và biến cố tế con là bài học đầu tiên Ngài dạy bảo
Abraham.
Khi cho sứ thần ngăn tay cầm gươm giết con, Thiên Chúa
dậy cho Abraham biết: Thiên Chúa của ông là một Thiên Chúa tuyệt đối tôn trọng,
yêu thương và gìn giữ sự sống con người. Thiên Chúa ấy không khát máu người như
những thần dân ngoại. Thiên Chúa đã gọi ông là Thiên Chúa của sự sống, yêu quý
sự sống, nâng niu sự sống. Và từ nay, của lễ cho Người chỉ là tình yêu của con
người đối với nhau vì Người.
Chính biến cố mạc khải Thiên Chúa là Thiên Chúa của sự
sống này đã cho Abraham nhận ra Thiên Chúa của ông là một Thiên Chúa khác các
thần dân ngoại mà ít nhiều ông đã biết và đã thờ trước đó. Ông vui mừng vì khám phá ra
Thiên Chúa của ông không tàn ác, khắc nghiệt, dữ tợn, khát máu con dân. Và chỉ
một chân lý đó thôi cũng đã đủ để ông tin tưởng, tôn thờ, kính yêu Người suốt
đời và dạy bảo miêu duệ cũng tôn thờ Người như ông.
Vì thế, điều quan trọng và là cốt lõi của câu chuyện
này là thái độ dứt khoát của Thiên Chúa trước vấn đề sự sống con người. Người
công khai nghiêm cấm đụng chạm đến sự sống con người vì sự sống ấy
có một giá trị tuyệt đối vì đến từ Người, vì mang hình ảnh Người. Chân lý ấy đã
được viết thành luật thời Môsê sau này khi dân Dothái đã đông đảo.
Trong Tân ước, chân lý ấy liên tục được nhắc lại. Một
trong những hoạt cảnh đẹp ca tụng sự sống là cảnh Đức Mẹ mang thai Chúa đến
thăm chị họ là Êlisabét cũng mang thai Gioan. Hai người mẹ tương lai hớn hở,
vui mừng vì mang trong lòng sự sống. Hai bà mẹ tương lai ca tụng Thiên Chúa là
chủ của sự sống vì sự sống đang nhiệm lạ lớn lên trong cung lòng hai bà. Hai bà
mẹ hạnh phúc đang ngây ngất trong thiên chức làm mẹ của sự sống. Hai bà mẹ đang
tràn trề hy vọng vì hồng ân được cưu mang, nuôi dưỡng những con người mới cho
thế giới. Hai bà mẹ không ngớt lời cảm tạ Thiên Chúa của sự sống vì sự sống đã
được ký thác trong lòng hai bà (Lc 1,39-49).
Cũng như Abraham, Đức Mẹ, bà Êlisabét, nhiều người đã
khóc lên vì hạnh phúc được làm cha, nhiều người đã nhảy mừng, sung sướng khi
biết mình sắp được làm mẹ. Và nhìn bào thai lớn dần, họ hạnh phúc với sự sống
đang cử động, chuyển mình. Cho đến ngày sự sống thực sự chào đời làm người,
niềm vui của người mẹ còn lớn hơn nhiều và bà quên hết đớn đau, vất vả, mệt
nhọc của tháng ngày cưu mang, sanh đẻ. Bà chỉ còn nhớ một điều là niềm vui được
cưu mang và cho ra đời một sự sống.
Trong niềm tri ân được vào đời làm người, chúng ta cầu
xin cho các gia đình đừng quên sứ mệnh là chiếc nôi của sự sống, là chốn náu ẩn
an toàn cho sự sống. Xin cho các phần tử trong gia đình thâm tín rằng bổn phận
đầu tiên của họ là phải bảo vệ sự sống như sự sống của họ đã được bảo vệ, nâng
niu. Xin đừng để bất cứ một áp lực nào dù đẹp như danh dự, quý như uy tín, đáng
kính như tước phẩm, ích dụng như bạc vàng trở thành lý do, động cơ, cạm bẫy
giết chết, khai trừ sự sống. Xin cho ánh sáng của Thánh Thần sự sống chiếu rọi
để trong bất cứ chọn lựa nào sự sống cũng nắm phần ưu tiên.[6]
2. Trách
nhiệm nuôi dạy con cái của các gia đình
Gia đình là một
trường học rất huyền bí, vì tất cả những gì diễn ra trong gia đình đều có thể
là bài học cho đứa trẻ. Điều tốt lành và thánh thiện diễn ra thì hữu ích cho
con cái, và ngược lại sẽ làm tổn hại cuộc đời của chúng. Trẻ em vốn là người
nhạy cảm và dễ tiếp thu như một trang giấy trắng, chúng chỉ cần gặp cặp mắt
nghiêm trang của mẹ và cặp mắt khiển trách của bố cũng đủ để cho em giữ mình
trong đường thẳng[7]. Tất cả những tình cảm tin
cậy, yêu thương, kính trọng do bầu khí gia đình tạo nên đều giúp cho đứa trẻ có
những đức tính tốt và lương tâm ngay thẳng. Vì thế những cử chỉ gương mẫu của
người lớn là yếu tố khẩn thiết cho việc giáo dục trong gia đình. Nếu việc giáo
dục đối với cha mẹ là một bổn phận và quyền lợi chính yếu nguyên thủy và ưu
đẳng không thể thay thế và không thể chuyển nhượng[8], thì đó là kết quả của tình
phụ tử và mẫu tử, mà chính trong bổn phận giáo dục tìm thấy sự thực hiện trọn
vẹn của mình[9]. Vì sự sinh sản của tình yêu
hôn nhân không chỉ giản lược ào việc truyền sinh con cái nhưng còn phải mở ra
với việc giáo dục nhân bản[10] và đời sống cầu nguyện, đời
sống đức tin nữa.
Gia dình, trường đào
tạo nhân bản
Yếu tố nhân bản là yếu tố quyết định hạnh phúc của một gia đình. Trước khi là
một gia đình thánh, hãy là một gia đình có nhân bản. Có nhân bản nghĩa là có
những đức tính làm người, những giá trị của một con người. Gia đình cần phải xây trên một nền tảng nhân bản chắc chắn. Trên nền tảng này,
chương trình làm thánh, nên thánh mới có cơ sở thực hiện, vì trưởng thành nhân
bản là điều kiện cần thiết cho trưởng thành siêu nhiên.
Người chồng thiếu nhân bản khi tàn nhẫn trong cung
cách, thô bạo trong ngôn từ, bê tha trong nếp sống. Người vợ thiếu nhân bản khi
thiếu những đức tính cần thiết của một người vợ, người mẹ như: hiền hậu, thương người, tế nhị, kín đáo,
trung tín, thật thà. Con cái thiếu nhân bản khi không học tập kỷ luật làm người
để thoái hóa thành bất hiếu, vô ơn, lăng loàn, lừa lọc. Nhìn vào những
con người không có căn bản làm người trên, ai trong chúng ta dám tin rằng họ sẽ là
thánh, hay sẽ được phong thánh?
Gia đình Đức Kitô trước hết là một gia đình gồm những con
người có nhân bản, có những đức tính làm người cần thiết. Thánh Giuse cần cù, trách nhiệm, âm
thầm, hy sinh. Đức Mẹ kín đáo, tế
nhị, bác ái, chân thành. Đức Kitô vâng lời, hiếu thảo, trung trực. Những con người xứng đáng
đã tạo nên những gia đình xứng đáng. Từ những “xứng đáng” rất người này, sự thánh thiện mới có cơ hội xuất hiện và
lớn lên; bởi thánh thiện như cây non cần đất tốt là con người tốt.
Phải bắt đầu bằng làm người tốt, đào tạo những con người tốt, nếu muốn có những đại thánh, thánh sống, thánh
nhân. Sở dĩ thiếu thánh nhân là vì thiếu hiền nhân. Hiền nhân là người sống đúng đạo làm người. Và khởi điểm của hành trình làm thánh chính là sống xứng đáng đời sống của một con người như ơn gọi
làm người đòi hỏi.
Các gia đình cần thận trọng nhận định nền tảng
của mọi sự thánh thiện là đời sống có nhân bản. Đừng “cuồng tín” mà hủy bỏ
nền tảng nhân bản, nền tảng mà ngay chính
Thiên Chúa cũng đã chọn cho
mình khi xuống thế làm người
như con người và ở giữa con người.[11]
Gia đình, trường dạy
cầu nguyện
Thật
diễm phúc cho chúng ta là những người Kitô hữu, được sinh ra trong gia đình
Kitô hữu. Ngay từ khi lọt lòng mẹ, chúng ta đã được bố mẹ cho thừa hưởng gia
sản không thể bị mối mọt đục khoét là được trở nên một người Kitô hữu với đời
sống cầu nguyện mà chính Con Thiên
Chúa đã mời gọi chúng ta thực thi khi nói: “Thật, Thầy bảo thật anh em, anh em mà xin Chúa Cha bất cứ điều gì nhân
danh Thầy, thì Người sẽ
ban cho anh em” (Ga 16, 23). Cầu nguyện là nguồn mạch của
mọi sự thiện hảo và hạnh phúc chúng ta ao ước ở đời này.[12]
Cầu nguyện làm cho Con Thiên Chúa ở giữa chúng ta: “Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở
đấy, giữa họ” (Mt 18, 20). Khi gia đình cầu nguyện thì Chúa Kitô
ở lại trong chính gia đình ấy. Phải làm sao cho cầu nguyện nên yếu
tố chủ động trong gia đình Giáo hội.[13] Thánh Gioan Maria Vianê linh mục nói với chúng ta rằng:
Cầu nguyện không gì khác hơn là kết hợp với Thiên
Chúa. Khi có tâm hồn trong sạch và gắn bó với Thiên Chúa, ta thấy nơi mình một
hương thơm dịu dàng ngây ngất, một luồng ánh sáng rực rỡ chói chang. Trong mối
kết hiệp mật thiết này, Thiên Chúa và linh hồn tựa như hai khối sáp nóng chảy
hòa vào nhau, không thể tách rời nhau nữa. Thiên Chúa kết hợp với thụ tạo bé
nhỏ của Người: đẹp đẽ biết bao! Hạnh phúc này không sao hiểu thấu.[14]
Thật là ý nghĩa, khi mà trong cầu
nguyện và qua cầu nguyện, con người khám phá ra một nhân cách mình đích thực
vừa đơn giản vừa sâu sắc nhất; trong cầu nguyện, “bản ngã” con người nắm bắt dễ
dàng hơn, cái chiều sâu phẩm chất nhân vị mình. Trái tim con người chúng ta nhỏ
hẹp, nhưng lời cầu nguyện sẽ khiến nó mở rộng và có sức yêu mến Thiên Chúa.[15] Việc ấy cũng rất giá trị đối với gia
đình, không chỉ là “tế bào” căn bản của Giáo hội, mà còn có diện mạo đặc biệt.
Diện mạo này được minh định trước hết và căn bản, và được kiên vững, khi các
thành phần gia đình gặp nhau cùng trong một lời nguyện chung; “Lạy Cha chúng con…!”.
Cầu nguyện củng cố sự vững chắc và cố kết tinh thần
của gia đình, góp phần làm cho gia đình tham dự vào “Sức mạnh” của Thiên Chúa.
“Cầu nguyện là nếm trước hạnh phúc trời
cao, là làm cho phúc lộc thiên đàng tuân đổ. Không bao giờ cầu nguyện mà không
thấy dịu êm. Cầu nguyện là mật chảy vào hồn, biến tất cả nên êm ái ngọt ngào”.[16] Lại rằng: “Buồn phiền cực nhọc sẽ
biến tan khi cầu nguyện sốt sắng tựa tuyết tan dưới ánh mặt trời. Cầu nguyện
làm cho thời gian đi rất mau và đầy hứng thú, khiến ta không cảm thấy lâu”.[17] Trong “lời chúc hôn” long trọng của nghi lễ hôn phối,
chủ tế kêu cầu Chúa cho đôi tân hôn: “Xin
Cha đổ trên họ hồng ân Thánh Thần, để họ nhờ tình yêu tràn đầy trong trái tim,
họ được luôn trung thành với giao ước hôn nhân”, chính từ việc “luôn tràn
Thánh Thần” này mà sinh ra sức mạnh nội tâm gia đình, cũng như quyền năng hiệp
nhất các gia đình trong tình yêu và chân lý[18].
Trong đời sống cầu nguyện, việc đọc Lời Chúa rất cần
thiết. Đọc Kinh thánh ta sẽ hiểu được tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta như
thế nào. Càng hiểu biết Lời Chúa, gia đình sẽ càng thấm thía hơn tình yêu của
nhau. Nhờ Lời Chúa được ban như lương thực hàng ngày, đôi bạn và gia đình Công
giáo luôn tiến
triển trong đời sống đức tin và
được vững mạnh thực hành các nhân đức. Lời Chúa còn là Lời
thể hiện ý muốn của Chúa Cha, Đấng tác tạo vạn vật do tình yêu. Vì thế, hiểu biết Lời Chúa, đôi bạn và gia đình Công giáo sẽ biết cách sống phù hợp thánh
ý Chúa.
Bậc cha mẹ nên biết điều này, làm sao có thể gặp Chúa nếu
không đọc Lời Chúa? Do vậy, đọc và suy niệm Lời Chúa ngày đêm là phương thế số
một dẫn tới sự chiêm ngưỡng Chúa. Lời Chúa giáo dục người lữ hành, ban niềm vui
và biến họ nên giống Chúa. Vai trò giáo dục của Lời Chúa không thể đo lường
được, bởi vì có Thánh Thần tác động bên trong Lời Chúa. Nếu Chúa Kitô coi Lời
Chúa như phương thế thanh luyện các môn đệ
(x. Ga 15,3), là vì Lời Chúa “sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi” (Dt 4,12-13) mà Người muốn ám chỉ trong câu: “Ta
không mang đến bình an mà là gươm giáo” (Mt 10,34). Lời Chúa
sẽ tỉa sạch, cắt đứt mọi dây ràng buộc cả đam mê và tính xấu. Lời Chúa đem đến
sự sống: Lời Chúa là bánh hằng sống, là của nuôi linh hồn.
Bên cạnh việc đọc và
suy niệm Lời Chúa, việc đọc kinh Mân Côi cũng rất
cần thiết và hữu hiệu trong đời sống cầu nguyện của các gia đình. Cùng với các
mầu nhiệm kinh Mân Côi, các gia đình được mời gọi cùng với Mẹ Maria trở nên
những thành phần đích thực của Giáo hội. Mẹ Maria luôn luôn là linh hồn của
Giáo hội.[19] Mẹ Maria hiện diện ở
đâu, ở đấy quyền năng của Chúa Thánh Thần sáng tỏ. Cùng với Chúa Thánh Thần,
Giáo hội sẽ trở nên mạnh mẽ.[20] Gia đình thường được
gọi là Giáo hội tại gia, hay gia đình là Giáo hội thu nhỏ. Cho nên trong bối
cảnh này chúng ta có thể nói: Gia đình nào sùng kính Mẹ Maria và năng cầu
nguyện với Mẹ qua kinh Mân Côi thì gia đình đó luôn có sự hiện diện của Mẹ cùng
với Chúa Thánh Thần. Ở đâu có sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, ở đó có dự hiện
diện của Ba Ngôi Thiên Chúa. Và gia đình đó được tràn đầy sự bình an hạnh phúc
và thánh thiện.
Vì thế, kinh Mân Côi
đóng một vai trò rất quan trọng. Kinh mân côi liên kết chúng ta lại với Mẹ
Maria, để cùng với Mẹ cầu xin Chúa Thánh Thần cho đời sống hôn nhân và gia đình
của chúng ta.[21] Mẹ Maria là nữ vương
các giáo hữu, là Nữ Vương của chúng ta. Và chúng ta được liên kết với Mẹ trong
kinh Mân Côi.[22] Chính qua lời chuyển
cầu của Mẹ Maria, Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta trong khi cầu nguyện riêng
và cũng chính qua lời bầu cử của Mẹ, Chúa Thánh Thần đã khởi sự các giờ kinh
trong các gia đình.[23] Như sự tồn vong của
Giáo hội tùy thuộc vào kinh nguyện thế nào,[24] thì sự tồn vong của
sự thuận hòa êm ấm trong gia đình cũng tùy
thuộc vào kinh nguyện thế vậy. Vì qua kinh nguyện, Thiên Chúa luôn luôn gần gũi bên
chúng ta.[25]
Chúng ta đang sống
trong một thời đại được coi là văn minh, nhưng cũng mang theo vô vàn những đen
tối của thuyết tương đối và hưởng thụ thực dụng làm nhiều gia đình Công giáo
không tránh khỏi lây nhiễm của môi trường văn hóa xã hội. Nhất là đối với thanh
niên thiếu nữ mới lớn, háo hức chạy theo chào lưu di dân và hưởng thụ, du nhập
theo văn hóa thành thị. Khi trở về quê hương, họ mang theo những tư tưởng không
phù hợp với nếp sống gia đình vốn thuần phong mỹ tục. Vì một thành viên muốn
thay đổi ý thức hệ, mà gia đình họ bị biến động. Không những thế, họ còn gieo
rắc tư duy trụy lạc cá nhân, làm cho nhiều bạn bè trong thôn xóm bị ảnh hưởng,
kéo theo nhiều thanh niên nam nữ khác mất đi tính chất hương đồng gió nội, làm
cho nhiều gia đình bị méo mó bỏ mất truyền thống đọc kinh gia đình, lần hạt Mân
Côi sớm tối. Chúng ta hãy ý thức điều đó và sẵn sàng lấy lại tinh thần đạo đức,
siêng năng lần hạt Mân Côi mỗi ngày, xin Mẹ Maria đồng hành với gia đình và
hướng dẫn gia đình đi đúng đường hướng như Thiên Chúa hằng mong ước. Có như vậy
thì chúng ta mới là những tông đồ của Chúa và của Mẹ Maria ngay trong gia đình
mình. Mỗi khi chúng ta nỗ lực làm điều đó là chúng ta làm cho gia đình mình trở
nên khả thị hơn, là một Hội thánh tại gia ngay giữa lòng nhân loại.
III. Gia đình là Hội thánh tại gia
Đức Kitô đã sinh ra và lớn lên trong gia đình gồm
thánh Giuse và Mẹ Maria. Hội thánh là “Gia
đình của Thiên Chúa”. Ngay từ đầu, Hội thánh được hình thành từ những người “cùng với cả gia đình họ” trở thành Tín hữu (Cv 18, 8). Khi gia nhập đạo Công
giáo, họ ao ước cho “cả nhà” được ơn cứu độ (Cv 16. 3). Những gia đình Tín hữu
này là một chất men hữu hiệu làm cho Đức Kitô thấm nhập vào trong thế giới lương
dân.
Ngày nay, chúng ta đang sống
trong một thế giới xa lạ và đôi khi thù nghịch với đức tin Kitô Giáo. Gia đình
tín hữu có tầm quan trọng bậc nhất vì là những ngọn đuốc đức tin sống động và
chiếu sáng. Công đồng Vaticanô II, dùng một thuật ngữ cổ, gọi gia đình là Hội
thánh thu nhỏ hay Hội thánh tại gia.
- Mối tương quan
giữa gia đình và Hội thánh
Gia đình Công giáo và
Hội thánh Công giáo có một mối liên hệ chặt chẽ với nhau, đến nỗi có thể gọi
“Gia đình là Hội thánh tại gia” (HT.11). Công Đồng Vaticanô II nói: “Sự lành mạnh của con người cũng như của xã
hội tự nhiên và Kitô giáo liên kết chặt chẽ với tình trạng tốt đẹp của cộng
đoàn hôn nhân và gia đình” (MV. 47).
Phía Hội thánh
Mẹ Hội thánh sinh ra,
dưỡng dục và xây dựng gia đình Công giáo bằng cách thực hiện cho gia đình sứ
mạng Hội thánh đã nhận từ Chúa Kitô. Đó là: khi loan báo Tin mừng cho gia đình,
Hội thánh nói cho gia đình biết bản tính đích thực của gia đình là gì. Vì khi
đôi bạn cử hành bí tích Hôn phối, Hội thánh làm phong phú, củng cố, thánh hóa
gia đình bằng ân sủng, hầu gia đình biết tôn vinh Thiên Chúa. Hội thánh hướng dẫn gia đình biết cách phục vụ tình
yêu thương, biết cách thể hiện sự hiến thân mà chính Chúa Kitô đã thực hiện
trước đó cho nhân loại (GĐ. 49).
Thánh Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II dạy rằng:
Gia đình là
nền tảng của xã hội và là nơi đầu tiên con người học được những giá trị hướng
dẫn họ trong cuộc sống. Vì vậy gia đình phải là nơi đặc biệt của sự quan tâm
mục vụ. Trong mỗi giáo phận cần phải có một việc tông đồ gia đình sinh động, để
bảo đảm cho các bậc làm cha mẹ có được một sự giúp đỡ để sống ơn gọi riêng theo
tư tưởng của Đức
Kitô, và cho những đôi vợ chồng khác đạo được giúp đỡ, để tránh bất cứ
cách nào làm cho đức tin suy yếu.[26]
Căn tính thật sự của Hội thánh là hiệp thông, nhưng là hiệp thông hướng tới phục vụ, một koinonia vì diakonia. Chỉ có như thế, Hội thánh mới có thể trung thành với
Chúa Giêsu. Người là “tôi
tớ của Đức Chúa”, đã hiến ban một thể thức phục vụ cao nhất, một sự sẵn sàng đầy
tràn đến mức dâng tặng mạng sống. Theo gương Đấng đã cúi mình rửa chân cho các
môn đệ (Ga 13.2-9), Hội thánh tiên khởi đã xem diakonia như là chiều kích cơ bản của tình yêu. Thánh Phaolô đã
viết: “vì yêu thương,
anh em hãy phục vụ lẫn nhau” (Gl 5,13). Đó chính là điều mà
Chúa Giêsu đã khuyên răn các môn đệ sau khi
đã rửa chân họ từng người một: “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì
anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em
cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,14-15).
Chúng ta có thể kết luận như thế
này: với tính cụ thể của lịch sử, Hội thánh trở thành Bí tích của Đức Kitô, là
dấu chỉ và là dụng cụ của ơn cứu độ cho tất cả mọi người, chỉ khi - trong sự
trung thành đích thực hơn nữa với Người là “Phu Quân” của Hội thánh và trung thành với kế hoạch của Người - Hội thánh thực hiện
một sự hiệp thông sâu xa giữa các tín hữu (koinonia) và chỉ khi Hội thánh với tư cách cộng đoàn các tín hữu đem thân phục vụ
toàn thể nhân loại (diakonia). Chính như thế đó Hội thánh trở
thành nơi để cho tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại trở nên hữu hình và
hoạt động trong thế giới.[27]
Phía gia đình
Giữa những
nghĩa vụ căn bản của gia đình Kitô hữu, có một nghĩa vụ có thể nói là có tính
cách Hội thánh, vì nghĩa vụ đặt gia đình vào chỗ phục vụ cho việc xây dựng Nước
Thiên Chúa trong lịch sử; đó là
tham dự vào cuộc sống và sức mạnh của Hội thánh (GĐ. 49).
Gia đình Kitô hữu kết
hợp mật thiết với Giáo hội nhờ bí tích Hôn Nhân, là “Giáo hội tại gia” hay
“Giáo hội nhỏ”, giúp nhau nên thánh và trở thành dấu hiệu thể hiện tình yêu của
Đức Kitô trong thế giới. Họ cũng được mời gọi công bố và làm chứng ý nghĩa tôn
giáo của hôn nhân.[28]
Gia đình Công giáo đã
được tháp nhập vào Hội thánh; sự tháp nhập này cho phép gia thông dự vào sứ
mạng cứu rỗi của Hội thánh theo cách thức riêng của mình. Đó là: khi lãnh bí
tích Hôn phối, đôi bạn và cha mẹ Công giáo nhận được những ơn riêng dành cho
họ, nhờ đó họ chu toàn bổn phận yêu thương trọn đời và giáo dục con cái nên
thánh.[29] Bên cạnh đó, đôi bạn nhận
được tình yêu của Chúa Kitô như là mẫu gương và nguồn mạch ơn thánh hóa, nhờ đó
gia đình trở thành một cộng đoàn được cứu rỗi. Sau hết, đôi bạn được mời gọi
truyền đạt cho anh chị em mình chính tình yêu Chúa Kitô: và như thế, họ sẽ làm
cho gia đình trở nên khí cụ cứu rỗi người khác.[30]
2. Nghĩa vụ giữa gia đình và Hội thánh
Chúng ta cùng tìm
hiểu nghĩa vụ hỗ tương giữa Hội thánh và các gia đình cũng như giữa gia đình và
Hội thánh.
Hội thánh Đối Với Gia
Đình
Vì biết rằng hôn nhân và gia
đình là một trong những điều thiện hảo quý giá nhất của nhân loại, Hội thánh
muốn ngỏ lời và đem lại sự nâng đỡ: cho những người đã biết được giá trị của
hôn nhân cũng như Gia đình và đang cố gắng trung thành với giá trị đó; cho
những người đang sống trong ngập ngừng âu lo và đang tìm chân lý; cho những
người đang bị ngăn cản cách bất công, không được tự do sống dự tính gia đình
của họ. Hội thánh đặc biệt ngỏ lời cùng các bạn trẻ đang chuẩn bị dấn thân vào
con đường hôn nhân và gia đình; ngõ hầu mở ra cho họ những chân trời mới bằng
cách giúp họ khám phá ra vẻ đẹp và sự cao cả của ơn gọi sống tình yêu phục vụ
cho sự sống.[31]
Những lời trên của thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, bộc lộ lòng trìu mến và mối bận tâm
của ngài đối với đời sống gia đình. Cuối tháng 2 năm1995 ngài đã cho công bố thông điệp Tin
mừng sự sống. Là
người đã đóng góp rất nhiều trong việc soạn thảo Hiến chế Vui mừng và hy vọng, trong đó một phần quan trọng được dành do phẩm giá của hôn nhân và gia đình. Thánh Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II cũng là một trong những cố vấn có thế giá đối với Đức Phaolô VI
khi ban hành Thông điệp Sự sống con người.
Thông điệp Tin mừng sự sống là một tái khẳng định và quảng diễn Thông điệp Sự
sống con người của Đức chân phước
Phaolô VI. Thông điệp Tin mừng sự sống, như thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói là một bài suy niệm về sự sống đứng trước một “nền văn hóa chết chóc” đang lan tràn trên thế giới ngày nay, mà thể hiện
rõ nhất là nạn phá thai và làm cho chết một cách êm dịu. Đàng sau sự chết chóc mà nền văn bóa thời đại
đang cổ võ, người ta thấy một cái chết nền
tảng trầm trọng và khủng khiếp, đó là cái chết của lương tâm con người. Dù vậy
đi nữa, Đức Giáo Hoàng Phanxicô, qua Tông huấn Amoris Laetitia vẫn lên tiếng rằng Giáo hội
cần phải gặp gỡ mọi người ngay tại vị thế của họ. Vậy nên các mục tử phải “tránh
những phán xét không nghĩ đến sự phức tạp của nhiều hoàn cảnh khác nhau.” (số
296); “không được đánh đồng hay đặt tất cả mọi người theo một phân loại cứng
ngắc, không còn chỗ cho nhận định riêng và nhận định mục vụ” (298). Nói cách khác,
Không thể có
một cách nhìn cho tất cả mọi người. Tất cả đều được khuyến khích sống theo Tin
mừng, nhưng tất cả cũng cần được chào đón vào trong một Giáo hội cảm kích và
trân trọng những đấu tranh riêng của họ, và đối xử với họ bằng lòng thương xót.
Phải tránh ‘lối suy nghĩ mọi sự là trắng hoặc đen.” (số 305)
Và “Giáo hội không
thể áp dụng các luật luân lý như thể chúng là ‘những viên đá ném vào đời sống
con người ta” (số 305). Nói chung, Đức Phanxicô kêu gọi một cách tiếp cận thông
hiểu, cảm thương, và đồng hành.
Mặc dù biết rằng lương tâm con người thời đại xem ra
chai lì, khô cứng đến độ không còn nhạy bén trước tội ác nữa, một lương
tâm ấy mù quáng đến độ không còn đủ khả năng để phân biệt thiện với ác, Giáo
hội vẫn luôn đồng hành với con người. Như một nhà chuyên môn về nhân bản, Giáo hội không ngừng
lên tiếng cảnh tỉnh nhân loại đang đứng bên bờ vực thẳm của sa đọa; Giáo hội
đồng hành với nhân loại như bảng chỉ dẫn trước vô số những ngã rẽ.
Ngày nay, hơn bao giờ hết, con người không ngừng nại
đến tự do của lương tâm. Quả thực, lương tâm là tiếng nói tối hậu mà con người
phải tuyệt đối nghe theo. Tuy nhiên, khi nại đến quyền tối hậu của lương tâm, nhiều người hiểu nó như một
chuẩn thuận cho bất cứ những gì mình muốn làm. Trong thực tế, lương tâm thường xuất hiện như tiếng nói “không” trước những toan tính ích kỷ của con người, hơn là một sự chuẩn thuận
về những gì con người muốn làm. Nếu quyền của lương tâm
là quyền tối thượng, thì quyền đó
trước tiên là quyền được lắng nghe, ngay cả khi lương tâm nói “không”. Hơn nữa,
tất cả nguồn thông tin chúng ta có thể sử dụng để khẳng định về tính
cách tốt xấu
của hành động, chúng đều đến từ lương tâm chúng ta. Tất cả mọi nguồn thông tin đều đi vào
lương tâm chúng ta, nhưng không phải tất cả những gì đến từ lương tâm chúng
ta đều là nguồn thông tin tiên quyết.
Chúng ta có
một ý
thức bẩm sinh về thiện
và ác, nhưng đây chỉ là một ý thức rất sơ đẳng.
Chúng ta có thể so sánh ý thức này với
giác quan
đặc biệt nơi
một số người về địa lý,
họ
có thể định hướng dễ dàng
hơn người khác, nhưng họ không
thể tin tưởng
nơi
mình một
cách hoàn toàn;
đứng trước ngã rẽ, họ vẫn cần
đến
một bản
đồ
hay
sự
hướng dẫn
của một người chỉ đường. Một cách tương tự, khi đứng trước nhiều ngã rẽ với một quyết định có
tính cách luân lý cần chọn lựa, chúng ta cần có những chỉ dẫn.
Thật là hợp lý khi chúng ta tham khảo
tiếng nói lương tâm chúng ta, nhưng cũng hợp lý không kém khi bên cạnh lương
tâm chúng ta, thúng ta cần phải nhìn xem có ai đó đáng cho chúng ta tin cậy, có thể giúp chúng ta quyết định. Không gì thảm
hại bằng khi chúng ta không tìm được một ai đó để cố vấn và chỉ dẫn, đến độ cuối cùng chúng ta đành phải quay về với một lương tâm mà chúng ta nghi ngờ là có thể sai lầm. Chúng ta ở trong một
tình huống giống như khách bộ hành đứng trước ngã rẽ mà không biết đi về đâu, để rồi rốt cuộc chỉ còn biết phó mặc cho may rủi.
Đối với người
Kitô hữu,
giải pháp thật rõ ràng: chúng ta không bơ vơ trước ngã rẽ, chúng ta không đơn độc khi phải quyết định
trong những gì liên quan đến lãnh vực
luân lý. Thiên
Chúa
ở với
chúng ta và Người luôn có một điều gì đó để
nói với chúng ta khi chúng ta phải chọn lựa. Dĩ nhiên, Thiên Chúa nói với chúng ta trước
tiên là trong lương tâm
mỗi người. Lương tâm vốn là tiếng nói của Thiên Chúa trong mỗi người, nhưng chính vì lương tâm
không phải là một khả năng vô ngộ, mà nhiều khi chúng ta lại hiểu sai tiếng nói của Chúa. Do đó, lắng nghe tiếng lương tâm
chưa đủ, người Kitô hữu còn phải lắng nghe tiếng Chúa trong Kinh thánh.
Trong Cựu Ước, đặc biệt qua Thập giới, Thiên Chúa
đã vạch những bản đồ chỉ
dẫn an toàn nhất hướng dẫn đời sống luân lý con người. Kế đó, trong Chúa Giêsu Đấng là Đường, là Sự thật, Thiên Chúa còn vạch ra những nguyên tắc căn bản nhất của đời sống luân lý. Không một ý muốn nào khác, không một quyền lực nào, không một luật pháp nào của con người có thể dẹp bỏ những nguyên tắc ấy.
Khi Thiên Chúa đã cấm ly dị vì nó trái ngược với bản chất của hôn
nhân, thì tất cả mọi thứ thăm dò ý
kiến, mọi thứ trưng cầu dân ý, mọi biểu quyết của Quốc hội cũng không thể xóa bỏ
được những cấm chỉ ấy của Thiên Chúa. Những
cuộc trưng cầu dân ý, những biểu quyết của Quốc hội có thể hợp thức hóa những trành động tội ác; như phá thai, giết người một
cách êm dịu, ly dị, nhưng không thể làm cho những luật pháp ấy phù hợp với luân
lý.
Thiên Chúa
nói với con người qua Kinh thánh, nhưng liệu Người có nói mọi sự không? Xem ra
còn nhiều điều Người chưa nói đến trong Kinh thánh, chẳng hạn không nói đến vấn
đề nghiện ngập, không nói đến án tử hình, không nói đến việc ngừa thai bằng
phương pháp nhân tạo, không nói đến việc gia tăng dân số… Như vậy, phải chăng Thiên Chúa không có gì để nói với
chúng ta về vấn đề này? Phải chăng khi không có một tiếng nói rõ rệt của Thiên Chúa thì con người được tự do
hơn? Phải chăng đứng trước những ngã rẽ, chúng ta không tìm được một bản chỉ
dẫn nào?
Thật ra người Kitô hữu biết rằng Thiên Chúa nói qua Giáo hội của
Người. Vai trò của Giáo hội chính là giúp chúng ta nghe và hiểu được tiếng nói
của Chúa. Chúa đã nói tất cả trong Kinh thánh, nhưng không phải ai cũng có thể
nhận ra và hiểu được tiếng nói ấy. Chỉ có Giáo hội mà Chúa Kitô đã ủy thác cho
sứ mệnh giáo huấn mới có thể giúp chúng ta hiểu tường tận tiếng nói của Chúa.
Do đó, một lương tâm đúng đắn và ngay lành, phải là một lương tâm luôn cởi mở
để đón nhận hướng dẫn của Giáo hội, nhất là trong những vấn đề khúc mắc và phức
tạp do thời đại đặt ra, mà tự sức riêng, chúng ta không thể tìm được câu giải
đáp đúng đắn[32]. Bởi vậy, các gia đình cần quan tâm và không ngừng dấn
thân theo các giáo huấn của Giáo hội như một nền tảng thiết yếu không thể thiếu
cho gia đình mình.
Gia đình đối với Hội
thánh
Do
ân sủng nhận được từ Hội thánh qua bí tích Hôn phối và do lời mời gọi tham dự
vào sứ mạng của Hội thánh, gia đình Công giáo có nhiều trách nhiệm đối với Hội
thánh. Trước
tiên, gia đình cần có một tấm lòng và một đức tin với Hội thánh trong cảm thức
cũng như trong việc tông đồ. Gia đình phải nhạy cảm trước các biến cố xảy ra
trong Hội thánh, phải chia sẻ những lo âu và hy vọng của Hội thánh.[33] Gia đình phải nhất
trí với giáo huấn của Hội thánh và tìm cách làm cho giáo huấn ấy được thực
hiện. Vì là tế bào của Hội thánh, gia đình phải trở nên tế bào lành mạnh để cả
nhiệm thể được lành mạnh; sống tình yêu toàn diện, hiệp nhất trung thành và
phong phú.
Thứ đến, vì gia đình
là Hội thánh tại gia, nên gia đình Công giáo phải xây dựng nếp sống theo mẫu
mực của Hội thánh gồm ba chức năng: tư tế, ngôn sứ, vương giả tại chính gia
đình mình. Đồng thời thực hiện ba chức năng ấy theo chiều kích Hội thánh toàn
cầu, nghĩa là: như Hội thánh là dân tư tế luôn dâng lên Thiên Chúa lời ca ngợi, cảm tạ qua kinh nguyện, qua các nghi
thức phụng vụ, nhất là phụng vụ bí tích. Gia đình cũng phải thực thi chức năng
tư tế của mình: đó là siêng năng cầu nguyện, chuyên chăm tham dự các bí tích,
cách riêng bí tích Thánh Thể; biết dâng hiến cuộc đời với vui buồn sướng khổ
trong ý cầu nguyện cho Hội thánh, cầu nguyện cho các chương trình mục vụ của
giáo xứ, Giáo phận và Hội thánh đạt kết quả tốt đẹp.
Chức năng ngôn sứ:
Hội thánh hằng kiên trì thực thi chức năng ngôn sứ bằng cách trung thành lắng
nghe và mạnh dạn công bố Lời Chúa, mỗi người cũng phải biết đón nhận, sống và
thông đạt Lời Chúa cho mọi phần tử trong gia đình; cũng phải biết học hỏi các
giáo huấn của các đức Giáo Hoàng cũng như của Đức Giám mục Giáo phận để truyền
đạt lại cho người trong gia đình. “Trong
nhiều hoàn cảnh ngày nay, việc giảng dạy Lời Chúa trong gia đình trở nên cần
thiết đến mức tuyệt đối” (GM. 52).
Chức năng Vương giả:
Hội thánh luôn thi hành chức năng vương giả bằng cách nỗ lực sắp đặt các thực
tại trần thế dưới vương quyền Chúa Kitô, thì
đôi bạn và cha mẹ Công giáo cần tìm kiếm nước Thiên Chúa qua việc quản trị các thực tại trần gian và xếp đặt
chúng theo ý Thiên Chúa (HT. 31). Phải tổ chức gia đình theo hướng dẫn của Hội
thánh, giúp người khác thực hiện việc tổ chức ấy trong tinh thần bác ái, hầu
làm cho Hội thánh địa phương được tốt đẹp. Đồng thời biết góp phần xây dựng
giáo xứ tùy theo khả năng và hoàn cảnh[34].
Như Công đồng Vaticanô II khuyên nhủ rằng:
Các gia đình hãy quảng đại san sẻ cho nhau sự phong phú tinh thần. Vì
gia đình Công giáo phát xuất từ cuộc hôn nhân là hình ảnh giao ước tình yêu nối
kết Chúa Kitô và Hội thánh, họ sẽ làm cho mọi người thấy sự hiện diện sống động
của Chúa Cứu Thế trong thế giới và trong bản chất đích thật của Hội thánh, qua
tình yêu vợ chồng, qua sự quảng đại chấp nhận sinh sản con cái, qua sự hợp nhất
và trung thành của hai vợ chồng, cũng như qua sự hợp nhất nhân ái giữa
mọi thành phần trong gia đình (MV. 48).
Kết
luận
Một lần nữa, ta nhắc lại giáo huấn của Đức Giáo Hoàng
Biển Đức XVI: “Nhân loại không có tương
lai, nếu không có gia đình.” Với lối nói loại suy, chúng ta cũng có thể khẳng định rằng “Giáo hội không có tương lai, nếu không có
gia đình”. Quả vậy, khi nhìn nhận
gia đình là nền tảng của Hội thánh, chúng ta khám phá nét đẹp thần thiêng bền
vững của các gia đình, vốn phản ánh vẻ đẹp vĩnh cửu của gia đình Ba Ngôi Thiên
Chúa.
Như thế, gia đình và
Hội thánh luôn có mối tương quan khắng khít và có nghĩa vụ quan tâm đến nhau.
Gia đình làm nên Hội thánh, vì Hội thánh bao những con người xuất thân từ các
gia đình hợp lại mà thành. Hội thánh là một gia đình và gia đình cũng là một
Hội thánh. Sứ mạng của Hội thánh là làm cho men Tin mừng của Chúa thấm nhập,
ngấm dần vào trong thế gian; do vậy, một gia đình Kitô hữu đích thực, là gia
đình thấm nhuần tinh thần loan báo Tin mừng và sẵn sang dấn thân cho sứ mạng
ấy; họ sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian, nhưng trở thành chứng tá
cho thế gian; trở thành men, thành muối cho nhân loại.
[2] Gia Đình Trong Trái Tim và
Trong Vai Trò Ngôn Sứ Của Đức Gioan Phaolô II, Nguyễn
văn Dụ chuyển ngữ, Tòa TGM TP HCM, 2006, tr 73.
[3] R. Veritas, Hôn Nhân và Gia Đình
Kitô Giáo, Rôma ngày 2/2/1994.
[7] X. Raymond Beach, Gia Đình Giáo Dục,
Nxb Thời Triệu, 1971, tr 21.
[8] FC, số 36; Gravissimum educationis,
số 3; Hiến Chương Về Quyền Gia Đình,
Điều 5; Bộ Giáo Luật, điều 1136.
[9] Nguyễn Văn Dụ, Hướng Dẫn Mục Vụ
Gia Đình, Văn Phòng Thư Ký Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (lưu hành nội bộ),
2006, tr 175.
[10] Sđd, tr 174.
[12] SERMONT OF THE CURÉ OF ARS, Những
Bài Giảng Bất Hủ Của Cha Thánh Gioan Maria Vianney, Tập 2, Phaolô Vũ Đức
Thành (chuyển ngữ), Nxb Tôn Giáo, tr 343.
[13] R. Veritas, Hôn Nhân Và Gia Đình
Kitô Giáo, Rôma 2/2/1994.
[14] Bài Đọc 2, (Lễ kính thánh Gioan Vianey, ngày 4/8), Các Bài Đọc Giờ Kinh Sách, Quyển
2, Nxb Tôn Giáo, tr 984
[15] Bài Đọc 2, (Lễ kính thánh Gioan Vianey, ngày 4/8), Các Bài Đọc Giờ Kinh Sách, Quyển
2, Nxb Tôn Giáo, tr 984
[16] Ibid.
[17] Ibid.
[18] R. Veritas, Hôn Nhân và Gia Đình
Kitô Giáo, Rôma Ngày 2/2/1994.
[19] Nguyễn Hữu Thi, Đức Maria Trong Kinh
Nguyện Giáo hội, Nxb Trung Tâm Mục Vụ CGVN Giáo Phận Trier, CHLB Đức, 2006,
tr 259.
[20] Ibid., tr 260.
[21] Nguyễn Hữu Thi, Đức Maria Trong Kinh
Nguyện Giáo hội, Nxb Trung Tâm Mục Vụ CGVN Giáo Phận Trier, CHLB Đức, 2006,
tr 260.
[22] Ibid., tr. 261
[23] Ibid., tr 262.
[24] Ibid., tr 263.
[25] Sđd., tr 263.
[26] Gia Đình Trong Trái Tim và
Trong Vai Trò Ngôn Sứ Của Đức Gioan Phaolô II, Lm
Augustinô chuyển ngữ, Tòa TGM TP HCM, 2006, tr 393.
[27] Équipe Notre-Dame Italia, Luy Nguyễn Anh Tuấn chuyển ngữ, Tình Yêu và Hôn Nhân, Nxb Phương Đông,
2008, tr 319-322.
[29] Hôn nhân Công giáo (lưu hành nội bộ), tr 73.
[30] Sđd, tr 73.
[32] R.D. WAHRHEIT, Tính Hiện Đại Của
Thông Điệp Sự Sống Con Người, (Lưu hành nội bộ), tr 201-206.
[33] Sđd, tr 73-74.
[34] Xc. Hôn Nhân Công giáo (lưu
hành nội bộ), tr 73-76.
Đăng nhận xét