Phẩm giá & vẻ đẹp của hôn nhân và gia đình


Toàn bộ đời sống Kitô giáo
mang dấu ấn của tình yêu hôn nhân giữa Đức Kitô và Hội thánh. Trong ý nghĩa này, phẩm giá và vẻ đẹp của đời đôi bạn
thật sáng ngời và đáng trân quý biết bao.
Chính phẩm giá và vẻ đẹp này phản ánh tình yêu của Thiên Chúa, “cứu độ” cộng đồng nhân loại
và đang kiến tạo cho thế giới nền văn minh tình thương và sự sống.
Quốc Văn, OP.
Dẫn Nhập

Câu chuyện hôn nhân và gia đình là câu chuyện dài nhiều tập. Nghe câu chuyên này, có người đã khôi hài thốt lên: “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!” Đúng là ai cũng biết, nhiều người khổ, và cũng tốn biết bao giấy mực cho đề tài này rồi, nhưng nói mãi cũng chẳng hết được! Trong bài viết này, chúng tôi xin bàn đến phẩm giá và vẻ đẹp của đời sống đôi bạn. Phẩm giá và vẻ đẹp này ngày càng trở nên lu mờ trong xã hội hiện đại của chúng ta. Công đồng Vaticanô II đã dạy thật chí lý rằng:
Sự lành mạnh của con người cũng như xã hội nhân loại và Kitô giáo liên kết chặt chẽ với tình trạng tốt đẹp của cộng đoàn hôn nhân và gia đình. Do đó, cùng với tất cả những ai tán dương các cộng đoàn hôn nhân và gia đình, người Kitô hữu thành thực vui mừng trước những trợ lực khác nhau giúp con người ngày nay tiến tới trong việc cổ võ cộng đoàn yêu thương ấy cũng như trong sự tôn trọng đời sống; những trợ lực ấy còn giúp đỡ các đôi vợ chồng và các bậc làm cha mẹ trong sứ mệnh cao cả của họ. Người Kitô hữu còn mong đợi và nỗ lực thực hiện những thành quả tốt đẹp hơn.
Nhưng phẩm giá của định chế ấy không phải ở đâu cũng sáng tỏ như nhau, vì đã bị lu mờ bởi chế độ đa thê, nạn ly dị, bởi cái mà người ta gọi là tự do luyến ái, cùng những hình thức lệch lạc khác. Hơn nữa, tình yêu hôn nhân rất thường bị hoen ố vì lòng ích kỷ, khoái lạc chủ nghĩa và những lạm dụng bất hợp pháp cản trở sự sinh sản. Ngoài ra, các hoàn cảnh hiện tại về kinh tế, xã hội, tâm lý và chính trị đang gây cho gia đình những xáo trộn trầm trọng. Sau hết, tại một vài nơi trên thế giới, người ta không khỏi lo lắng nhận thấy những vấn đề được phát hiện do sự gia tăng dân số. Tất cả những điều ấy đang làm khắc khoải lương tâm con người.[1] 
Cùng với niềm vui mừng và cả nỗi âu lo, chúng ta tái khám phá phẩm giá và vẻ đẹp của đời sống hôn nhân và gia đình, đồng thời tìm mọi phương cách để kiến tạo và gìn giữ phẩm giá và vẻ đẹp thánh thiêng đó.
Phẩm giá và vẻ đẹp
của đời sống hôn nhân và gia đình
Đâu là phẩm giá và vẻ đẹp của đời sống hôn nhân và gia đình? Để khám phá phẩm giá và vẻ đẹp này, trước hết chúng ta trở về với những mặc khải căn bản của Kinh thánh, thứ đến chúng ta khám phá phẩm giá và vẻ đẹp của hôn nhân gia đình như một bí tích; và sau cùng, theo giáo huấn của Công đồng Vatican II, chúng ta cần xác định rằng hôn nhân gia đình là một nẻo đường nên thánh.
Một khóe nhìn từ Kinh thánh
Kinh thánh đã đề cập đến hôn nhân và gia đình ngay từ những trang đầu (x. St 1,27-28; 2,18-25). Điều này cho thấy, hôn nhân không chỉ là một định chế thuần túy của con người, mà trước hết hôn nhân còn nằm trong chương trình của Thiên Chúa, khi Người dựng nên con người có nam có nữ, và mời gọi họ: “Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều, đầy mặt đất, và thống trị nó” (St 1,28).[2]
Đón nhận mặc khải của Thánh kinh, Giáo hội Công giáo luôn trân trọng các gia đình và xác tín rằng gia đình là một đơn vị thánh, đơn vị xã hội căn bản được chính Thiên Chúa tạo dựng và chúc lành:
Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly (Mc 10,6-9).
Không phải đến thời Chúa Giêsu hôn nhân và gia đình mới được thành lập và chúc phúc; thực ra, kể từ ông Ađam và bà Evà, thuở tạo thiên lập địa, gia đình đã được thành lập và chúc phúc! Bởi đó, dù trải qua bao thăng trầm lịch sử, gia đình vẫn luôn là nền tảng căn bản để nâng đỡ và xây dựng cuộc sống nhân loại trong cảm thông và yêu thương. Hơn bất cứ điều gì, gia đình phải chính là tổ ấm tình yêu để đặt nền tảng cho mọi thứ tình yêu khác.
Thật thế, qua Kinh thánh chúng ta khám phá ra rằng người nam, người nữ được tạo dựng cho nhau, như chính lời Chúa phán: “Con người ở một mình thì không tốt”. “Vì thế, người nam lìa cha mẹ mình mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2,24). Người nữ là “xương thịt bởi xương thịt” người nam, bình đẳng và gần gũi với người nam. Sự kết hợp bền vững giữa hai người nam nữ được Đức Kitô nói rõ khi Người nhắc lại ý định “từ nguyên thủy” của Đấng sáng tạo: “Họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.” (Mt 19,6).
Qua những trình thuật Kinh thánh ở trên, chúng ta nhận ra phẩm giá và vẻ đẹp của đời đôi bạn được diễn tả qua kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, sự bình đẳng, sự bổ túc và kiện toàn cho nhau giữa vợ với chồng. Xu hướng người nam và người nữ tìm đến nhau chính vì bên này thấy bên kia là một phần thân thể của riêng mình. Sự diễn tả của Kinh thánh làm nổi bật mối dây ràng buộc tình yêu vợ chồng bền chặt keo sơn hơn cả tình ruột rà máu mủ; một mối dây thủy chung son sắt vẹn toàn không thể tách rời, chia ly. Chính vì thế, Thiên Chúa đã dùng hình ảnh hôn nhân để diễn tả tình yêu của Người đối với nhân loại chúng ta. Hệ quả của mối tương quan nhân-thần này diễn tả qua hành vi thờ phượng Thiên Chúa, hành vi này được ví như một cuộc hôn nhân chính thức, không bao giờ khoan nhượng cho bất cứ hình thức hôn nhân bất hợp pháp hay thất trung nào khác. Thiên Chúa đã đón nhận dân Israel làm dân riêng của Người qua Giao ước Sinai. Vì thế, Người không chấp nhận dân ấy đi “đàng điếm với các tà thần”: “Ngươi sẽ không thờ lạy thần nào khác” (Xh 34,14).
Ngôn sứ Hôsê đã diễn tả thảm kịch thất trung của Israel bằng chính kinh nghiệm cuộc hôn nhân của mình. Giavê đã trách dân Israel: “Nó đã không còn là vợ Ta và Ta không còn là chồng nó” (Hs 2,4). Người vợ ở đây tượng trưng cho dân Israel, một cộng đồng nhân loại vô ơn, bội nghĩa, ngoại tình, nghĩa là bỏ Chúa mà đi lạy tà thần. Dù vậy, Giavê vẫn một mực yêu nó, luôn luôn tha thứ và thi ân giáng phúc cho nó; lại còn “quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình” (Hs 2,16). Hôsê đã giới thiệu Thiên Chúa như một người tình có giàu kinh nghiệm yêu đương. Người luôn quên hết mọi tội lỗi của con người, quên đi cơn giận của mình và tìm lại sự hòa giải với người vợ bất trung, tái lập lại nơi nàng một mối tương quan thân mật và sự thông hiệp mà không một sức mạnh nào trên trần gian này có thể phá đổ đi được.[3]
Trong sách Tôbia, hôn nhân cũng được trình bày như một diễm phúc. Sách Tôbia trình bày đời sống đôi lứa lý tưởng, thủy chung, tin tưởng và kính sợ Thiên Chúa. Đây là một mô hình đời sống hôn nhân và gia đình hoàn toàn phó thác vào bàn tay Đấng Quan Phòng. Chính mô hình này hoàn thiện cuộc hôn nhân lý tưởng được trình bày trong sách Sáng Thế chương 1 và 2.
Khi nói đến những mặc khải của Thánh kinh về tình yêu đôi lứa, ta không thể không nhắc đến Sách Diễm Ca. Tác phẩm này diễn tả tình yêu hôn nhân của đôi nam nữ như là giấc mơ của cả nhân loại, trong đó mọi người đều cảm thấy mình gần gũi và thắm tình huynh đệ qua kinh nghiệm của người nam và người nữ, kinh nghiệm của cuộc tình đầy vui thú, sáng tạo và mộng mơ. Đối với Sách Diễm Ca, đời sống lứa đôi là dấu chỉ của việc xóa tan tính cô đơn và là nguồn mạch của mọi tương quan chân thực với những người anh chị em của mình.[4] 
Vào thời Tân ước, Tin mừng không nói nhiều đến hôn nhân, hay nói đúng hơn là không dùng những hình ảnh như trong Cựu ước; nhưng Chúa Giêsu thường gán cho mình danh xưng Chàng rể mà xưa kia các ngôn sứ thường gán cho Đức Giavê: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại có thể than khóc, khi chàng rể còn ở với họ? Nhưng khi tới ngày chàng rể đã bị đem đi, bấy giờ họ mới ăn chay” (Mt 9,15). Khi bắt đầu đời sống công khai, Chúa Giêsu đã có mặt trong buổi tiệc cưới tại Cana và đã làm dấu lạ đầu tiên, biến nước thành rượu để niềm vui của tiệc cưới được nên trọn (xc. Ga 2,1-11). Sự hiện diện này của Đức Giêsu được Hội thánh hiểu như là một chứng thực của Người đối với giá trị hôn nhân, đồng thời cũng tiên báo sự hiện diện thường xuyên của Người trong đời sống hôn nhân và gia đình của nhân loại.
Trong lời rao giảng, Chúa Giêsu dạy rõ ràng về ý nghĩa nguyên thủy của việc phối hợp giữa người nam và người nữ như thuở ban đầu Đấng Tạo Hóa đã muốn. Sự phối hợp này là bất khả phân ly. Mặc dầu, Luật Môsê cho phép rẫy vợ, nhưng đó chỉ là một biện pháp sư phạm bất đắc dĩ đối với tình trạng luân lý sa sút của con người, chứ không phải là chính bản chất của luật hôn nhân.[5]
Khi tái lập trật tự ban đầu của công trình sáng tạo đã bị tội lỗi làm xáo trộn, Chúa Giêsu đã ban sức mạnh và ân sủng để các đôi vợ chồng sống đời hôn nhân trong chiều kích mới của Vương quốc Thiên Chúa. Ân sủng của hôn nhân Kitô giáo là hoa quả của Thánh Giá Đức Kitô, nguồn mạch mọi đời sống Kitô hữu. Thánh Phaolô cho thấy điều đó khi nói: “Người làm chồng hãy yêu thương vợ như Đức Giêsu Kitô đã yêu thương Hội thánh, và hiến mình vì Hội thánh để thánh hóa Hội thánh” (Ep 5, 25-26). Ngài còn nói thêm: “Bởi thế, người ta lìa bỏ cha mẹ mình mà kết hợp với vợ mình và cả hai nên một thân xác. Mầu nhiệm này thật lớn lao, tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội thánh” (Ep 5,31-32).
Theo những gì được trình bày trên thì hôn nhân trong Cựu ước chính là hình ảnh sống động diễn tả giao ước giữa Thiên Chúa với dân Người; giao ước này được ví như một cuộc hôn nhân thủy chung, duy nhất (x. Hs 1-3; Is 54; 62; Gr 2-3; 31; Ed 16; 23). Trong Tân ước, hôn nhân được coi là hình ảnh sự kết hợp giữa Đức Kitô và Hội thánh (Ep 5, 22-23). Đức Kitô được ví như chàng rể của giao ước mới (Mc 2, 19), còn Hội thánh như cô dâu xinh đẹp, đã được Đức Kitô yêu thương đến hy sinh mạng sống của mình (Ep 5, 25).
Như vậy, toàn bộ đời sống Kitô giáo mang dấu ấn của tình yêu hôn nhân giữa Đức Kitô và Hội thánh. Trong ý nghĩa này, phẩm giá và vẻ đẹp của đời đôi bạn thật sáng ngời và đáng trân quý biết bao. Chính phẩm giá và vẻ đẹp này phản ánh tình yêu của Thiên Chúa, “cứu độ” cộng đồng nhân loại và đang kiến tạo cho thế giới nền văn minh tình thương và sự sống.
Hôn nhân gia đình, một bí tích
Công đồng Trentô khẳng định rằng hôn nhân là một bí tích. Hiến Chế Phụng Vụ của Công đồng Vaticanô II cho chúng ta hiểu rằng: hôn nhân là một bí tích, nghĩa là một phương thế thần diệu chuyển thông ơn cứu độ, một dấu tích tình yêu của Đức Kitô, một con đường dẫn đến sự hoàn thiện. Hiến Chế về Hội thánh cũng gọi hôn nhân là giây tình yêu liên kết hai người và tình yêu này phản ánh tình yêu mầu nhiệm giữa Chúa Kitô và Hội thánh. Do đó, ta có thể nói hôn nhân Kitô giáo là một ơn gọi thánh thiện, đồng thời là sứ mệnh cao cả. Điều này có được là nhờ Đức Kitô. Người nhắc nhở cho ta biết phẩm giá của con người, của tình yêu. Người chỉnh đốn thánh hóa hôn nhân và đem đến cho hôn nhân vẻ đẹp tôn quý.[6]
Khi một người nam và một người nữ cùng đến trước bàn thờ Chúa và với sự chứng giám của cộng đoàn Dân Chúa để kết hôn với nhau, để khởi đầu cuộc sống đôi lứa của mình với phép lành của Chúa và của Giáo hội, thì tất nhiên điều ấy có nghĩa là họ muốn bày tỏ tình yêu của họ một cách công khai, và đồng thời họ cùng thiết lập với nhau một giao ước tình yêu, ngang qua lời thề hứa là sẽ trọn đời yêu thương và tôn trọng nhau. Chính vì vậy, hôn nhân không chỉ là một khế ước mang tính xã hội, nhưng còn là một thực tại thánh thiêng.[7]
Quả vậy, khi nói về hôn nhân, Hiến Chế Phụng Vụ diễn tả hôn nhân Kitô giáo không phải chỉ là một nghi thức nhưng là một bí tích, nghĩa là một phương thế thần diệu chuyển thông ơn cứu độ, một dấu tích tình yêu của Đức Kitô, một con đường dẫn đến hoàn thiện.
Khi hai người lương kết hôn, hôn nhân của họ có giá trị trước mặt Thiên Chúa ở bình diện tự nhiên như một giao kết, nhưng chưa phải có giá trị và ân sủng bí tích. Trái lại, khi hai người Công giáo kết hôn, ngoài tính cách giao kết tự nhiên, hôn nhân của họ trở thành bí tích và mang lại ơn sủng cứu độ. Ơn sủng này nâng đỡ đôi bạn trong việc hoàn thành sứ mạng và bổn phận của mình trong đời sống vợ chồng vừa ở chiều kích tự nhiên, vừa ở chiều kích siêu nhiên.[8]
Giáo hội dạy rằng hôn nhân được Chúa Giêsu nâng lên hàng bí tích thánh - dĩ nhiên, việc nâng nhắc hôn nhân lên hàng bí tích thánh không hề làm biến mất tính chất chủ yếu của hôn nhân; trái lại, tính cách bí tích càng hoàn thiện và thánh hóa tất cả lãnh vực thuộc hôn nhân, cả đến tình yêu và các sinh hoạt vợ chồng – từ nay, hôn nhân trở nên một dấu chỉ linh nghiệm nhất định của ơn thánh, đến nỗi giữa những người tín hữu Công giáo sẽ tuyệt đối không bao giờ có một hôn nhân hữu hiệu và thành sự, nếu hôn nhân đó không phải là một bí tích. Và chính đôi tân hôn cùng trao cho nhau bí tích thánh này khi họ công khai kết hôn trước bàn thờ Chúa và trước sự chứng giám của Giáo hội qua sự hiện diện của thừa tác viên và cộng đoàn các tín hữu.
Về điểm này, Đức Piô XII nói với các đôi tân hôn rằng:
Chính các con là những người ban cho nhau bí tích hôn nhân. Các con tín thác hoàn toàn nơi Chúa để Người phối hợp các con lại với nhau thành một cộng đồng bất khả tháo gỡ và tuôn đổ các ơn thánh của Người xuống trên tâm hồn các con, hầu giúp các con chu toàn các bổn phận của mình một cách bền vững và trung thành.[9]
Không sợ quá lời khi chúng ta khẳng định rằng hôn nhân Kitô giáo làm bừng sáng lên mầu nhiệm sự kết hợp giữa Đức Kitô và Giáo hội Người. Nhiệm tích hôn nhân làm cho tình yêu vô hình và dấu ấn của Đức Kitô đối với dân Người trở thành hữu hình và có thể chạm tới được. “Sự kết hợp của Đức Kitô với Giáo hội” là mẫu mực của sự kết hợp giữa hai vợ chồng. Mối dây liên kết mang tính bí tích giữa vợ và chồng phản ánh thực tại sâu thẳm của tình yêu liên kết giữa Đức Kitô và Giáo hội.[10] Thánh Phaolô viết trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô: “Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Giáo hội” (Ep 5,32). Thật vậy, hôn nhân Kitô giáo không chỉ là phản ánh của sự hợp nhất của Con Thiên Chúa với bản tính nhân loại, sự tự hiến tế mình của Đức Kitô trên thập giá và trong Phép Thánh Thể cũng như sự kết hợp của Người với Giáo hội, nhưng còn là sự tham phần vào chính tình yêu Thiên Chúa và vào sự hiện diện của tình yêu ấy trong vũ trụ.      
Cũng như tất cả các bí tích thánh khác, bí tích hôn nhân cũng đã được Đức Kitô giao phó cho Giáo hội gìn giữ và bảo tồn. Do đó, việc kết hôn giữa một người nam và một người nữ luôn luôn phải có sự tham gia của Giáo hội; hay nói cách khác, hai người tín hữu nam nữ Công giáo muốn kết hôn với nhau, thì họ cần kết hôn trước sự chứng giám của Giáo hội. Và Giáo hội không những cùng đồng hành với đôi tân hôn trong khi họ cử hành bí tích hôn phối bằng lời cầu nguyện và phép lành của mình, nhưng Giáo hội còn canh phòng và chứng nhận cho sự hiệu lực của sự kết hôn ấy.
Nhờ hiệu lực của bí tích Hôn nhân, những đặc điểm chủ yếu của hôn nhân Công giáo là đơn hôn, tức một vợ một chồng, và sự bất khả tháo gỡ sẽ có được nội dung và vẻ huy hoàng rực rỡ mới. Đời hôn nhân phản ánh tình yêu vô biên giữa Đức Kitô và Giáo hội, hôn nhân Công giáo thành sự, tức đã trở thành bí tích, sẽ là một sự phối hợp bền vững và bất khả tháo gỡ giữa một người nam và một người nữ.
Trong bài giáo huấn của Đức Piô XII cho các đôi tân hôn ngày 29.4.1942, ngài nói:
Vì hôn nhân là biểu tượng cho sự hợp nhất giữa Đức Kitô và Giáo hội, nên hôn nhân không thể khác hơn là bất khả tháo gỡ và luôn bền vững (…). Vì thế, tính chất bất khả tháo gỡ của hôn nhân chỉ là sự hiện thực điều mà một trái tim tinh tuyền và lành mạnh hằng khao khát hướng tới, tâm hồn Kitô giáo, và chỉ sự chết mới chấm dứt được tính cách bất khả tháo gỡ ấy của hôn nhân.[11]
Như thế, hôn nhân giữa hai người đã được thanh tẩy, được Đức Kitô nâng lên hàng bí tích: “Từ đó tất cả đều được biến đổi”. Thánh Phaolô nói với những người Kitô hữu muốn thành hôn với nhau rằng: “Anh em đâu còn thuộc về mình nữa” (1Cr 6,19). Là phần tử của Đức Kitô, người này và người kia “trong Chúa”, sự kết hợp của họ được thực hiện trong Chúa như sự kết hợp của Giáo hội, và đó là “một mầu nhiệm cao cả” (Eph 5, 32), một dấu chỉ không những chỉ nói lên mầu nhiệm hiệp nhất của Đức Kitô với Giáo hội, nhưng còn chứa đựng và chiếu ngời điều ấy qua ơn huệ của Chúa Thánh Thần là linh hồn sống động của mầu nhiệm ấy.[12]
     Chúng ta có thể khẳng định rằng hôn nhân Kitô giáo là bản phác họa hay tiền dự án của Tiệc Cưới Vĩnh Cửu mai hậu trên Nước Trời, vì thế nó luôn sống trong sự mong đợi Tiệc Cưới Vĩnh Cửu ấy. Nói cách khác, hôn nhân Kitô giáo mang trong mình tính chất cánh chung. “Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng còn lấy vợ lấy chồng nữa, nhưng trở nên giống như các thiên thần trên trời” (Mt 22,30). Để sáng tỏ thêm điều này, ta nhớ lại giáo huấn của Đức Piô XII:
Sợi dây chắc chắn của tình yêu đã ràng buộc các tâm hồn lại với Chúa và với nhau, thì trong sợi dây tình yêu ấy các đôi vợ chồng cũng sẽ tiếp tục tồn tại trong cuộc sống mai hậu, cũng giống như chính các linh hồn – mà trong đó tình yêu đã từng cư ngụ khi sống ở đời này – vẫn tồn tại.[13]
Như vậy, ta có thể nói, Thiên Chúa đã thiết lập khế ước hôn nhân ngay trong vườn địa đàng, giữa người nam và người nữ đầu tiên. Còn Chúa Giêsu, Ngài đã nâng hôn ước đó lên hàng bí tích. Qua bí tích hôn phối, tình yêu của hai vợ chồng được Thiên Chúa đóng ấn; họ nhận được những ơn siêu nhiên giúp họ sống ơn gọi hôn nhân và gia đình, và trở nên dấu chỉ mầu nhiệm Đức Kitô kết hiệp với Hội thánh.[14]
Khi bàn về bí tích hôn phối, trong một bài giáo huấn của mình, Đức Thánh Cha Phanxicô đã dạy rằng:
Bí tích hôn phối là một hành động đức tin và tình yêu to lớn: nó minh chứng cho lòng can đảm dám tin vào vẻ đẹp của hành động tạo dựng của Thiên Chúa và sống tình yêu đó vốn luôn thúc đẩy đi xa hơn, xa hơn cả bản thân và còn xa hơn cả gia đình riêng tư của mình. Ơn gọi Kitô giáo yêu thương không hạn chế và không bến bờ là điều mà với ân điển của Đức Kitô, nằm trong nền móng của sự ưng thuận tự nguyện làm nên hôn nhân.
Trong một bài giáo huấn khác ngày 6/5/2015, Đức Thánh Cha cũng nhận định rằng:
Đời sống của Giáo hội được phong phú thêm bởi vẻ đẹp của giao ước hôn nhân này, và bị nghèo nàn đi bất cứ khi nào giao ước đó bị biến dạng. Giáo hội cần lòng trung thành dũng cảm của các cặp vợ chồng để cống hiến cho tất cả mọi người quà tặng đức tin, đức cậy và đức mến. Dân Chúa cần phải đi trong cuộc hành trình đức tin, đức cậy  và đức mến hàng ngày bằng tất cả niềm vui và khó khăn mà con đường này đòi hỏi trong hôn nhân và gia đình.[15]
Hôn nhân gia đình, một ơn gọi nên thánh
Công đồng Trentô khẳng định hôn nhân là bí tích, còn Công đồng Vaticanô II trình bày hôn nhân như một ơn gọi. Khẳng định hôn nhân là một ơn gọi nên thánh theo cách thế riêng là điều mới mẻ của Công đồng. Trước đó đã có lúc người ta nghĩ sự thánh thiện là đặc ân chỉ dành cho một số ít được đặc tuyển mà thôi.
Như vậy, Vaticanô II muốn chỉ cho đôi bạn thấy một con đường, một linh đạo riêng biệt của hôn nhân gia đình. Con đường này giúp đôi bạn ý thức cuộc sống mình đã chọn không phải là tiến trình sinh trưởng của cấp sinh vật, nhưng là đời sống có chọn lựa, chọn lựa một đời sống cao quý mà tự bản chất con người nhận thức được điều này, nhưng có khi bị lãng quên. Công đồng đã nhìn ra phẩm tính thiêng liêng của hôn nhân. Hôn nhân không bị xem là một tiến trình tự nhiên mù quáng của bản năng, nhưng là một bậc sống đòi hỏi một chọn lựa giữa những chọn lựa của các bậc sống khác. Công đồng trình bày hai ý nghĩa nhân loại và thiêng thánh của hôn nhân trong cùng một thực tại hôn nhân. Linh đạo của đời sống hôn nhân là con đường phù hợp và thuộc về đời sống của vợ chồng. Công đồng chỉ ra sự cao cả ngay trong khi đôi bạn chu toàn những bổn phận hằng ngày như đời sống đôi bạn, con cái, xã hội... Và như thế, ơn gọi bậc hôn nhân cùng được sánh vai với những ơn gọi khác trong những trợ giúp của ân sủng và ý nghĩa giá trị riêng của nó.
Quả vậy, các bản văn của Công đồng về ơn gọi hôn nhân được trình bày như ơn gọi nên thánh.[16] Hiến chế Lumen Gentium trình bày khái quát về việc nên thánh của bậc sống hôn nhân:
Nhờ sức riêng của bí tích Hôn Phối, các đôi vợ chồng Kitô giáo biểu hiện và tham dự mầu  nhiệm hiệp nhất và tình yêu phong phú giữa Chúa Kitô và Giáo hội; họ giúp nhau nên thánh trong đời sống hôn nhân, trong việc đón nhận và giáo dục con cái nên thánh.[17]
Về ý tưởng “cùng nhau nên thánh” trong bậc hôn nhân, Gaudium et Spes cũng diễn giải thêm:
Vợ chồng Kitô hữu được củng cố và như được thánh hiến bằng một bí tích riêng để được lãnh nhận các bổn phận và phẩm giá của bậc sống hôn nhân. Nhờ sức mạnh của bí tích này, họ được thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô để chu toàn bổn phận hôn nhân và gia đình của họ, nhờ đó, tất cả đời sống của họ được thấm nhuần đức tin, cậy, mến và càng ngày họ càng tiến gần hơn tới sự trọn lành riêng biệt của họ và sự thánh hoá lẫn nhau.[18]
Công Đồng Vaticanô II khẳng định và xác tín một cách rõ ràng rằng vợ chồng có một ân sủng và một trách nhiệm riêng về đời sống thiêng liêng cho mình như một con đường nên thánh riêng. Chúng ta có thể đọc thấy ý tưởng này trong hiến chế Lumen Gentium số 56, 57, 58 khi giới thiệu đôi bạn vào chức tư tế cộng đồng, đã dạy rằng: nhờ sức riêng của bí tích hôn phối, các đôi vợ chồng Kitô hữu biểu hiện và tham dự mầu nhiệm hiệp nhất và tình yêu phong phú giữa Chúa Kitô và Giáo hội, họ giúp nhau nên thánh trong đời sống hôn nhân, trong việc đón nhận và giáo dục con cái nên thánh; cũng vì đó họ được những ơn riêng cho bậc sống của mình trong Dân Chúa.[19] Ngoài ra, Công đồng cũng đưa ra ánh sáng nguồn mạch bí tích của ơn gọi nên thánh đối với vợ chồng. Ơn gọi này xuất phát từ bí tích hôn phối và một cách nào đó đã được công bố khi hai người quyết định thành hôn với nhau qua bí tích ấy.[20]
Tuy nhiên, ơn gọi hôn nhân không hẳn là một lời mời gọi hưởng hạnh phúc, mà hơn hết là một sự dấn thân nhận lãnh trách nhiệm. Bên cạnh đó, hôn nhân Kitô giáo đòi hỏi phải xây dựng một ơn gọi siêu nhiên đích thực; do đó, vợ chồng có thể và phải tìm kiếm thánh thiện trong việc chu toàn bổn phận của mình. Công đồng còn nói thêm:
Mọi người đều thấy rõ ràng tất cả các Kitô hữu, bất cứ theo bậc sống hay địa vị nào, đều được kêu gọi tiến đến sự viên mãn của đời sống Kitô giáo và đến sự trọn lành của đức ái; ngay trong xã hội trần thế sự thánh thiện này cũng giúp người ta sống nhân đạo hơn.[21]     
Như vậy, ơn gọi này soi chiếu tất cả mọi hành động của vợ chồng, mạc khải cho họ ý nghĩa chân thực và ban cho họ sức mạnh bằng những phương thế mà Đức Kitô đã trao ban và được gìn giữ trong Giáo hội.
Sau hết, cũng cần phải lưu ý rằng đây là một ơn gọi cao cả để xây dựng cộng đồng Giáo hội, và để huấn luyện trong Giáo hội tất cả những ơn gọi khác, như trong hiến chế Lumen Gentium số 41 nhắc tới:
Còn bậc vợ chồng và cha mẹ Kitô hữu, khi theo đuổi lối sống riêng của mình, […] xây dựng tình bác ái huynh đệ, làm chứng và cộng tác vào việc sinh sản của Giáo hội, Mẹ chúng ta, trở nên dấu chỉ và thông phần vào tình yêu Chúa Kitô đối với Hiền Thê Người: bởi yêu thương, Người đã hiến mạng sống vì Hiền Thê.[22]
Tóm lại, hôn nhân và gia đình Kitô giáo, nhờ bí tích hôn nhân ban ân sủng, bậc sống này tìm thấy một cách thế riêng để nên thánh theo đúng ơn gọi mình chọn cũng là ơn gọi Thiên Chúa đã đặt để nơi chính đôi bạn.[23]
Kiến tạo và gìn giữ
phẩm giá và vẻ đẹp của đời sống hôn nhân và gia đình
Gia đình là môi trường sống, là cái nôi của nhân loại. Nhân loại chỉ tồn tại và phát triển khi có một môi trường gia đình lành mạnh, có một cái nôi gia đình êm ấm, an bình. Muốn được thế, cần phải kiến tạo và gìn giữ phẩm giá và vẻ đẹp của hôn nhân và gia đình. Trong giới hạn của bài viết này, chúng ta chỉ bàn tới việc kiến tạo và gìn giữ phẩm giá và vẻ đẹp của đời sống hôn nhân và gia đình ngang qua nẻo đường giáo dục.
Trách nhiệm giáo dục của các gia đình
 Khi đến trước bàn thờ cử hành hôn lễ, đôi tân hôn được thẩm vấn về trách nhiệm giáo dục này: “Anh chị có sẵn sàng đón nhận con cái Chúa sẽ ban và giáo dục chúng theo luật Chúa Kitô và Hội thánh không?” Việc giáo dục con cái, trước hết thuộc về các gia đình. Nhờ giáo dục gia đình, con cái được chuẩn bị để thành nhân và được trang bị hành trang cần thiết để bước vào đời. Trong gia đình, con cái được nuôi dưỡng, quản lý, giáo dục; đó là nền móng đầu tiên cho sự hình thành nhân cách và phẩm giá của con người. Những người sống đời đôi bạn đừng quên lời giáo huấn của mẹ Hội thánh:
Cha mẹ là người đầu tiên có trách nhiệm giáo dục con cái... Mái ấm gia đình là nơi thích hợp cho việc giáo dục các đức tính… Cha mẹ phải dạy cho con cái biết coi trọng các chiều kích tâm linh hơn là những gì thuộc về thể lý và bản năng.[24]
Công đồng Vaticanô II trong Tuyên Ngôn về Giáo dục Kitô giáo đã viết như sau:
Vì là người truyền sự sống cho con cái, nên cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng phải giáo dục chúng, và vì thế, họ được coi là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của chúng. Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu sót sẽ khó lòng bổ khuyết được.[25]
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhấn mạnh rằng: ngày nay, phương thế mục vụ trong việc giáo dục gia đình là rất cần thiết, làm sao giúp các đôi vợ chồng chu toàn nghĩa vụ theo mẫu gương gia đình Nazaret. Đồng thời, cho họ thấy được bổn phận và trách nhiệm, cũng như thấy được tương lai của thế giới và Giáo hội sẽ đi qua gia đình của họ khi mà hoàn cảnh xã hội đang có nhiều biến đổi và những hiện tượng tiêu cực đang rình rập họ và con cái họ.[26]
Để hôn nhân và gia đình được bền vững trong tương lai, trước hết chúng ta cần nhắm đến việc giáo dục lương tâm cho các thế hệ trẻ. Đây không phải là công việc riêng của một người, nhưng là của toàn thể cộng đồng, những người có trách nhiệm giảng dạy, hướng dẫn, đặc biệt là các bậc làm cha mẹ phải có bổn phận hoàn thành trách nhiệm giáo dục con cái nên người. Việc giáo dục con cái không phải chỉ là một bổn phận quan trọng, mà còn là một vinh dự lớn lao của các bậc làm cha mẹ, bởi vì được cộng tác với Thiên Chúa trong việc kiến tạo nên những con người mới, những người con của Thiên Chúa. Chính nhờ việc trồng người này, các gia đình đã tạo nên những con người có ích cho xã hội, có ích cho Hội thánh, đồng thời tạo cũng nên những bậc vĩ nhân và thánh nhân nữa. Vì thế, giáo dục con cái không phải là một việc tùy hứng, nhưng cần có đường hướng, kế hoạch và phương pháp nữa.[27]
Ngày nay, nhân loại đang sống trong một thời đại toàn cầu hóa với sự phát triển đỉnh cao của khoa học và bùng nổ thông tin, nhất là cơn lốc kinh tế thị trường, đồng tiền được phong thần và chi phối tất cả mọi lãnh vực. Trước một trào lưu như vậy, lương tâm con người dễ bị che khuất và lu mờ bởi những sự hào hoa thế tục. Do đó, giáo dục lương tâm cho mọi người nhất là giới trẻ là một chiến lược lâu dài cho sự bền vững hạnh phúc gia đình và trật tự xã hội.
Tất cả chúng ta, nhất là các gia đình, phải làm sao cổ võ một nền giáo dục có thể giúp mọi người, nhất là thanh thiếu niên ý thức và làm chủ được những nguồn năng lực trong họ, đồng thời giúp họ biết hướng những nguồn năng lực ấy vào việc phát triển nhân cách, nhằm đạt được sự trưởng thành đầy đủ về mặt cảm xúc cũng như tính dục, trong đó huấn luyện lương tâm họ biết nhạy bén trước mọi hành động với tinh thần đạo đức và trách nhiệm… Nền giáo dục đó được khởi đi ngay từ trong chính gia đình. Trong vai trò giáo dục, gương sáng của cha mẹ khi trung thành với trách nhiệm sẽ gợi ra trong con cái họ ước muốn noi gương theo điều chúng nhìn thấy nơi cha mẹ. Chúng sẽ có khả năng học lòng thảo kính, sự tôn trọng và vâng lời cha mẹ tốt hơn.[28] Đồng thời, cha mẹ giúp con cái biết ý thức được cái tốt, cái đẹp, cái đúng để làm và quyết tâm tránh những điều xấu, điều ác… Môi trường gia đình là nơi nảy sinh và ươm mầm, còn môi trường xã hội lại chính là mảnh đất quyết định đến sự phát triển nhân cách của chúng.
Mặt khác ngoài gia đình ra, nhà trường và xã hội cũng cần lưu ý tới việc rèn luyện nhân cách cho các em, nhất là cần có những trung tâm hướng dẫn về giáo dục đức tin và luân lý Kitô giáo liên hệ đến các vấn đề xã hội, nhân cách, tính dục, hôn nhân và gia đình cho các em, tùy từng đối tượng theo độ tuổi. Người ta ít nghĩ tới một khía cạnh rất quan trọng trong chuẩn bị hôn nhân gia đình là giáo dục nhân cách con người ngay từ tấm bé, để trong quá trình trưởng thành, chúng có khả năng làm chủ được chính mình: chúng biết yêu thương đúng chỗ và đúng mức, biết chia sẻ nhường nhịn, và sống có trách nhiệm ngay từ trong gia đình. Những câu hỏi về giới tính, tình dục, cha mẹ không nên tránh né mà phải giải thích sự thật cho con một cách tế nhị, tiệm tiến với độ tuổi. Một nhân quan lành mạnh về tính dục, tình yêu, lý tưởng sống là nền tảng cho một sự chọn lựa người bạn đời bảo đảm tính bền vững của hôn nhân mà giới trẻ sẽ chọn lựa sau này.[29] Trong việc giáo dục không những dạy các em vâng lời ngoan ngoãn mà còn giúp các em biết tự chủ, tự lực, sống có trách nhiệm, sống có mục đích, có định hướng, sống một cuộc đời phù hợp với luân thường đạo lý.
Việc giáo dục tiền hôn nhân
 Làm việc gì cũng phải học. Học để biết cách làm vợ làm chồng, làm mẹ làm cha, lại là việc học quan trọng và cần thiết hơn nữa. Các bạn không chỉ học vài buổi về giáo lý hôn nhân, nhưng các bạn còn phải được hướng dẫn để biết sống có lý tưởng; biết nhận ra chính mình; biết cảm thông và chia sẻ với người khác, nhất là người bạn đời của mình; biết tôn trọng những nét riêng tư, sở thích riêng của nhau; biết chia sẻ công ăn việc làm, chia sẻ vui buồn trong cuộc sống; biết quản trị gia đình, giáo dục con cái; biết thích nghi những khác biệt, giải quyết những xung khắc trong đời sống...
Những đứa con được sinh ra trong bầu khí của một gia đình êm ấm và đã được chuẩn bị kỹ như thế, được thương yêu đúng mức, sẽ có nhiều cơ hội phát triển nhân cách, trưởng thành và tự tin bước vào cuộc sống.
Lý tưởng là cần cung cấp cho các bạn trẻ một nền giáo dục toàn diện về nhân bản, luân thường đạo lý, kỹ năng sống đời gia đình, kỹ năng giáo dục con cái...; tuy nhiên, trong thực tế, “cái khó bó cái khôn”, có rất nhiều điều còn bất cập, khó khăn chưa khắc phục được. Trong bản đúc kết thảo luận của nhóm các tu sĩ Giáo phận Hưng Hóa bàn về việc chuẩn bị hôn nhân cho các bạn trẻ (09.02.2017), hàng loạt những khó khăn được nêu ra như:
-  Giới trẻ ngày nay chú trọng đến học văn hóa nhiều hơn học giáo lý.
-  Giới trẻ bị ảnh hưởng bởi lối sống hưởng thụ, sống thử trước hôn nhân, có bầu rồi hối thúc cha mẹ, cha xứ và những người dạy giáo lý rút ngắn thời gian học giáo lý, học cấp tốc, học cho có lệ, học không có chất lượng.
-  Thời gian tiếp xúc, gặp gỡ, chia sẻ, ít hoặc không có.
- Nếu phải đi làm ăn xa, các bạn trẻ không được sống trong môi trường nuôi dưỡng đức tin, ít tham gia những sinh hoạt tôn giáo.
- Nhiều khi do lệ thuộc về thời gian, công việc tại các công ty, xí nghiệp, nên không có thời giờ học giáo lý, chuẩn bị hôn nhân cho tốt.
-  Người đỡ đầu không đồng hành với họ.
- Tại nhiều giáo xứ, nhất là nơi vùng cao, bạn trẻ ở quá xa, khó quy tụ.
-  Tỷ lệ kết hôn với người lương dân hoặc người khác tôn giáo cao, phía những người này hay xem ngày, xem giờ, sau đó thúc ép cha xứ, người dạy giáo lý phải nhanh chóng dạy sao cho phù hợp ngày của họ, xin giảm miễn thời gian trình diện, thời gian học giáo lý… Khi ép không được, họ cưới trước, rồi sửa hôn nhân sau.
- Chỉ mới dạy giáo lý cho người dự tòng, chứ chưa có kế hoạch chăm sóc mục vụ, giúp họ lớn lên trong đức tin sau khi lãnh nhận bí tích.
- Cũng chưa có kế hoạch chăm sóc mục vụ, đồng hành để nuôi dưỡng đức tin cho những người khô khan nguội lạnh mới trở lại.
- Tình trạng ly dị ngày càng nhiều.
- Trình độ hiểu biết giáo lý và sư phạm của người dạy ở nhiều nơi còn hạn chế.[30]
Bên cạnh những khó khăn nêu trên, tại nhiều giáo phận, giáo xứ, các vị chủ chăn luôn ý thức việc giúp cho các bạn trẻ có sự chuẩn bị kỹ càng để bước vào đời sống hôn nhân. Mong rằng việc giáo dục này ngày càng được phát huy, nhân rộng và gặt trái được những hoa thơm trái ngọt trong đời sống hôn nhân gia đình của các bạn trẻ.
Việc giáo dục sau khi kết hôn
Như tất cả mọi bậc sống khác, đời đôi bạn cũng đầy thách đố, nhất là 5 năm đầu đời của các gia đình trẻ. Rất cần sự quan tâm mục vụ cho các gia đình, nhất là những gia đình gặp phải những hoàn cảnh khó khăn. Tùy theo hoàn cảnh của mỗi cộng đoàn, mỗi giáo xứ mà có những sáng kiến mục vụ cho phù hợp. Chẳng hạn ngày nay, một số phong trào “canh tân đời sống hôn nhân và gia đình” đang giúp cho rất nhiều gia đình gặp hoàn cảnh chao đảo đã tìm lại được thế quân bình và biết cách lèo lái con thuyền gia đình vượt qua sóng gió trong cuộc sống.
Thật vậy, vì lợi ích của gia đình, xã hội cũng như Giáo hội, việc mục vụ đời sống gia đình phải làm sao giúp các thành viên trong gia đình có được một đời sống yêu thương, đoàn kết với nhau, không những trong gia đình mà còn đoàn kết với nhau trong gia tộc, trong cộng đồng xã hội, đồng thời giúp họ khám phá ra ơn gọi và sứ mệnh trong đời sống hôn nhân, đặc biệt là giúp đỡ họ đón nhận con cái và yêu mến chúng như ân huệ sự sống được lãnh nhận từ Thiên Chúa, để họ vui vẻ chấp nhận vất vả nuôi dưỡng chúng lớn lên về mọi mặt.[31] Để đường hướng mục vụ đó có kết quả cao, trước hết phải làm sao giúp cho các bậc cha mẹ biết yêu thương tôn trọng lẫn nhau, biết yêu quý con cái như là một sứ mạng Thiên Chúa ủy thác. Họ không những trao ban sự sống thể lý cho con cái mà còn giúp đỡ chúng nên những người con tốt lành, đầy nghị lực, có trách nhiệm, đồng thời là mối dây tương quan giữa cha - mẹ - con cái được bình đẳng trong tình yêu thương để tạo cho gia đình một bầu khí ấm cúng, thuận hòa, ấm êm, con cái ngoan hiền[32]. Trong đời sống, cha mẹ là khuôn mẫu, là tấm gương sáng cho con cái từ lời nói đến việc làm. Chính gương sáng của cha mẹ là bài học cho con cái của họ.
Mặt khác, trong đường lối mục vụ hiện nay, làm sao cho mọi người thấy rằng, thời gian là vốn quý, là sợi dây gắn kết mọi thành viên trong gia đình. Không biết dành thời gian cho nhau, các gia đình khó có được niềm vui và hạnh phúc sung mãn. Do đó, chương trình mục vụ cần giúp mọi thành viên trong gia đình biết tận dụng tối đa thời gian để có bữa ăn chung với nhau, có thời gian bên nhau dầu ngắn ngủi trong ngày để cùng nhau chia sẻ, động viên, để cùng nhau cám ơn Chúa sau giấc ngủ đêm hay sau một ngày dài làm việc vất vả. Ngoài ra, cha mẹ luôn quan tâm đến con cái bằng tình yêu, đồng thời tăng cường mối tương quan giữa gia đình và nhà trường, đừng bao giờ khoán trắng việc giáo dục cho nhà trường; đừng quên rằng cha mẹ phải trả lẽ trước Thiên Chúa về trách nhiệm giáo dục con cái của họ.
Tóm lại, thông qua nẻo đường giáo dục, các gia đình góp phần làm sáng lên phẩm giá và vẻ đẹp của đời sống hôn nhân và gia đình, một đời sống vốn bắt nguồn từ Thiên Chúa, đã và đang triển nở trong thế giới này, và mỗi ngày đang tiến về thành đô Giêrusalem Thiên quốc.
Tạm kết
Để kết luận, chúng tôi xin được trích đăng một đoạn giáo huấn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, sáng thứ tư 06/5/2015 trong bài giáo lý thứ 13 về gia đình với chủ đề "nét đẹp của hôn nhân Kitô giáo":
Lộ trình đã được ghi dấu luôn mãi, đó là lộ trình của tình yêu: người ta yêu nhau như Thiên Chúa yêu, luôn mãi. Chúa Kitô đã không ngừng lo lắng cho Giáo hội: Người yêu thương Giáo hội luôn mãi, Người giữ gìn Giáo hội luôn mãi như chính mình. Chúa Kitô không ngừng lấy đi trên gương mặt nhân loại các vết nhơ và các nếp nhăn đủ loại. Thật là cảm động và xinh đẹp biết bào việc giãi toả sức mạnh và sự hiền dịu đó của Thiên Chúa, được thông truyền từ cặp vợ chồng này sang cặp vợ chồng khác, từ gia đình này sang gia đình khác. Thánh Phaolô đã có lý: đây thật là một mầu nhiệm cao cả! Các người nam nữ này khá can đảm để mang theo kho tàng này trong các bình “bằng đất” nhân loại tính của chúng ta, các người nam nữ can đảm như thế là một tài nguyên nòng cốt cho Giáo hội cũng như cho toàn thế giới. Xin Thiên Chúa chúc lành cho họ hàng ngàn lần về điều đó.[33]
Ước chi phẩm giá và vẻ đẹp của đời sống hôn nhân và gia đình hằng chiếu tỏa trên thế giới chúng ta hôm nay!


[1] Vat. II, Gaudium et Spes, số 47.
[2] Xc. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo. Tòa TGM TP.HCM, 1997, Số 1601.
[3] Xc. Nguyễn Văn Dụ, Mục Vụ Và Linh Đạo Về Hôn Nhân Và Gia Đình. Trung Tâm Mục Vụ Việt Nam-Italia, 2007, tr. 247-248.
[4] Xc. Sđd, tr. 254.
[5] Xc. Nguyễn Hữu Thy, Những Suy Tư Đúng Đắn Về Hôn Nhân Và Gia Đình Công Giáo. TTMV CGVN Giáo Phận Trier, CHLB Đức, 2012, tr. 100.
[6] Xc. Nguyễn Công Vinh, Tình Yêu Hôn Nhân. Nxb Phương Đông, 2009, tr. 8.
[7] Xc. Nguyễn Hữu Thy, Những Suy Tư Đúng Đắn Về Hôn Nhân Và Gia Đình Công Giáo. TTMV CGVN, Giáo PhậnTrier, CHLB Đức, 2012, tr. 94.
[8] Xc. Nguyễn Công Vinh, Tình Yêu Hôn Nhân. Nxb Phương Đông, 2009, tr. 7-8.
[9] Trích lại theo Nguyễn Hữu Thy, Những Suy Tư Đúng Đắn Về Hôn Nhân Và Gia Đình Công Giáo, tr. 84.
[10] Xc. Nguyễn Văn Dụ, Mục Vụ Và Linh Đạo Về Hôn Nhân Và Gia Đình. Trung Tâm Mục Vụ Việt - Italia, 2007, tr. 507.
[11] Trích lại trong Nguyễn Hữu Thy, Những Suy Tư Đúng Đắn Về Hôn Nhân Và Gia Đình Công Giáo. TTMV CGVN, Gp Trier, CHLB Đức, 2016, tr. 85.
[12] Xc. Nguyễn Văn Dụ, Hướng Dẫn Mục Vụ Gia Đình. Tòa Tổng Giám Mục TP.HCM, AD 2007, tr. 34-35.
[13] Trích lại trong Nguyễn Hữu Thy, Những Suy Tư Đúng Đắn Về Hôn Nhân Và Gia Đình Công Giáo. TTMV CGVN, Gp Trier, CHLB Đức, 2016, tr. 84.
[14] Xc. Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin Trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Giáo Lý Hôn Nhân và Gia Đình. Nxb Tôn giáo, 2004, tr. 19-21.
[15] ZENIT.org/fr
[16] Xc. Garcia De Haro Ramon, Hôn nhân và gia đình trong các tài liệu của Huấn quyền; bản dịch: Nguyễn Văn Dụ, trang 279.
[17] Vat. II, Lumen Gentium, số 11.
[18] Vat. II, Gaudium et Spes, số 48.
[19] Xc. Vat. II, Lumen Gentium, số 56, 57, 58.
[20] Xc. Nguyễn Văn Dụ, Mục Vụ Và Linh Đạo Về Hôn Nhân Và Gia Đình. Trung Tâm Mục Vụ Việt Nam-Italia, 2007, tr. 60 - 61.
[21] Xc. Vat. II, Lumen Gentium, số 49.
[22] Xc. Vat. II, Lumen Gentium, số 41.
[23] Xc. Ibid., số 35.
[24] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2223.
[25] Tuyên Ngôn Giáo Dục Kitô Giáo (Gravissimum Educationis), số 3.
[26] Xc. Đức Gioan Phaolô II, Tông Huấn Familiaris Consortio, số 66-75.
[27]Xc. Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Giáo Lý Hôn Nhân và Gia Đình. Nxb Tôn giáo, 2004, tr. 169.
[28]Xc. Nguyễn Văn Dụ, Mục Vụ Và Linh Đạo Về Hôn Nhân Và Gia Đình. Trung Tâm Mục Vụ Việt Nam – Italia, 2007, tr. 532.
[29]Xc. Nguyễn Thị Oanh, Sách Tâm Lý Xã Hội, Gia Đình Việt Nam Thời Mở Cửa. Nxb Trẻ, tr. 20.
[30] http://www.giaophanhunghoa.org
[31]Xc. Nguyễn Văn Dụ, Hôn Nhân và Gia Đình Trong Các Tài Liệu Của Huấn Quyền. tr. 490.
[32]Xc. Bùi Đình Châu, Tuyển chọn và Biên soạn, Văn Hóa Gia Đình, Nxb Văn Hóa - Thông Tin, tr.43-44.
[33] Theo ZENIT.org/fr

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn