Nói như nhạc sĩ
Trịnh Công Sơn:
sống trong đời sống, cần có một tấm lòng…
để làm gì em biết không?
Để gió cuốn đi.
sống trong đời sống, cần có một tấm lòng…
để làm gì em biết không?
Để gió cuốn đi.
Lm. Nguyễn Trọng Viễn, OP
Xã hội
Việt Nam chúng ta hiện nay có rất nhiều căn bệnh trầm kha, bệnh tham nhũng,
bệnh thành tích, bệnh gian dối, bệnh sa đọa…, nhưng có lẽ căn bệnh sâu xa và
trầm kha hơn hết lại chính là bệnh vô cảm… Đây là căn bệnh trầm kha hơn cả vì,
một cách nào đó, căn bệnh này không phải chỉ nằm trong một tầng lớp cá biệt
nào, nhưng đã trở nên bệnh của quần chúng; và vì thứ bệnh này đã đụng vào những
gì căn cốt nhất của phẩm chất làm người, phá hủy chữ Nhân đối với Khổng Giáo,
phá hủy lòng từ bi đối với Phật giáo và phá hủy lòng bác ái đối với Kitô giáo…
Chúng
ta có thể kể ra một danh sách thật dài những chuyện vô cảm mà báo chí đã đăng
tải và có thể kể ra một lô những bài phân tích hoặc lời cảnh báo về căn bệnh
này. Ở đây, tôi xin đóng góp một lối nhìn từ đức Ái Kitô giáo.
1.
Mầm bệnh sâu xa
Nếu trở
lại lịch sử Kitô giáo, chúng ta sẽ thấy vấn đề mà chúng ta gọi là “vô cảm” đã
là một vấn đề xa xưa. Kitô giáo khi loan báo Tin Mừng đến chư dân, đặc biệt là
đến với người Hy Lạp, đã phải đối diện với vấn đề “vô cảm” như một thách đố căn
bản.
Xin đọc
lại bản văn thánh Phaolo viết trong thư 1 Corintho:
“22 Trong khi người Dothái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người
Hylạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, 23 thì chúng tôi lại rao giảng một
Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Dothái coi là ô nhục không thể chấp nhận,
và dân ngoại cho là điên rồ.24 Nhưng đối với những ai được Thiên
Chúa kêu gọi, dù là Dothái hay Hylạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự
khôn ngoan của Thiên Chúa.25 Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn
cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh
mẽ của loài người. (1Cr 1,22-25)
Để hiểu
được hậu trường của bản này, chúng ta cần hiểu được bối cảnh văn hoá của người
Hy Lạp. Đối với người Hy Lạp, Thượng Đế là Đấng hoàn toàn hạnh phúc. Hạnh phúc
của Ngài hệ tại việc Ngài là nguyên lý của vũ trụ và muôn loài phải hướng về
Ngài như mẫu mực; nhưng chính Ngài thì lại không cần quan tâm đến sự gì khác
bên ngoài mình.
Từ quan niệm ấy, người Hy Lạp đã sớm đồng nhất
bản thân Thượng Đế với những qui luật, những quy luật đều đặn của vũ trụ.
Thượng Đế bày tỏ mình trong một vũ trụ trật tự, được điều hành theo những quy
luật đều đặn và trật tự, nhất là trong các tinh tú. Vì thế, các tinh tú cũng
được tôn trọng như là thần thánh. Triết gia Anaxagore (khoảng 500-428 tcn) đã
bị kết án là vô luân vì chủ trương rằng mặt trời chỉ là một khối đá cháy đỏ.
Ngược lại, triết gia Socrate bị lên án vì ba tội, trong đó có tội du nhập thần
mới, vì Socrate cho rằng ông có một vị thần hộ mệnh riêng, hướng dẫn và chỉ bảo
cho ông trong những lúc khó khăn…
Nếu
Thượng Đế đã bị giản lược thành quy luật, thì chính lý trí khôn ngoan là yếu tố
căn bản để con người có thể hiểu và sống theo Thượng Đế. Do đó, trong xã hội Hy
Lạp, chính triết gia, chứ không phải tầng lớp tăng lữ, là những người có khả
năng sống giống như Thượng Đế hơn hết. Vai trò của triết gia, xét như là những
người tìm biết chân lý và chỉ dẫn người ta đi tìm chân lý, là vai trò quan
trọng nhất trong xã hội Hy Lạp.
Từ đó,
ta thấy xã hội Hy Lạp cổ xưa có một số giá trị căn bản, theo đó, những khái
niệm Thượng Đế, thiên nhiên, khôn ngoan, hạnh phúc, nhân đức, và thanh thản
(ataraxia)… có ý nghĩa liên lập và thông hiệp chặt chẽ với nhau. Thượng Đế tỏ
hiện trong các quy luật điều hoà của vũ trụ, người khôn ngoan là người biết sử
dụng lý trí để hiểu được Thượng Đế và biết sống hoà hợp với thiên nhiên để nên
giống với Ngài. Sống nhân đức hoặc sống giống với Thượng Đế, chính là biết tìm
thấy hạnh phúc trong tình trạng thanh thản ataraxia.
Chữ
ataraxia được đề cao đặc biệt như là một lý tưởng sống của những trường phái
triết học sau Aristote, nhưng đó không phải là một điều mới lạ, vì thực sự chủ
trương này vẫn biểu lộ nét thống nhất của một tinh thần Hy Lạp nói chung trong
suốt dòng lịch sử. Đối với người Hy Lạp nói chung, người khôn ngoan là người tránh
được mọi xáo trộn, không bị đam mê lôi cuốn (Apathès)[1]. Người khôn ngoan là người biết cách sống làm sao để không
đau khổ, không giận dữ, không bực mình, không bị trói buộc. Các triết gia
“sau-Aristote” như các trường phái khoái lạc, hoài nghi, hoặc thần bí sau đó
đều thiết tha tìm phương thức sống đạo đức trong tinh thần khôn ngoan ấy. Có lẽ
Démocrite (khoảng 460 tcn) là người đầu tiên đã tìm cách diễn giải ý nghĩa của
từ ataraxia, theo Stobée, ông nói rằng: “Ataraxia là tình trạng bình an, hoà điệu và cân bằng (nội tâm)”[2]. Triết gia khoái lạc Épicure (341-270) thì cho rằng
ataraxia hệ tại “được giải thoát khỏi mọi
sợ hãi”. Tuy nhiên, chính các triết gia Khắc Kỷ mới là những người hết lòng
ca ngợi phẩm chất của ataraxia hơn cả. Trong tình trạng có được ataraxia, người
khôn ngoan không bị lay chuyển[3], thản nhiên đối với những gì đến từ bên ngoài[4]; người khôn ngoan không bị xáo trộn trong tâm hồn[5]. Lý tưởng sống của triết gia khắc kỷ được phát biểu: nếu
anh có một người bạn đau khổ, anh hãy tỏ vẻ cảm thông, nhưng lòng anh đừng rúng
động. Điều đó có nghĩa là, mặc dù tỏ vẻ cảm thông, anh vẫn có thể ăn ngon, ngủ
ngon và giữ được tình trạng thanh thản của chính mình. Lý trí khôn ngoan phải
hướng dẫn để người ta biết cách dung hoà giữa trạng thái an ổn trong lòng và
những biến động bên ngoài. Người Hy Lạp khôn ngoan phải biết giữ gìn sự thanh
thản cho bản thân mình như yếu tố căn bản, rồi sau đó tìm phương thế diễn tả
mối tương quan của mình với tha nhân, diễn tả cách nào đó để không rơi vào tình
trạng sai lạc hoặc ác độc. Thật ra, lý tưởng khôn ngoan Hy Lạp, cách thức sống
cao cả theo khuôn mẫu của một Thượng Đế thanh thản như thế, tự bản chất đã là
một thái độ vô cảm, và ataraxia ở đây có thể hiểu là một sự thanh thản, hoặc là
“vô cảm siêu thoát”.
Dựa
theo tiêu chuẩn giá trị về sự khôn ngoan theo kiểu ataraxia như thế, người Hy
Lạp cho rằng thập giá là sự điên rồ. Một Thiên Chúa yêu thương đến độ nhập thể
làm người, hy sinh chịu chết khổ đau vì yêu thương… đó là điều chẳng những
không khôn ngoan mà còn trái ngược hẳn với sự khôn ngoan, đó là sự điên rồ:
Đây
không phải chỉ là một sự khác biệt văn hóa, không phải là một sự đa dạng làm
cho phong phú kho tàng văn hóa của con người, nhưng là một sự đối nghịch căn
bản và sâu xa về giá trị, khiến cho điều tốt của bên này lại chính là sự sa đọa
của bên kia.
Kinh
Thánh Do Thái Kitô giáo cho thấy một Thiên Chúa khác hẳn với hình ảnh Thượng Đế
của người Hy Lạp. Thiên Chúa của Kinh Thánh không an vị, thanh thản trong thế
giới hạnh phúc của Ngài, nhưng Ngài dính dáng vào thụ tạo, đặc biệt là con
người. Ngài sáng tạo con người trong yêu thương, Ngài tuyển chọn Dân riêng và
đem lòng quyến luyến với Dân:
“ĐỨC
CHÚA đã đem lòng quyến luyến và chọn anh em, không phải vì anh em đông hơn mọi
dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân”. (Dnl 7,7; xc.
Dnl 10,15…)
Thiên
Chúa nhất quyết giành lấy Dân riêng cho mình, không muốn chia phần cho bất cứ
ai khác:
“Vậy
ngươi không được phủ phục trước một thần nào khác, vì ĐỨC CHÚA mang danh là
Đấng ghen tương, Người là một Vị Thần ghen tương”. (Xh 34,14; xc.
Dnl 4,24…)
Thiên
Chúa tự buộc mình trong lời hứa (St 3,15…), và đặc biệt trong Giao ước (Xc. Xh
24,1-18); rồi Thiên Chúa thể hiện phẩm chất trung tín của Ngài trong lời hứa và
giao ước: “Nếu ta không trung tín, Người
vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình”. (2Tm
2,13)
Mối
thâm tình của Thiên Chúa với Dân của Ngài không phải là một sự “ích kỷ”, mà là
sự “rung động” của tình thương. Truyền thống Kinh Thánh đề cao phẩm chất cao cả
nhất của Giavê Thiên Chúa là lòng từ bi thương xót:
- CHÚA là Đấng từ bi nhân
hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. (Tv 145,8)
- ĐỨC CHÚA đi qua trước mặt ông và xướng: "ĐỨC CHÚA! ĐỨC
CHÚA! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín”
(Xh
34,6)
Trong
Tân Ước, đức Giêsu cũng khẳng định phẩm chất từ bi thương xót như thế trong sứ
vụ của Ngài. Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng bằng những lời đã được
tiên báo trong ngôn sứ Isaia:
“Được
quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê, và tiếng tăm Người
đồn ra khắp vùng lân cận. Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi
người tôn vinh. Rồi Đức Giêsu đến
Nadarét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm
trong ngày sabát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn
sứ Isaia. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa
đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã
sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được
sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa. (Lc 4,14-19)
Khi Tân
Ước nói Chúa Giêsu chạnh lòng thương, thì điều đó không chỉ tỏ bày một phẩm
chất đạo đức luân lý, nhưng còn hàm nghĩa Chúa Giêsu chính là Đấng tỏ lòng nhân
hậu của Giavê Thiên Chúa.
Mt 9,36: Đức Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm
than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt.
Mt 14,14: Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu trông thấy một đoàn người đông
đảo thì chạnh lòng thương, và chữa lành các bệnh nhân của họ.
Mt 15,32: Đức Giêsu gọi các môn đệ lại mà nói: "Thầy chạnh
lòng thương đám đông, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi và họ không có gì
ăn. Thầy không muốn giải tán họ, để họ nhịn đói mà về, sợ rằng họ bị xỉu dọc
đường."
Lc 7,13: Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: "Bà
đừng khóc nữa!"
Lòng từ bi thương xót chính là dấu hiệu căn bản để nhận ra
Đấng Mêsia. Do đó, những ai không đi vào mạch nguồn của Kinh Thánh sẽ có nguy
cơ không nhận ra và không tin vào đức Giêsu:
“Ông Gioan lúc ấy đang
ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người
rằng: "Thưa Thầy, Thầy có thật là
Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?" Đức Giêsu trả
lời: "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe:
Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe,
người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không
vấp ngã vì tôi." (Mt 11,2-6)
Chúa
Giêsu đã thể hiện đến cùng lòng “yêu thương điên rồ” của Thiên Chúa khi chấp
nhận đường lối cứu độ bằng cách trao ban chính bản thân và cả cuộc đời mình cho
nhân loại (trao thân gửi phận). Thập giá và bí tích Thánh Thể là thứ tình yêu
“điên rồ” như vậy.
Ta có
thể thấy từ ngữ Hy Lạp ataraxia chính là phản nghĩa với các từ ngữ được Kinh
Thánh dùng để chỉ tấm lòng của Thiên Chúa: - Splagchnizomai (chạnh lòng
thương); hoặc từ rahamim {lòng yêu thương bắt nguồn nơi tấm lòng người mẹ
(rekhem) hoặc nơi tâm can (rakhamim) của người cha}…
Có thể
nói được tinh thần của Kinh Thánh chính là điều gọi là sống-với. Ý nghĩa sống-với là ý nghĩa xuyên suốt trong tinh thần
Kinh Thánh và đạo lý Giáo Hội. Sống-với không phải chỉ là Ta có thể tóm tắt ý
nghĩa sống với đó trong hai đoạn văn tiêu biểu:
1) Ý
nghĩa căn bản của phẩm giá con người trong Kinh Thánh: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo
con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ”.
(St 1,27), mà ý nghĩa trọn vẹn nhất phải hiểu là con người chỉ có thể sống trọn
bản chất của mình khi sống hiệp thông với Chúa và với nhau[6].
2)
Trong Tin Mừng Gioan, cho chữ “như” có nhiều ý nghĩa. Tuy nhiên, ý nghĩa căn
bản, ý nghĩa thần học của từ “như” phải được hiểu, không phải chỉ là một sự
tương tự trong so sánh, nhưng có nghĩa là “nền tảng”, “nguồn gốc”, “phát sinh”.
Chẳng hạn:
“Chúa
Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại
trong tình thương của Thầy.(…) Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương
nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (Ga 15,9.12)
Ở đây,
không phải là tình yêu của Chúa Giêsu đối với các môn đệ dựa theo khuôn mẫu
tình yêu của Chúa Cha với Đức Giêsu; và cũng không phải là tình yêu của con môn
đệ với nhau dựa theo khuôn mẫu của tình yêu Chúa Giêsu với môn đệ. Nhưng tình
yêu của Chúa Cha đổ tràn trên đức Giêsu chính là “nền tảng”, “nguồn gốc”, “phát
sinh” ra tình yêu của Đức Giêsu với môn đệ; và tình yêu của Chúa Giêsu với các
môn đệ là “nền tảng”, “nguồn gốc”, “phát sinh” ra tình yêu của các môn đệ với
nhau[7].
Sống-với
nghĩa là để cho cuộc đời mình, tấm lòng của mình được dính dáng, được liên lụy,
được hiệp thông với những vui buồn sướng khổ của ai khác. Trong thái độ
sống-với, điều quan trọng không phải là làm cái gì, không phải làm cho đúng với
một khuôn mẫu nào, mà là tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời mình là vì ai, cho ai
với ai. Chính vì thế, trong tinh thần tôn giáo chân chính của truyền thống Do
Thái Kitô giáo, được các ngôn sứ công bố, điều nguy hiểm nhất không phải là
không giữ luật nhưng là giữ luật chỉ để hoàn thiện chính mình; không phải là
không làm việc phượng tự mà là dâng lễ vật phượng tự chỉ để tìm sự thanh thản
cho mình. Khi người Biệt Phái giữ luật, cho dù là giữ luật tỉ mỉ, kỹ lưỡng,
nhưng chính yếu chỉ là để hoàn thiện con người mình mà thôi, thì đó là sự hư hoại
của lề luật. Khi người Sa đốc chăm chú vào nghi lễ phượng tự, nhưng phượng tự
chỉ là thứ trao đổi “hàng hóa” để bảo vệ sự công chính cho mình thì đó là sự hư
hoại của phượng tự…
Như thế, chúng ta thấy bệnh vô cảm, một cách nào đó, chính
là điều trái ngược một cách căn bản với tinh thần Kinh Thánh, trái ngược một
cách căn bản với Tin Mừng của Chúa Giêsu.
2.
Siêu âm tìm căn nguyên
Thật sự
ra, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cũng có thể thấy nhiều “triệu chứng”
của bệnh vô cảm. Chẳng hạn khi ta mừng sinh nhật một người bạn, và ta tìm một
món quà để tặng. Có ba tiêu chuẩn:
- tìm món
quà sang trọng.
- tìm món
quà xứng đáng với địa vị của người tặng quà.
- tìm món
quà nào mà người nhận quà cần và thích nhất.
Ở đây,
ta đã có thể nhận ra những giá trị ưu tiên khác nhau, biểu lộ những cảm thức
khác nhau: - Người tìm món quà sang trọng, đó là con người bám cứng vào sự hợp
lý, nhất thiết phải thực hiện với sự đúng đắn nghiêm cẩn của phương cách diễn
tả; - Người tìm món quà xứng đáng với địa vị của mình, đó là người con người
quá “tự trọng”, luôn bảo vệ “tư cách” của mình và tìm khẳng định chính mình
trong mọi tình huống; - Người tìm món quà thích hợp cho người bạn nhận quà, đây
lại là người nhạy cảm, có nhiều khả năng thông hiệp, thấu cảm vui buồn với ai
khác. Trong thái độ của hai mẫu người thứ nhất và thứ hai, chúng ta có thể thấy
mầm mống của một thứ vô cảm.
Khi
người mẹ cho con cái bánh, thì sự trao ban ấy không phải để chứng tỏ bản thân
mình, mà chính vì tình thương đối với đứa con. Tình thương của mẹ mời gọi đứa
con, không phải chỉ nhận cái bánh vì cái bánh ngon mà thôi, nhưng nhận ra tấm
lòng của mẹ. Đứa con nào chỉ vui thích hay buồn phiền vì cái bánh, đứa con ấy
có nguy cơ không sống nên người, vì có thể, trong suốt cả cuộc đời, nó chỉ làm,
chỉ học, chỉ hưởng thụ vì những thứ đồ vật, những thứ qui về cho bản thân mình.
Ngược lại, nếu đưa con vui mừng vì tình thương của mẹ, đứa con đó có cơ may
biết sống, biết làm việc, biết vui buồn vì ai khác…
Cũng
thế, khi Chúa ban một ơn nào cho con người, thì điều quan trọng là Chúa mặc
khải tình thương của Chúa. Nhưng người nào chỉ biết đón nhận ân huệ mà không
biết tìm đến nguồn mạch của ơn huệ là chính Chúa, thì người ấy bỏ mất nguồn
mạch chính yếu của ân sủng, tức là đón nhận “ân sủng bất thụ tạo”[8].
Con
người sống trong thân xác, đón nhận mọi sự việc qua kinh nghiệm giác quan, nên
cần diễn tả hoặc đón nhận mối tương quan của mình với tha nhân qua trung gian
của những sự vật cụ thể. Nhưng con người không phải chỉ có thân xác, phẩm chất
con người không phải là duy-vật, con người không được quy tất cả ý nghĩa đời
mình vào việc chiếm hữu hoặc hưởng thụ sự vật. Hơn nữa, con người không phải
chỉ là một hữu thể đơn độc có thể tự hoàn thành ý nghĩa đời mình trong những
phẩm chất đạo đức của chính mình, nên con người cũng phải vượt qua cả những thứ
trung gian mang tính sự-vật (vật chất). Sự vật trung gian đó có thể là những
lợi lộc vật chất, nhưng cũng có thể là những thứ phẩm chất “tinh thần” như danh
giá, luật pháp, giá trị luân lý, … Do đó,
trong ánh sáng đức Ái Kitô giáo, cần phải nhận ra rằng con người còn phải vượt
qua mọi thứ mang tính sự vật, vì phẩm chất căn bản của con người cũng không
phải là duy-sự-vật. Sự vật là tất cả những gì khác với bản-thân của một ngôi
vị; sự vật có thể là sắc đẹp, tài năng, và cả đức độ nữa.
Con người được sáng tạo trong tình thương. Phẩm chất chính yếu
của con người yêu thương là có khả năng và khao khát dính dáng đến ai-khác. Ơn
gọi và sứ mạng cao quý của con người là được sống trong tình yêu của Chúa và
tình yêu thương của nhân loại. Điều đó có nghĩa là con người luôn phải vượt qua
sự vật trung gian (vượt qua thái độ vô cảm) để đụng chạm được đến cõi lòng của
ai khác. Có thể nói, đóng góp đặc sắc của truyền thống Do Thái Kitô giáo chính
là mối tương giao ngã vị, được thanh lọc tinh tuyền và được nâng lên tới tầm
mức tuyệt đối, gần giống như một thứ “trao thân gửi phận” cho nhau (trao tặng
bản thân và đồng hành trọn cả cuộc đời).
Khi
người ta, từ cái tôi của mình, vượt qua sự vật trung gian, đạt đến ai khác, thì
đó là một sự nhạy cảm có khả năng thông hiệp. Ngược lại, khi người ta vẫn qui
về mình, hoặc chỉ đạt đến sự vật trung gian, thì đó đã là dấu hiệu biểu lộ sự
vô cảm. Có thể nói, khi tâm hồn một ai đó đặt trọng tâm vào sự vật trung gian,
vào phương thức diễn tả cho đúng đắn thì đó đã là một thứ vô cảm, những thứ “vô
cảm lịch sự”, “vô cảm đức độ”, hoặc “vô cảm siêu thoát”. Nhưng khi người ta,
chẳng những không động lòng về sự khổ đau của người khác, mà cũng không có được
một thái độ, một hành vi đúng đắn, nhưng lại còn lợi dụng tai họa của người
khác để kiếm lợi cho bản thân mình, thì đây là một thứ “vô cảm thấp hèn” đang
lan rộng trong đất nước chúng ta.
* Nói như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: sống trong đời sống,
cần có một tấm lòng… để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi.
Nói
rằng “sống trong đời sống cần có một tấm lòng”, đó là điều mà mọi tôn giáo, các
học thuyết đạo đức luôn đồng ý với nhau. Nhưng có tấm lòng đến độ chịu “để gió
cuốn đi”, thì đây lại là một phẩm chất đặc biệt của Kinh Thánh, của Kitô giáo.
Bệnh vô cảm xuất phát từ thái độ không để cho những khổ đau của người khác đụng
chạm được đến lòng của mình, vì sợ rằng mình sẽ bị lôi kéo vào những chuyện làm
mất bình an, mất ổn định, mất sự thanh thản.
3.
Bệnh trạng của xã hội Việt Nam hiện nay
Làm sao
xã hội Việt Nam lại nẩy sinh ra bệnh vô cảm trầm trọng như hiện nay? Có lẽ có
nhiều nguyên nhân tương tác lẫn nhau. Chúng ta thử truy tìm một số nguyên nhân:
3.1 Xã hội hiện đại
Người
ta thấy rằng, cuộc sống càng văn minh, người ta càng muốn giải quyết mọi vấn đề
một cách hợp lý, và một cách nào đó, cái lý dần dần lấn át cái tình. Xã hội văn
minh, để tránh những sai phạm, ngày càng chuẩn hoá hành vi lối sống của con
người với nhau, sự chuẩn hoá được xác định qua luật pháp. Điều đó khiến cho con
người, từ chỗ sợ những hành vi sai luật, đến chỗ tìm sự an toàn cho mình, tránh
dính dáng đến người khác. Khi gặp một đứa bé bị tai nạn, người ta gọi cấp cứu
chứ không dại gì dính tay vào. Hình thức vô cảm này phát triển mạnh ở những
nước văn minh.
3.2 Xã hội nhiễu nhương
Khi xã
hội nhiễu nhương, luật pháp không nghiêm minh, cá nhân mỗi người không còn dám
tin vào ai hay tin vào cái gì, con người không cảm thấy an toàn, và người ta
phải lo bảo vệ chính mình, thì bệnh vô cảm gia tăng nhiều.…. Ta có thể chẩn
đoán căn bệnh này khi thấy bầu khí xã hội tạo nên một thái độ căn băn của cá
nhân mỗi người, thái độ đối phó.
Khi
cuộc sống chung quanh có nhiều sự dòm ngó, dò xét và khi thấy sự hiện diện cũng
như công việc của mình có thể bị đe dọa, thì cá nhân mỗi người hình thành nên
một thứ phản ứng gọi là bản lĩnh đối phó. Ngược lại, khi cá nhân được hỗ trợ,
được chấp nhận và khuyến khích, thì người ta sẽ có được thứ bản lãnh sáng tạo.
Chúng ta có thể thấy thứ bản lĩnh đối phó phát triển quá mức trong guồng máy xã
hội Việt Nam hiện nay, tạo nên thứ khôn vặt, những biện pháp giải quyết nửa mùa
chỉ mang tính đối phó với tình huống trước mắt chứ không phải là một sự trân
trọng những giá trị căn bản, những giá trị “thiêng liêng” trong tâm hồn.
Con
người sống trong bầu khí xã hội nhiễu nhương phải chụp giựt, cướp thời cơ, bon
chen, mánh khóe, chà đạp lên mọi lẽ phải, mọi thứ luân thường đạo lý, và nếu
cần thì chà đạp cả người khác… để giành lấy sự sống cho mình. Điều đó đương
nhiên tạo nên và nuôi dưỡng căn bệnh vô cảm.
3.3 Xã hội nhiễm độc
Nếu
tình trạng xã hội nhiễu nhương, là khi không có một trật tự bên ngoài đúng đắn,
và cá nhân bộc lộ những khuynh hướng ích kỷ vốn tiềm tàng trong mỗi con người;
thì tình trạng nhiễm độc lại là tình trạng chính cơ chế và tưởng hướng dẫn
trong xã hội lại góp phần làm tăng thêm sự hư hoại trong bản chất người.
Mạnh Tử
nói rằng khi người ta thấy một đứa bé sắp rơi xuống giếng, thì ai cũng xót
thương mà ra tay cứu vớt. Hành vi tốt này không do tính toán tư lợi hay tìm
kiếm công danh, nhưng là tình cảm trắc ẩn mà bình thường trong con người ai
cũng có. Đó chính là nền tảng tính thiện của con người. Từ tâm tình tối thiểu
và căn bản ấy, nếu người nào biết phát triển rộng lớn thì đều có thể trở thành
thánh nhân; hoặc nếu làm cho nó tiêu tán thì trở nên chẳng khác gì con vật[9].
Làm
tiêu tán tính thiện là thế nào?
Trước
tiên, ta thấy một hệ quả đương nhiên của chủ trương vô thần là phải chọn nguyên
tắc sống: bạn ra bạn, thù ra thù. Nguyên tắc ấy được nhấn mạnh, được nâng lên
thành đường lối giáo dục, được tuyên truyền trong một bầu không khí chính trị
hoá toàn bộ cuộc sống con người. Hệ quả đương nhiên là, từ lúc thơ ấu, những
đứa trẻ đã được nhồi nhét tư tưởng chính trị để biết căm thù, để biết nhìn với
con mắt “mang hình viên đạn”… và điều đó chắc chắn là tiêu tan mối thương cảm
tự nhiên giữa người với người. Chúng ta từng thấy trong phim ảnh những đứa bé
“kim Đồng”, bắn chết “thằng Mỹ” và nhảy lên vỗ tay reo hò khoái trá[10]…
Xã hội
nhiễm độc làm gia tăng sự vô cảm từ hai nguyên nhân nói trên, và đưa đến những
hệ quả đau lòng của căn bệnh vô cảm hiện nay.
4. Đâu
là thuốc chữa?
4.1. Tương quan nhân thân
Khi
thấy có những tội phạm ra trước toà tỏ vẻ ăn năn sám hối, người ta nói rằng: họ
chỉ sám hối khi không có điều kiện phạm tội nữa. Điều đó có lẽ có nhiều phần
đúng. Nhưng người ta cũng có thể nói: những người chưa phạm tội, chẳng qua vì
họ chưa có điều kiện phạm tội đấy thôi. Quả thật, cuộc sống đầy rẫy những quy
luật nghiệt ngã của thế giới, của những áp lực xã hội, của những tương tác
chính trị chi phối. Qui luật ấy có vẻ lấn áp, lôi kéo, xô đẩy con người như một
sức mạnh lớn hơn tự do, lớn hơn lương tâm, lớn hơn lòng ao ước sự thiện của con
người.
Ta cũng
thấy điều đó trong cuộc đời đức Giêsu, đặc biệt trong cuộc thương khó của Chúa:
- Qui
luật xã hội khiến những người vừa hoan hô Chúa mấy ngày trước, thì sau đó lại
hò hét đòi đóng đinh Chúa vào thập giá;
- Qui
luật chính trị khiến cho Philatô, mặc dầu biết Đức Giêsu vô tội, cũng đã phải
trao đức Giêsu cho người Do Thái đem đi đóng đinh; và qui luật chính trị cũng
thúc đẩy Caipha nói rằng thà một người chết thay cho toàn dân (Xc. Ga 11,49;
18,13-14)…
- Áp
lực của xã hội khiến cho Phêrô và các môn đệ, trước đó tuyên bố sống chết với
Thầy, rồi chẳng bao lâu sau đó thì bỏ trốn hết, và Phêrô thì chối Thầy đến ba
lần.
……………………….
Thế
nhưng, trong trình thuật Thương Khó, ta có thấy được một sức mạnh nào khác có
thể đối đầu với những áp lực xô đẩy nghiệt ngã của cuộc đời không?
Có
chứ!!!
- Phêrô
oà lên khóc, Phêrô thoát ra khỏi áp lực đang xô đẩy ông chối Thầy, khi nhớ lại
lời Chúa đã nói: “Ngay lúc đó, gà gáy lần
thứ hai. Ông Phêrô sực nhớ điều Đức Giêsu đã nói với mình: "Gà chưa kịp
gáy hai lần, thì anh đã chối Thầy đến ba lần." Thế là ông òa lên khóc.”
(Mc 14,72).
- Đặc
biệt nhất là Chúa Giêsu, trong vườn Cây Dầu, đã thốt lên lời Abba, Cha ơi…
Chính trong mối tương quan cá vị, mối tương quan nhân thân thâm sâu ấy đã giúp
Đức Giêsu tìm được sức mạnh để không bị xô đẩy bởi áp lực bên ngoài, nhưng
thiết tha tìm thực hiện ý Cha:
Người
nói: "Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng
xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn." (Mc 14,36)
Chỉ có
một mối tương quan nhân thân (mối tình thân cụ thể của ai đó), nghĩa là thoát
khỏi thái độ ataraxia, mới có thể tạo nên sức mạnh giúp con người tìm lại bản
chất người trong tự do, tìm lại được thái độ đúng đắn như một con người biết
yêu thương.
4.2. Tìm lại ý nghĩa lòng từ bi thương xót
Người
ta nói nhiều, nói quá nhiều về tình yêu… nhưng có lẽ cũng chẳng có gì hàm hồ
cho bằng tình yêu. Mỗi người hiểu và sống tình yêu một kiểu, thể hiện tình yêu
một kiểu… và với nhãn hiệu tình yêu, đôi khi người ta làm những chuyện hết sức
tàn ác. Cha ông chúng ta đã từng nói: yêu nhau lắm, cắn nhau đau…
Đức
Gioan Phaolô II, trong thông điệp Thiên Chúa Giàu Lòng Từ Bi Thương Xót, nói
rằng: có một danh hiệu thứ hai của Tình yêu, đó là lòng nhân hậu (từ bi thương
xót). “Vì lòng nhân từ là chiều kích không thể thiếu của tình yêu; nó như là
danh hiệu thứ hai của tình yêu”[11].
Chúng
ta hiểu rằng điều căn cốt của vận hành yêu thương trong Kitô giáo là: mối tương
quan con người với nhau phải được đặt trong thế tay ba. Có Thiên Chúa ở đó; và
tình yêu con người với nhau chỉ có thể vững bền, quảng đại khi được nối kết vào
nguồn mạch tình thương nhân hậu của Thiên Chúa. Khi nói “tôi yêu anh”, thì
trong niềm tin Kitô giáo, điều đó có nghĩa là: từ căn nguyên, tôi và anh đều
“đáng thương” trước mặt Chúa. Phẩm chất căn bản của tình nghĩa “tôi thương anh”
hay “anh thương tôi” thì cũng đều xuất phát từ phẩm chất lòng nhân hậu, lòng từ
bi thương xót của Chúa.
Tạm kết
Thật
ra, căn bệnh vô cảm không phải chỉ là chuyện của ngày hôm nay và cũng không
phải chỉ là chuyện của thời đầu Kitô giáo. Vô cảm là chuyện của con người mọi
thời và mọi nơi. Vô cảm có mầm mống trong tội tổ tông. Khi nguyên tổ loài người
từ chối một hành trình cuộc sống được kết dệt bằng sống với, sống thân tình với
Chúa và trở nên “một xương một thịt” với nhau (Xc. St 2,24), thì đã chọn phương
thức để hoàn thành cuộc đời mình bằng một “trái cấm”. Nguyên tổ chọn trái cấm
để trở nên như thần thánh:
“… ngày
nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị
thần biết điều thiện điều ác. (St 3,5)
Đằng
sau trái cấm không có ai khác. Chọn trái cấm là chọn phương thức sống cho mình,
vì mình, để hoàn thành cuộc đời mình.
Vô cảm
là cám dỗ sâu xa nhất của cuộc đời con người. Khi người ta ngại sống với ai
khác; khi người ta sợ bị thua lỗ mất mát khi phải sống vì ai khác; khi người ta
từ chối con đường yêu thương, khởi từ thái độ để cho lòng mình được rung cảm vì
ai khác, thì mầm mống sự ác đã tìm thấy kẽ hở để có thể thoát ra và hoành hành
trong cuộc sống nhân sinh.
[1] Épictète, Entretiens, III, XIII, 11. Trích lại
trong Ivan Gobry, Le Vocabulaire grec de
la philosophie, ellipses, 2002
[2] Stobée, Éclogues, II, VII, nt.
[3] Diogène Laerce, Vies, doctrines et sentences des
philosophes illustres, VII, 117. nt.
[4] Marc Aurèle, IX,31, nt.
[5] Épictète, Manuel, XXIX,7; Cicéron, Tusculanes.
V,VII,17, nt.
[6] Xc. Ủy Ban Thần Học Quốc Tế, Văn kiện Hiệp thông nhân vị và quản lý tạo vật,
2002.
[7] Xc. Giuse Lê Minh Thông, O.P. Tình Yêu và Tình Bạn trong Ga 15,9-17, Trung Tâm Học Vấn Đa Minh,
2009, trang 129-148.
[8] Thần học phân biệt “ân sủng bất thụ tạo”, tức là
chính Chúa; và “ân sủng thụ tạo”, tức là những ân huệ khác với chính bản thân
Chúa. Khi lãnh nhận ân sủng, dù là ân sủng thụ tạo, người tín hữu được nhắc nhở
phải biết tìm trở về với ân sủng bất thụ tạo…
[9] Xc. Nguyễn Trọng Viễn, “Hiện Tình Đất Nước, nhìn từ
một vài yêu tố cơ bản của văn hoá Á Châu”, Nội san Chia Sẻ liên tu sĩ thành phố, số 65, trang 53-70.
[10] Ta còn có thể thấy nhiều phương tiện truyền thông
đã cổ võ cho thái độ này, chẳng hạn phim “Khi Mẹ Vắng Nhà”…
[11] Thông điệp Thiên
Chúa giàu lòng từ bi thương xót, số 58.
Một Danh Hiệu Khác Của Tình Yêu.
Đăng nhận xét