Cần phải giúp anh chị em di dân
ý thức một cách thật sâu sắc
việc sống đức tin và loan truyền đức tin
trong những hoàn cảnh sống riêng của mình.
Họ cũng cần phải reo lên,
và mời gọi những anh chị em di dân khác
chung chia niềm vui ơn cứu độ.
ý thức một cách thật sâu sắc
việc sống đức tin và loan truyền đức tin
trong những hoàn cảnh sống riêng của mình.
Họ cũng cần phải reo lên,
và mời gọi những anh chị em di dân khác
chung chia niềm vui ơn cứu độ.
Nữ tu Têrêxa Ngọc Lễ, OP.
Làn sóng hiện
tượng di dân ngày càng tăng vọt, đổ xô nhiều nhất vào các vùng đang trên đà đô
thị hóa, những vùng đất phát triển công
nghiệp cao…như thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu.
Di dân phát sinh từ nhiều nhu cầu, lý do: chính trị, kinh tế, giáo dục… nhưng
nhiều nhất thuộc nhu cầu mưu sinh của người dân. Sự gia tăng dân số về mặt cơ
học này cũng có nhiều điểm thuận lợi như việc: giao thoa các văn hóa, mở rộng
mối tương quan, giải thoát khỏi những ràng buộc vô lý, cải thiện được phần nào
cái đói khổ, có cơ hội nâng cao trình độ tri thức, giải quyết nhu cầu đáp ứng
lực lượng lao động… Tuy nhiên, sự gia tăng dân số trên đã gây nên nhiều áp lực
trên hệ thống an sinh xã hội, cơ sở hạ tầng của các vùng miền có sự tăng vọt số
lượng người di dân nhập cư.
Bên cạnh
những điều đáng mừng nhưng cũng đáng lo của xã hội, Giáo Hội cũng đang rất ưu
tư, băn khoăn để chăm lo đời sống đức tin, mục vụ cho người di dân. Đây là mối
bận tâm rất lớn của Giáo Hội Việt Nam nói chung và từng Giáo phận nói riêng,
của các vị chủ chăn và của từng người anh chị em chúng ta. Làm sao để nâng đỡ
đức tin của họ? Làm gì để đồng hành, trợ giúp, nuôi dưỡng, làm cho đức tin của
anh chị em di dân được lớn lên, để không chỉ là họ sống đức tin nhưng còn phải
là những con người đi loan truyền đức tin của mình cho những anh chị em di dân
khác nữa?
I. Di dân: những thách đố đức tin
Ngày hôm nay, những anh
chị em di dân, và cả chúng ta nữa, đang phải đối diện với một xã hội đầy dẫy
những vấn nạn đau thương nhức nhối.
Ít hay nhiều, có cái gì đó bất an, ngột ngạt trong đời sống, khiến chúng ta cảm
thấy lo sợ nhiều hơn, và dường như thấy mình dễ bị chao đảo trong nhiều lãnh
vực, đặc biệt trong đời sống đức tin.
Trong quá khứ người ta có thể nhận ra một hệ thống văn
hóa nhất thống, được đa số chấp nhận, có tham chiếu nội dung đức tin và các giá
trị được đức tin gợi hứng, nhưng ngày nay, trong phần lớn các lãnh vực xã hội
không còn như thế nữa, vì có cuộc khủng hoảng đức tin sâu xa nơi nhiều người.[1]
Và như thế, cũng trong
giai đoạn này, nhiều anh chị em di dân cũng đang gặp rất nhiều những thách đố,
thử thách về đức tin, làm nên một sự khủng hoảng đức tin đang diễn ra trong
cuộc đời của họ.
Có những anh chị em di dân vẫn còn siêng
năng đến nhà thờ, tham dự Thánh Lễ hàng tuần, hàng ngày, lãnh nhận các Bí tích,
sống đức tin trưởng thành, cố gắng tham gia các sinh hoạt của Giáo Hội tại nơi
vùng mình nhập cư.
Nhưng bên cạnh đó, một hiện tượng rất
đáng lo lắng khi có những anh chị em di dân dù không xa rời hẳn đức tin, nhưng
e dè để sống đức tin, hoặc biểu tỏ đức tin không sâu sắc, trưởng thành. Không
ít các anh chị em di dân chẳng tha thiết đến việc sống với căn tính đức tin của
người Kitô hữu mà chính họ Là, dễ để mình trở thành những Kitô hữu “hàng dỏm”
trong chính cuộc sống của họ. Thực tế, đã có không ít anh chị em di dân bỏ quên việc đến nhà thờ, quên đọc
kinh, quên cầu nguyện, không thiết tha đến việc lãnh nhận các Bí tích…hoặc nếu
có, họ chỉ làm cho xong , qua lần chiếu lệ, để tạo một cảm giác “ an toàn” về
tâm lý, tránh tình trạng áy náy “ xưa cũ”. Những cách sống thiếu bác ái, không
công bằng, gian dối, buông thả, coi thường giáo huấn của Thiên Chúa, của Giáo Hội
không phải chỉ là thuộc về một nhóm nhỏ, nhưng đã trở nên một vấn nạn đáng nghi
ngại.
Ở góc độ này, chúng ta
thấy có rất nhiều lý do gây nên những nguy hại cho đức tin của người di dân “Chúng
ta đang phải đối diện với một cuộc khủng hoảng đức tin sâu xa, một sự mất ý
thức tôn giáo là điều tiêu biểu cho một trong những thách thức lớn nhất đối với
Hội Thánh ngày nay"[2] .
1.
Thách đố đức tin: chủ nghĩa tục hóa
Thế giới hôm nay rất tiến
bộ về văn minh kỹ thuật, khoa học. Con người hôm nay tự cho mình rất tài ba,
giỏi giang trong việc phát minh, làm được những chuyện mà cách đây khoảng một
thập niên, thế hệ trước đã không hề nghĩ đến. Thế giới ngày hôm nay khiến người
ta dễ dàng kiếm tiền hơn, dễ tạo ra cho mình một “thiên đường” theo mô hình mà
họ mơ ước.

Bước ra khỏi vùng đất quê hương, phần lớn là ra đi vì
mưu sinh, để cải thiện kinh tế, để có cơ hội thoát khỏi cái nghèo, để “ dám
ngẩng mặt nhìn đời”, nên cơn cám dỗ vật chất bao giờ cũng mạnh mẽ và sức hút
hơn hết.
Cách khoảng một năm trước
thôi, hay nhiều lắm là hai ba năm, có thể trong những anh chị em di dân này, đã
có những người chẳng biết gì đến tiện nghi của vật chất, những điều mới lạ của
khoa học, không có khái niệm về các dịch vụ “ tươi mát”, không hình dung cái
cuộc sống có quá nhiều điều khác biệt so với nơi họ đã ở; cái gọi là “văn hóa
làng” đã nhường chỗ cho một không gian khác, buộc họ phải ra khỏi cái không
gian vốn quen thuộc, để tiếp xúc với một cộng đồng lớn hơn, khác biệt hơn về
nhiều mặt: văn hóa, ứng xử, giao tiếp, ẩm thực,…
Khi làm một cuộc ra đi,
với từ “di dân” trên vai, những anh chị em đó đã sống, đã đụng chạm, và đã nếm
cảm nhiều cái mới của cuộc sống, mà nơi đó, những điều tốt, những cái hay xen
lẫn những điều xấu, những cái dở và thậm chí còn rất nguy hiểm đang rình chờ
họ. Nếu như không biết gạn lọc đục trong, tốt xấu, thì những hoài bão, ước vọng
chân chính sẽ bị nhấn chìm để rồi những anh chị em di dân sẽ dễ bị tha hóa và
đánh mất chính mình. Các tội phạm trong xã hội, những tình trạng sống buông thả
trong luân lý, tính dục…dẫn đến hiện trạng phá thai mạnh mẽ trong các thành phố
lớn, các khu công nghiệp, phần nhiều có sự góp mặt của những anh chị em nhập
cư, di dân từ vùng miền khác đến.
Do vậy, cái không gian
lịch sử mà anh chị em di dân đang sống, chất chứa nhiều điều mới lạ, những văn
minh tiến bộ, những nhu cầu tiện dụng… nhưng lại là một không gian đầy dẫy
những bất ổn. Không chỉ là về cuộc sống xã hội, nhưng đời sống đức tin của
những anh chị em này luôn phải đối diện với những thách đố, khủng hoảng về đức
tin. Đó là một thực tế, mà không chỉ anh chị em di dân phải đối diện, nhưng
cũng là những thách đố đức tin cho mỗi người Kitô hữu nữa.
Tuy nhiên, xét ở một góc
cạnh nào đó, các anh chị em di dân luôn là những người dễ bị khủng hoảng nhiều
hơn, khi mà họ phải sống tạm thời ở một nơi khác, ngoài căn nhà của mình. Do
đó, dù muốn hay không, ngày nay, có rất nhiều thứ chủ nghĩa, chủ thuyết đang
ảnh hưởng đến đời sống đức tin của người di dân. Chủ nghĩa thế tục, chủ nghĩa
hưởng thụ, thuyết tương đối. lối sống vô cảm, quy kỷ…là những “vòng kim cô”
đang cám dỗ, vây bủa, mời mọc họ buông lỏng đời sống đức tin. “Chúng tạo thành một hàng rào ngăn cản con
người tập trung vào một tiêu điểm hội tụ, điểm cổ súy cho việc hình thành “một
gia đình anh chị em đầm ấm trong một xã hội ngày càng trở nên đa sắc tộc và đa
văn hóa”[3]. Họ dễ dàng bị “ siết” trong những vòng nguy hiểm này nếu
họ không tỉnh thức, và không biết cách chống trả.
Khi bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa
thế tục, con người dễ dàng gạt bỏ Thiên Chúa, không đặt Thiên Chúa làm chủ cuộc
đời mình, nghĩa là chiều kích hàng dọc đã bị giản lược, chỉ còn một chiều
ngang, mối liên hệ với Thiên Chúa không còn.
Hẳn chúng ta đang sống trong một không gian lịch sử, trong đó cơn cám dỗ
gạt bỏ Thiên Chúa đã trở nên rất mạnh. Văn minh kĩ thuật và mức sống phồn thịnh
đưa ta tới khẳng định, là mọi chuyện có thể tự tay ta làm được. Khi nghĩ như
vậy, đương nhiên ta hạn chế cuộc sống vào cái chúng ta có thể làm, có thể tạo
ra, và có thể chứng minh được mà thôi. Như vậy, vấn đề Thiên Chúa chằng cần đặt
ra nữa.[4]
Khi chủ nghĩa tục hóa, duy thế
tục ăn sâu vào trong đời sống xã hội dân sự và phong hóa, nó kéo theo nhiều
lãnh vực như giáo dục, y tế, nghệ thuật, trong các quan điểm, nguyên tắc về hôn
nhân, tính dục, thông truyền sự sống, …rơi vào nền văn minh của sự chết. Sự tục hóa này còn nằm ngay trong chính khái
niệm về con người, đánh mất “ phần thiêng”, để chỉ còn là sản phẩm của quá
trình tiến hóa, nên con người thời đại dễ dàng chối bỏ trách nhiệm luân lý của
hành vi nhân linh. Người
ta chẳng đếm xỉa, quan tâm, đề cập đến nhân phẩm, tôn trọng nhân phẩm và các
quyền bất khả nhượng của con người.
Khi thực tại
này bị che khuất, người ta không có tiêu chuẩn để phân biệt điều gì làm cho cuộc
sống con người nên quý báu và độc đáo. Con người bị mất chỗ đứng trong vũ trụ,
và lạc lõng trong thiên nhiên vì chối bỏ trách nhiệm luân lý của mình, hoặc giả
bộ làm trọng tài tuyệt đối, tự cho là mình có một quyền năng vô hạn để thao
tún.[5]
Không nhiều thì ít, anh chị em di
dân phần nào cũng bị mê hoặc với lối sống, chủ nghĩa tục hóa này. Cách sống ảnh
hưởng của tục hóa được dễ dàng nhận ra khi con người cho phép mình có thể tạo ra một luân lý
riêng phù hợp với mình mà không cần qui chiếu, hoặc dựa trên giáo huấn nền tảng
của Chúa Kitô và Hội Thánh. Một kiểu luân lý đã bị ‘tư hữu hoá’, cũng như một
tôn giáo riêng tuỳ ý thích của mình. Con người dễ làm đảo lộn mọi thang
bậc các giá trị luân lý, đạo đức của con người và khuynh đảo chính nền tảng đức
tin Công Giáo, của hôn nhân, gia đình và luân lý Kitô giáo[6]. Ví dụ điển hình cho
thấy, đã có không ít anh chị em di dân trẻ chấp nhận kiểu sống thử, lối sống
“góp gạo nấu cơm chung”, chối bỏ trách nhiệm luân lý hành vi nhân linh trong
tình dục, trong việc bảo vệ sự sống…những điều mà nếu họ ở trong cộng đồng tại
quê nhà, họ sẽ không dám làm, không dám sống.
Không tham dự Thánh Lễ,
hoặc sống cách hời hợt trong đức tin cho thấy những anh chị em đó đang có những
ông chúa khác đang thống trị và lôi cuốn họ vào cuộc sống chỉ biết tìm ra vật
chất, đặt vật chất, lối sống phóng túng thành những ngẫu tượng cuộc đời mình
bởi họ đang phải hít thở một bầu không khí chủ trương chối bỏ Thiên Chúa và đề
cao vật chất. “Thời đại chúng ta hằn sâu quyết tâm xóa bỏ Thiên Chúa và các giáo huấn
của Hội Thánh khỏi chân trời sự sống, để rồi len vào đó nào ngờ vực, nào hoài
nghi và vô cảm, nhằm loại khỏi xã hội bất cứ biểu hiệu nào của niềm tin Kitô
giáo”[7]. Và đương nhiên, như một hệ quả tất yếu, tục hóa sẽ dẫn
đến một lối sống thực dụng, hưởng thụ, khô khan, trống rỗng, một tình trạng sa
mạc hóa đời sống thiêng liêng. Sự sa mạc hóa này không chỉ dừng lại nơi một ai,
nhưng tạo nên một cơn sóng lan tràn nguy hại trong anh chị em di dân và trong
những cộng đồng lớn hơn xung quanh họ.
2.
Thách đố đức tin: thuyết
tương đối
Khi đã bị vật chất mê
hoặc, người ta sẽ dễ bị những thách đố khác nữa bủa vây. Và như thế, có thể anh
chị em di dân cũng có cơn cám dỗ buông mình của thuyết tương đối.,không muốn
ràng buộc với Chân Lý, chối bỏ Chân Lý. Dù là Kitô hữu, nhưng một số người, do sự buông thả về lối sống dẫn
đến việc họ không còn muốn bận tâm đến việc huấn luyện lương tâm. Họ bị ảnh
hưởng bởi thuyết Tương Đối trong
lãnh vực luân lý. Vì cho rằng không có luân lý tuyệt đối nên con người không
còn tiêu chuẩn nào để huấn luyện lương tâm. Và từ đó người ta có thể muốn làm
gì thì làm mà không còn bị lương tâm khiển trách nữa. Đánh
mất cảm thức về tội, mất định hướng chân lý không phải là chuyện không thể xảy
ra với anh chị em di dân “chỉ còn lại một
thuyết tương đối, trong đó câu hỏi về chân lý phổ quát, mà cơ bản cũng là một
câu hỏi về Thiên Chúa, không còn được quan tâm nữa [8]”.
Bên cạnh đó, do thiếu trưởng thành trong
đời sống đức tin, khi sống chung với những anh chị em di dân thuộc các tôn giáo
khác, họ đã không còn quan tâm đến việc sống đức tin, chứ đừng nói đến làm
chứng cho đức tin và loan truyền đức tin của mình cho những anh chị em chưa
biết Thiên Chúa. Tệ hại hơn nữa, họ có thể dần dần rơi vào chủ nghĩa hoài nghi
và không còn tin vào Chân Lý duy nhất nơi Thiên Chúa, không còn muốn đón nhận
giáo huấn của Hội Thánh, họ chỉ thích những tôn giáo hợp với ý thích, chủ nghĩa
dễ dãi…và có thể, họ có cả một “ bộ sưu tập tôn giáo”, trở nên những con người
thuộc về nhiều tôn giáo cùng một lúc (Multiple religious belonging). Cái điệp khúc ‘Đạo nào cũng tốt” có thể là câu mà
họ thường dùng để biện hộ và tranh luận.
Trong bối cảnh này, người di dân nào đã từng
biết và đón nhận Đức Kitô cũng thường bị ép phải coi Người không còn quan trọng
trong đời sống mình, dần dần mất mọi nhận thức đức tin, tới độ không còn coi
mình là phần tử của Hội Thánh nữa. Họ thường chấp nhận một lối sống không còn
in đậm dấu ấn Đức Kitô và Tin Mừng của Người.[9]
Đứng trước những vấn đề trăn trở trên, cần làm gì để họ, những anh chị em
di dân, những người đã từng biết và đón nhận Đức Kitô, sẽ không bị vùi dập để
dần dần mất mọi nhận thức đức tin, nhưng trái lại, họ sẽ sống được đức tin của
mình, và còn loan truyền đức tin đó cho người khác? Thiết nghĩ, những vấn đề
trăn trở trên không chỉ là thách đố đối với Giáo Hội, với các vị chủ chăn,
những người có trách nhiệm mục vụ trực tiếp với anh chị em di dân, nhưng đó
cũng phải là mối ưu tư, bận tâm của từng người chúng ta, là những người đang có
những anh chị em di dân là Kitô hữu đang ở bên cạnh mình.
1.
Cuộc lữ hành
đức tin và hy vọng
“Cuộc lữ hành
đức tin và hy vọng” là chủ đề được Đức Thánh Cha Benedicto XVI đã
chọn trong sứ điệp ngày Thế Giới Di Dân và Tị Nạn lần thứ 99, năm 2013 vừa qua.
Trong sứ điệp này, Đức Thánh Cha Benedicto XVI nhấn mạnh rằng “Đức tin và hy vọng là
những yếu tố không thể tách rời trong trái tim của những người di dân, những
người có một khao khát thẳm sâu về đời sống tốt hơn nên và cố gắng để bỏ lại
sau lưng mình sự vô vọng của một tương lai không hứa hẹn… Đức tin và hy vọng là
những tài sản quý giá mà những người di dân mang theo mình, họ biết rằng với
chúng, họ có thể “đối diện với hiện tại, một hiện tại cho dẫu là đầy bi kịch,
nhưng vẫn có thể được sống và được đón nhận nếu nó dẫn chúng ta đến một mục
tiêu, nếu chúng ta chắc chắn về mục tiêu này, và nếu mục tiêu này đủ lớn để
minh chứng cho hành trình của chúng ta” (Spe Salvi, 1).
Thật như
thế, một cuộc lữ hành của anh chị em di dân sẽ trở nên có ý nghĩa khi họ lữ
hành trong đức tin và hy vọng. Cuộc sống đức tin của anh chị em di dân tại
những vùng đất mới cũng có những điểm tương đồng như cuộc ra đi trong đức tin
của Abraham, cha của những kẻ tin. Abraham đã lên đường vì niềm tin. Abaraham
đã tín thác và hy vọng vào lời Thiên Chúa hứa. Những hoàn cảnh mới, những khó
khăn mới, những môi trường, công việc mới, những con người mới và cả những cám
dỗ mới…có thể là những thực tại chứa ẩn giá trị cho đức tin, làm cho đức tin
được thanh luyện, được vững chắc hơn, một khi họ biết hy vọng. Nếu vững tin,
chắc chắn anh chị em di dân sẽ có được những kinh nghiệm thật quí giá của cuộc
gặp gỡ với Thiên Chúa trong đời thường của họ.
Nhưng làm
thế nào để anh chị em di dân có thể thấm hiểu được rằng họ đang trên đường lữ
hành, một cuộc lữ hành của đức tin trong hy vọng trong ý thức và lối sống của
mình Những tổ chức, hoạt động, sinh hoạt mục vụ với anh chị em di dân có thực
sự giúp họ ý thức thật sâu sắc điều này hay không? Làm sao để họ có thể làm mới
lại niềm tín thác và hy vọng vào Thiên Chúa, cho dẫu họ đang phải đối diện với
muôn vàn thách đố về đức tin? Làm cách nào để những người anh chị em chúng ta
cảm thấy được sống đức tin cùng với cộng đoàn, dù vùng đất họ đang ở chỉ là nơi
tạm thời để mưu sinh, học tập…? Đây có phải là những vấn đề đã từng được chúng
ta quan tâm?
Trong muôn
vẻ của nhiều hoạt động, phải chăng để những anh chị em di dân có một cuộc lữ
hành đức tin thật trong hy vọng cách trọn vẹn, họ cần phải nhận được sự đồng
hành, trợ giúp thiết thực từ các giáo xứ, của mỗi người chúng ta khi có anh chị
em di dân hiện diện và cùng chung sống?
Phía Giáo
Hội, chúng ta nhận ra rằng Giáo Hội luôn canh cánh bên mình những ưu tư đối với
anh chị em di dân. Giáo Hội thực sự đã, đang và sẽ quan tâm rất nhiều trong
việc tìm kiếm và thực hiện nhiều phương cách đồng hành, trợ giúp các con cái,
là những anh chị em di dân, bằng tình mẫu tử bao la của mình. Tuy nhiên, sự dấn
thân không mỏi mệt của Giáo Hội trong việc chăm lo mục vụ đời sống đức tin cho
anh chị em di dân cần phải được sự tiếp sức của những con cái khác trong Giáo
Hội nữa.
Điều này
cho thấy sự đồng hành sâu sắc để nâng đỡ đức tin một cách thiết thực, không chỉ
dựa trên những hệ thống tổ chức hình thức, những hoạt động bên ngoài, nhưng còn
phải đi sâu vào tận bên trong để cùng sống đức tin với anh chị em di dân. Điều
này có nghĩa là chúng ta cần phải làm cái gì đó để “giúp họ hội nhập trọn vẹn vào trong một bối cảnh xã hội và văn hoá mới
mà không xao nhãng chiều kích tôn giáo, vốn là một yếu tố nền tảng trong đời
sống của mọi người”[11]
2.
Di dân: sống niềm vui đức
tin để loan truyền đức tin
Giữa những khó khăn trong cuộc
sống, giữa những thử thách sống đức tin, làm sao để anh chị em di dân của chúng
ta có thể nói mạnh mẽ như thánh Phêrô: “Tôi
biết tôi tin vào ai”, và xác tín rằng: “Người đủ quyền năng bảo toàn giáo huấn
đã được giao phó cho tôi, mãi cho tới ngày sau cùng” (2 Tm 1,12). Để anh
chị em di dân sống niềm vui đức tin, họ cần xác tín mạnh mẽ việc tin vào Đức
Giêsu Kitô, tâm điểm của đức tin của người Kitô hữu. Họ, những anh chị em di
dân, cần phải được trợ giúp để “Tái khám phá nội dung đức tin được tuyên xưng, cử hành, sống và cầu
nguyệnvà suy tư về chính hành động đức tin”[12]. Đồng
thời, anh chị em di dân cũng cần xác tín rằng “Ánh sáng đức tin có khả năng
tăng cường sự phong phú của các mối liên hệ con người, khả năng chịu đựng, khả
năng trở nên đáng tin cậy, khả năng làm phong phú đời sống cộng đồng của họ”[13].
a. Tin vào Đức Giêsu Kitô
“Trong nhiều lĩnh vực của cuộc đời chúng
ta, chúng ta tin tưởng vào những người khác, là những người biết nhiều hơn
chúng ta. Chúng ta tin tưởng vào các kiến trúc sư là những người xây nhà chúng
ta, vào dược sĩ là những người cho chúng ta thuốc để chữa bệnh, vào các luật sư
là những người bảo vệ chúng ta tại tòa án. Chúng
ta cũng cần một ai đó đáng tin cậy và chuyên môn về những việc có liên quan đến
Thiên Chúa. Chúa Giêsu, Con của Ngài, là Đấng tự giới thiệu như Đấng giải thích
cho chúng ta về Thiên Chúa (x. Ga 1:18)”[14].
Vì sao chúng ta
tin vào Đức Giêsu Kitô? Trong Thông điệp Ánh
sáng đức tin – Lumen Fidei của Đức Thánh Cha Phanxicô đã chỉ cho tất cả
chúng ta, và cho cả những anh chị em di dân, là những con cái trong Giáo Hội ý
thức hơn nữa việc tin vào Đức Giêsu Kitô.
Vì nơi Chúa Giêsu,
những gì Ngài nói đều là Sự Thật. Niềm tin ấy mở ra cho chúng ta một tương quan
gặp gỡ với Thiên Chúa, một không gian mới cho kinh nghiệm của con người mà
chúng ta có thể vào được. Như thánh Gioan diễn tả, chúng ta không chỉ “tin” Chúa Giêsu, nhưng còn là”tin vào” Chúa Giêsu.
“Chúng ta “tin”
Chúa Giêsu khi chúng ta chấp nhận Lời Người, chứng từ của Người, bởi vì Người
trung thực (x. Ga 6,30). Chúng ta “tin vào” Chúa Giêsu khi chúng ta
đích thân đón Người vào cuộc đời và cuộc hành trình của chúng ta về phía Người,
gắn bó với Người trong tình yêu và bước theo Người trên đường đời (x. Ga 2,11 ;
6,47 ; 12,44)”[15].
Chúng ta không tin một nhân vật huyền
thoại, không tin vào một chuyện hoang đường, nhưng tin vào một nhân vật
lịch sử, tin vào Đức Giêsu Kitô Phục Sinh và sứ điệp của Người. Chúng ta tin
cách tuyệt đối, nghĩa là trên hết mọi sự, để có thể sẵn sàng hy sinh cho đức
tin của mình: "Những điều kể được như là lợi lộc cho tôi, tôi đã coi
là thua lỗ bất lợi vì Đức Kitô... Tôi coi tất cả mọi sự là thua lỗ bất lợi, vì
cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa tôi. Vì Người, tôi đành
thua lỗ mọi sự , và coi là phân bón cả , để lợi được Đức Kitô..."
(Phil 3,7-8).
Tin Đức Giêsu Kitô, chúng ta sẵn sàng để
cuộc đời mình cho Ngài dẫn dắt, và phó thác trọn vẹn cho Ngài.
Những anh chị em di dân của chúng ta cần phải
có một xác tín thật mạnh mẽ trong niềm tin. Bởi tin không phải là một mớ lý
thuyết của lý trí, nhưng đó là một sự gặp gỡ trong tương giao với Đấng mà chúng
ta, và cả họ nữa đang tin vào. Tin là hành trình của một cuộc gặp gỡ đầy tuyệt
diệu với Thiên Chúa, Đấng là Chủ tể, là Đấng Tạo Hóa đầy tình yêu thương, hằng
chăm sóc từng người chúng ta. Vì thế, đồng hành trong đức tin với anh chị em di
dân sẽ là những cơ hội tốt để cả chúng ta và những anh chị em di dân gần nhau
hơn trong đức tin, được cùng nhau cảm nếm niềm vui của cuộc gặp gỡ với Đức
Giêsu Kitô.
Chính Đức Kitô là ánh sáng đức Tin “Tôi, là ánh sáng, Tôi đến thế gian, để bất
cứ ai tin vào Tôi, thì không ở lại trong bóng tối” (Ga 12:46). Ánh sáng đức Tin ấy sẽ soi chiếu mọi ngõ
ngách tâm hồn của con người, và đồng thời cũng sẽ soi chiếu những góc khuất đêm
đen con người thời đại, của chúng ta và của anh chị em di dân. Do đó, cần phải
làm thế nào để trong muôn vàn những thách đố của cuộc sống, những anh chị em di
dân của chúng ta nhận ra được ánh sáng của đức tin, biết bám víu vào Đấng là
ánh sáng dọi chiếu những đêm đen cuộc đời của họ, không chỉ trong việc sống
đạo, nhưng còn trong biết bao những khó khăn thường nhật của cơm áo gạo tiền,
của những va chạm, của những nỗi cô đơn, của sự cảm nhận bị lạc long, bỏ rơi,
của thất vọng.
Và như trong một chuỗi tiến trình liên
tục, khi đã xác tín được đức tin của mình nơi Đức Giêsu Kitô, nơi Ba Ngôi Thiên
Chúa, anh chị em di dân sẽ biết mình phải sống đức tin ra sao, sống đức tin thế
nào để minh chứng niềm tin của mình giữa những môi trường họ đang sống, với
những con người mà họ tương giao, tiếp xúc, và trong cả công việc họ đảm nhận.
b. Loan truyền đức Tin
"Đức Tin sẽ tăng trưởng khi biết sống đức Tin
với cảm nghiệm về tình yêu đã nhận lãnh, và biết thông truyền
đức Tin với cảm nghiệm về ân sủng và niềm vui" [16].
“Việc truyền bá đức tin, là đức tin soi
sáng tất cả mọi người ở mọi nơi, cũng đi qua trục lộ thời gian, từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Vì
đức tin được sinh ra từ một cuộc gặp gỡ diễn ra trong lịch sử và soi sáng cuộc
hành trình của chúng ta qua thời gian, nó phải được truyền lại trong mọi thời
đại”[17]
Trong mọi lúc, và ở mọi nơi, mỗi tín hữu
Kitô phải thông truyền đức tin của mình. Khi chúng ta tuyên xưng “ tôi tin”, điều này còn được vươn tới
bài ca“ chúng tôi tin” mang tính cộng
đoàn.
Anh chị em di dân của chúng
ta cũng thế, khi tuyên xưng đức tin “ tôi tin”, họ cũng cần phải xác định đức
tin của mình là hành vi của sự lựa chọn, có ý thức, có tự do. Tin, có nghĩa là
phó thác, đó là điều chúng ta cùng với anh chị em di dân khám phá và sống tâm
tình phó thác cho Thiên Chúa trong đức tin của mình. Và một khi đã khám phá ra
vẻ đẹp của niềm tin, khám phá được niềm vui trong hành vi tin, anh chị em di
dân cũng phải ra đi để niềm vui của sự tin tưởng đó được lan ra đến với những
người khác. Niềm vui cần được chia sẻ,
cần được nhân lên, nhân rộng ra đến với người khác “Xin chung vui với
tôi, vì tôi đã tìm đuợc đồng bạc tôi đã đánh mất"(Lc 15,10). Đức tin sẽ được lớn lên, được bùng
cháy mạnh mẽ hơn nhờ việc dấn bước ra đi chia sẻ và truyền trao đức tin cho
người khác. Kinh nghiệm của niềm vui gặp gỡ Đức Kitô trong đức tin không thể bị chôn kín, cất giấu,
nhưng cần phải làm một cuộc ra đi, làm nên một sự chuyển động trong đức tin[18].
Loan
truyền đức tin là một động thái của việc chia sẻ niềm vui hồng ân đức tin. Vì
thế, cần phải sẻ chia cho người khác niềm vui ơn cứu độ, khi nhận ra Thiên Chúa
yêu thương, cứu chuộc và ban hạnh phúc cho chính chúng ta và cho những người
khác.
Chúng ta
loan truyền đức tin không phải là làm một bài văn tường thuật về một Đức Giêsu,
nhưng là nói, là sống, là chia sẻ cảm nghiệm gặp gỡ với Đức Giêsu, như người
phụ nữ Samaria đã nói” Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã
làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?" (Ga 4,29). Loan truyền đức tin chính
là "tạo ra ở mọi nơi và mọi thời những điều kiện để có thể có cuộc gặp gỡ
cá vị với Chúa Giêsu Kitô"[19]
Đó là sứ vụ của mỗi người Kitô hữu, và của
anh chị em di dân. Không thể để cho ngọn nến đức tin của mình bị lu mờ hoặc
thậm chí bị tắt đi, nhưng chúng ta và những anh chị em di dân phải giữ cho ngọn
nến đức tin của mình được luôn luôn cháy sáng.
Như thế cần phải có những hoạt động nào đó
để giúp anh chị em di dân hiểu được sứ vụ của mình, và giúp họ thực hiện sứ vụ
loan truyền đức tin đó cho người khác? Bao lâu họ chưa ý thức được việc loan
truyền đức tin cho người khác, phần trách nhiệm không nhỏ cũng sẽ thuộc về mỗi
người chúng ta, là những anh chị em sống cùng với họ trong đức tin và trong
cuộc sống đời thường.
Cần phải giúp anh chị em di dân ý thức một
cách thật sâu sắc việc sống đức tin và loan truyền đức tin trong những hoàn
cảnh sống riêng của mình. Họ cũng cần phải reo lên, và mời gọi những anh chị em
di dân khác chung chia niềm vui ơn cứu độ.
v Bí quyết để truyền bá đức tin:
ü Làm chứng về cuộc gặp gỡ Thiên Chúa
“Làm chứng về cuộc gặp gỡ Thiên Chúa của
cá nhân mình chính là “bí quyết” để truyền bá Đức Tin”[20].
“Bí quyết” Đức Tin, có nghĩa là, “để gặp gỡ Thiên Chúa thì phải gặp được người
đã từng gặp Ngài”.
Để có thể trao truyền đức tin cho người khác,
chúng ta cần giúp cho anh chị em di dân có môi trường để củng cố, tăng cường
đức tin mạnh mẽ. Làm sao để những anh chị em di dân của chúng ta có được cuộc
gặp gỡ Đức Giê-su Ki-tô, Thiên Chúa làm người, bởi Tin là một cuộ
gặp gỡ[21].
Chính qua cuộc gặp gỡ nầy chúng ta nhận ra Ngài chính là tình yêu không thể
tưởng tượng mà Thiên Chúa trao ban cho con người: "Thiên Chúa yêu thế gian đến
nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì không phải chết, nhưng được
sống đời đời" (Ga 3,
16).
Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa sẽ cho chúng ta
và anh chị em di dân có cảm nghiệm sâu xa trong tình yêu với Ngài, khẳng định
cách chắc chắn chính Thiên Chúa đã yêu chúng ta "Chúng ta là những
người được Thiên Chúa yêu thương" (Rm
1,7). Sự khẳng định này làm cho tất cả chúng cảm thấy bị thôi thúc để nói, để
truyền loan đức tin: Thiên Chúa là Cha tôi, cũng là Cha của anh, của chị, của
hết mọi người và vì tình yêu, Ngài đã tạo dựng nên tôi, tạo dựng nên tất cả mọi
người chúng ta.
Khi gặp gỡ với Đức Giêsu Kitô là Tình Yêu
của Thiên Chúa, nơi chúng ta sẽ có một niềm vui thật khôn tả, một niềm vui có
Chúa. Bởi vì việc khám phá mối tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa "là con đường đi đến tình yêu
và tiếng thưa vâng của ý chí chúng ta đối với ý muốn của Người kết hợp sự hiểu
biết, ý chí và cảm xúc trở thành một hành động trọn vẹn của tình yêu"[22]
Đức
tin phát sinh từ một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa hằng sống, Đấng mời gọi chúng
ta và mặc khải cho chúng ta tình yêu của Ngài, một tình yêu đi trước chúng ta
và trên đó, chúng ta có thể dựa vào để được an toàn và để xây dựng cuộc đời
chúng ta. Được biến đổi bởi tình yêu này, chúng ta nhận được đôi mắt mới, chúng
ta cảm nhận rằng đó là một lời hứa cả thể về sự viên mãn và viễn tượng về tương
lai đang mở ra trước mắt chúng ta. Đức tin mà chúng ta nhận được từ Thiên
Chúa như một hồng ân siêu nhiên, trở thành một ánh sáng cho con đường của chúng
ta, hướng dẫn cuộc hành trình của chúng ta trong thời gian”.[23]
Cảm nghiệm này sẽ đưa đến việc hoán cải,
quay trở về với Cha, với tình yêu của Cha. Và đời sống đức tin ngày một sâu sắc
hơn trong sự gắn bó với Thiên Chúa là Cha yêu thương chúng ta. Đây cũng là một
kinh nghiệm của dân Israel trong suốt lịch sử của họ.“Đức tin gắn liền với việc hoán cải, trái ngược với việc thờ ngẫu
tượng; đức tin là một đoạn tuyệt với ngẫu tượng để trở về với Thiên Chúa hằng
sống, trong một cuộc gặp gỡ cá nhân. Tin, có nghĩa là phó thác mình cho một
tình yêu đầy thương xót, là tình yêu luôn luôn đón nhận và tha thứ, nâng đỡ và
hướng dẫn cuộc đời chúng ta, và chứng tỏ sức mạnh của nó bằng khả năng sửa chữa
những sai lệch của lịch sử của chúng ta. Đức tin hệ tại việc sẵn sàng để cho
mình được liên tục biến đổi và canh tân bằng lời mời gọi của Thiên Chúa”[24]
ü
Can
đảm lưu truyền quà tặng đức Tin
Bí quyết khác nữa để trao truyền đức tin
cho người khác đó là: cần đến một sự can đảm. “Nền tảng của đức tin chính là
tin vào Chúa Giêsu phục sinh, Đấng đã tha thứ tội lỗi cho chúng ta qua cuộc tử
nạn của Người và đã giao hòa chúng ta với Chúa Cha. Để có thể chuyển tải sứ
điệp đức tin này, chúng ta cần phải can đảm, đôi khi chỉ là một sự can đảm đơn
sơ.”[25].
“Đức Kitô không chỉ đòi chúng ta phải can đảm
để loan báo việc Người đã sống lại nhưng còn phải can đảm để cầu nguyện và cầu
khẩn Người khi chúng ta gặp khó khăn, thiếu thốn. Chúng ta phải can đảm đến với
Chúa Giêsu và xin Người: Lạy Chúa! Ngài đã nói như thế, xin hãy thực hiện! Xin
làm cho đức tin của chúng con được lớn mạnh! Xin cho việc loan báo Tin Mừng
được phát triển! Xin giúp chúng con giải quyết vấn đề này...! Chúng ta có đủ
can đảm trong lời cầu nguyện? Hay chúng ta chỉ dành một chút thời gian khi có
thể để cầu nguyện? Hãy can đảm, hãy mạnh dạn trong cầu nguyện!” [26].
ü
Canh
tân đời sống - Yêu mến và xây dựng Giáo
Hội của Chúa Kitô
Trong bài giảng đêm Canh Thức WYD Rio De Janeiro 2013, Đức
Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi người trẻ hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa Kitô
trở thành những “môn đệ” và những “ nhà truyền giáo” trên cánh đồng đức tin Campus Fidei với ba hình ảnh : cánh đồng
là nơi để gieo hạt giống; cánh đồng là một thao trường; cánh đồng là một công
trường xây dựng.
Chúng ta, các anh chị em
di dân, tất cả mọi Kitô hữu phải là những nhà truyền giáo của Chúa Giêsu và của
Giáo Hội. Nơi mỗi người chúng ta đang có một cánh đồng đức tin trong tâm hồn
mình. Nơi đó, từng người chúng ta đang được kêu mời để canh tân cuộc đời , làm
cho cánh đồng đức tin của chúng ta trở nên đúng nghĩa. Xin được trích dẫn các ý
tưởng của Đức Thánh Cha Phanxicô trong bài giảng đêm Canh Thức WYD 2013 để kết
bài chia sẻ này:
Cánh đồng là nơi để gieo
hạt giống: “cánh đồng đức tin thực sự chính
là trái tim của các con, là cuộc đời các con. Chúa Giêsu muốn bước vào đời các
con với Lời Ngài, với sự hiện diện của Ngài. Xin hãy để cho Chúa Kitô bước vào
đời các con để lời Ngài đi vào cuộc sống các con, thăng hoa và triển nở.
Cánh đồng là một thao trường: “Các vận động viên tự mình từ bỏ đủ thứ; họ làm điều này để
giành lấy một vương miện bằng lá chóng tàn, nhưng chúng ta được một vương miện
bất diệt" (1 Cor 9,25). …
Ngài yêu
cầu chúng ta phải tập luyện"để lấy lại vóc dáng", để chúng ta có thể
đối mặt với mọi tình huống trong cuộc sống mà không hề thối chí, nhưng hiên
ngang làm nhân chứng cho đức tin của mình… bằng lời cầu nguyện là đối thoại hàng ngày của chúng ta với Thiên Chúa, Đấng luôn luôn lắng nghe
chúng ta. Bằng các phép bí tích, là cách làm cho Ngài phát triển trong chúng ta
và uốn nắn chúng ta cho phù hợp với Chúa Kitô. Bằng cách yêu thương nhau, học
cách lắng nghe, để hiểu, để tha thứ, để chấp nhận và giúp đỡ người khác, tất cả
mọi người, không một ai bị loại trừ hoặc tẩy chay.
Cánh đồng là một công trường xây dựng: “Trong Đền thờ của Chúa
Giêsu, chính chúng ta là những viên đá sống động. Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta
xây dựng Đền thờ của Ngài, nhưng không chỉ là một ngôi nhà nguyện nhỏ nhoi nơi
chỉ có một nhúm người. Ngài đòi hỏi chúng ta làm cho Giáo Hội sống động của
Ngài trở thành to lớn đến độ nó có thể chứa đựng tất cả nhân loại, nơi có thể
thành một ngôi nhà cho tất cả mọi người! Ngài đã nói với cha, và với các con:
"Hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành các môn đệ"[27]
Ước
mong các anh chị em di dân cũng sẽ để
cho mình luôn trong trạng thái “ ĐI- ĐỪNG
SỢ- PHỤC VỤ”[28]
để Tin- để sống và để loan truyền đức tin trong cung cách phục vụ của mình
dưới nhiều góc cạnh khác nhau.
[1] ĐTC Benedicto
XVI, Tông thư Cánh cửa Đức tin (Porta
Fidei), số 2
[3] x. ĐTC
Benedicto XVI, Di dân và Tân Phúc Âm hóa,
2012
[4] ĐTC Benedicto
XVI, Thiên Chúa và trần thế, Xuất bản 2011, trang 24
[5] X. ĐTC
Phanxicô, Thông điệp “ Ánh sáng đức tin” ( Lumen Fidie) chương 4, số 54.
[6] ĐTC Benedicto
Xvi, buổi tiếp kiến dành cho các Giám mục Colombia ngày 10.9.2012 tại Castel Gandolfo
[7] x. ĐTC
Benedicto XVI, Di dân và Tân Phúc Âm hóa,
2012
[9] x. ĐTC
Benedicto XVI, Di dân và Tân Phúc Âm hóa,
2012
[10] x. ĐTC
Benedicto XVI, Sứ điệp nhân ngày thế giới di dân lần thứ 99, 2013 “Cuộc lữ hành đức tin và hy vọng”
[11] x. ĐTC
Benedicto XVI, Sứ điệp nhân ngày thế giới di dân lần thứ 99, 2013 “Cuộc lữ hành đức tin và hy vọng”
[12] x. ĐTC
Benedicto XVI, Tông thư Cánh cửa đức tin, số 9
[20] x. ĐTC Bênêđictô XVI phát biểu trong Đại hội lần thứ 25
toàn HĐGH về Tín hữu Giáo dân, ngày 25/11/2011
Đăng nhận xét