Hiện tượng di dân là
một vấn đề rất quan trọng,
nhưng trong thực tế thì rất nhiều người
trong Giáo hội tại Việt Nam lại chưa quan tâm đúng mức,
trong Giáo hội tại Việt Nam lại chưa quan tâm đúng mức,
thậm chí có nhiều vị
mục tử coi chuyện di dân
như là chuyện tốn công phí thời gian,
là chuyện của người ta
chứ không phải là chuyện của mình!
như là chuyện tốn công phí thời gian,
là chuyện của người ta
chứ không phải là chuyện của mình!
Fx. Trần Kim Ngọc,
OP.
Dẫn
nhập
Chúng ta đang sống trong một xã hội có nhiều
biến đổi và biến đổi không ngừng. Những biến đổi đó làm cho con người phải
thích nghi liên tục, tạo nên một làn sóng di chuyển rộng lớn. Mục vụ di dân tại
Việt Nam là một điều rất mới mẻ và lạ lẫm đối với nhiều người và thậm chí là
đối với nhiều vị mục tử. Di dân không đơn thuần là chuyện của một người, một
giáo xứ hay một giáo phận; di dân là chuyện toàn cầu, là chuyện của toàn xã
hội, là chuyện của toàn Giáo hội và là chuyện liên quan đến nhiều lãnh vực của
cuộc sống. Trong bối cảnh toàn cầu hoá này, người làm mục vụ không thể không
biết đến hiện tượng di dân. Trong bài viết này, người viết thử nêu lên đôi nét
tổng quát trong giáo huấn của Giáo hội về mục vụ di dân dưới nhiều khía cạnh
khác nhau; nhờ đó, công việc mục vụ của mỗi người sẽ thêm phong phú và tốt đẹp
hơn.
1. Hội đồng Giáo hoàng
về Mục vụ Di dân
Theo Huấn thị Erga Migrantes
Caritas Christi - Tình yêu Đức Kitô dành cho Di dân - của Hội đồng Giáo hoàng
về Mục vụ Di dân, hiện tượng di dân nêu lên những khía cạnh như sau:
1.1. Dấu chỉ thời đại
Di dân là một hiện
tượng mang tính toàn cầu và phức tạp; là một hiện tượng đặt ra cho Giáo hội
những trách nhiệm và bổn phận cần phải hành động cho lợi ích của các linh hồn.
Hiện tượng di
dân sẽ là một cơ hội tốt hay là một dấu chỉ thời đại nếu Giáo hội nắm bắt và
thích ứng kịp thời những đòi hỏi của hiện tượng này; nếu không thì đó là một
thách đố cho Giáo hội. “Như thế chúng ta có thể coi hiện tượng di dân hiện nay
là một ‘dấu chỉ thời đại’ đầy ý nghĩa, là một thách đố cần khám phá và sử dụng
trong công tác canh tân nhân loại và loan báo tin mừng bình an.”[1] “Qua di dân đức tin lại tái khám phá
sứ điệp phổ quát của các tiên tri khi các ngài tố cáo kỳ thị, áp bức, lưu đày,
phân tán và bắt bớ như chống lại kế hoạch của Thiên Chúa.”[2]2
1.2. Thách đố
Huấn thị nêu
lên tinh thần của Gaudium et
Spes của Vatican II là: vui
mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người hôm nay cũng là vui mừng và hy
vọng, ưu sầu và lo lắng của người môn đệ theo Đức Kitô;[3] không nắm bắt cơ hội về hiện tượng di
dân thì đó là một thách đố đặt ra cho Giáo hội nhiều vấn đề phức tạp liên quan
đến đời sống luân lý, đức tin và truyền giáo. “Hoàn cảnh của di dân thách đố
niềm tin và đức ái của các tín hữu.”[4] Không dễ dàng để giải quyết những vấn
đề do di dân đặt ra:
Thách đố chúng ta
phải đương đầu trong vấn đề di dân ngày nay thật không dễ dàng vì nó liên quan
tới quá nhiều lãnh vực: kinh tế, xã hội, chính trị, ý tế, văn hoá và an ninh.
Mọi Kitô hữu đều phải chấp nhận giáp mặt thách đố này. Đây không chỉ đơn thuần
là công việc của thiện chí, hay dành cho một ít người có đặc sủng riêng.[5]
1.3. Truyền giáo
Hiện tượng di
dân xảy ra ồ ạt và mang tính toàn cầu; do đó, truyền giáo ngày hôm nay mang một
sắc thái mới, đó là “sắc thái di dân”. Trong thời Giáo hội sơ khai, nhóm Dothái
kiều ly tán đã góp phần vào việc truyền giáo
rất nhiều, họ đi đâu là mang Tin Mừng tới đó.[6]
Nhiệm vụ truyền
giáo/đối thoại thuộc về hết mọi phần tử của Nhiệm thể. Người di dân cũng phải
thi hành nhiệm vụ ấy trong sứ vụ tam diện của Đức Kitô Ngôn sứ, Linh mục và
Vương đế. Do đó cần xây dựng Giáo hội và làm cho Giáo hội được lớn lên trong và với di dân, hầu cùng nhau tái khám
phá và tỏ hiện các giá trị Kitô hữu, đồng thời hình thành một cộng đoàn bí tích
chân chính của đức tin, phụng vụ, đức ái và hy vọng.[7]
1.4. Ưu tư của Giáo hội
Giáo hội rất
quan tâm đến di dân là những người chịu nhiều thiệt thòi về nhiều mặt như xã
hội, gia đình, tâm lý... và tôn giáo. Giáo hội qua Huấn thị này mời gọi các
thành phần Dân Chúa dấn thân làm việc mục vụ cho người di dân:
Vì thế toàn thể Hội
Thánh trong quốc gia chủ nhà cần cảm thấy mình thật sự quan tâm và nhập cuộc để
lo cho di dân. Điều đó có nghĩa là các Giáo hội địa phương phải xét lại mục vụ
chăm sóc, lên chương trình thế nào để giúp các tín hữu sống đức tin cách chân
chính trong bối cảnh mới, đa văn hoá và đa tôn giáo ngày nay.[8]
2. Các Đức
giáo hoàng
2.1. Đức Phaolô VI
Đức Phaolô VI qua hai
văn kiện là Tự sắc Pastoralis
Migratorum Cura (Ban
hành 1969) và Huấn thị De Pastorali Migratorum Cura, đã đề cập tới trách nhiệm và
đường hướng mục vụ di dân.
2.2. Đức Gioan Phaolô II
2.3. Đức Benedictô
XVI
Tiếp bước các vị tiền
nhiệm, Đức Benedictô XVI cũng rất quan tâm đến những người di dân và hoàn cảnh
sống của họ. Ngài mời gọi người Kitô hữu niềm nở đón nhận anh chị em di dân như
chính Đức Kitô.
Đức Kitô xưa
kia, hơn ai hết, cũng là một người di dân khi mới lọt lòng mẹ. Ngài cũng mang
trong mình thân phận nay đây mai đó như “con chồn không có hang, chim trời
không có tổ”.
Cha hướng đặc biệt
tới các giáo xứ và các hiệp hội Công giáo đầy lòng tin tưởng và yêu mến, đang
bỏ rất nhiều công sức để đáp ứng các nhu cầu của anh chị em của chúng ta. Đang
lúc Cha bầy tỏ lòng biết ơn với tất cả mọi người đã làm các việc này với lòng
quảng đại lớn lao, Cha muốn mời mọi Kitô hữu hãy nhạy bén với những thách đố về
mục vụ và xã hội phát sinh ra trong hoàn cảnh người di dân và tị nạn vị thành
niên.
Lời của Chúa Giêsu
luôn vang vọng trong con tim của chúng ta: ‘Ta là khách lạ, các ngươi đã đón
tiếp’ (Mt 25,35), cũng giống như lệnh truyền trọng tâm mà Ngài đã để lại: Chúng
ta hãy yêu Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức, và hãy liên kết tình yêu này
với tình yêu thương đồng loại (x. Mt 22,37-39).
Điều này phải giúp
chúng ta nhận ra là bất kỳ một sự can thiệp cụ thể nào chúng ta làm cũng cần
được nuôi dưỡng trước tiên bởi đức tin, trong tác động của ân sủng và sự quan
phòng của Chúa. Sống như thế, lòng hiếu khách và sự liên đới với những anh chị
em xa lạ, nhất là với các trẻ em, trở thành sự công bố Tin Mừng về tình liên
đới. Giáo hội loan báo điều này khi Giáo hội mở rộng vòng tay và tranh đấu để
quyền lợi của người di dân và tị nạn được trân trọng, để thôi thúc các nhà lãnh
đạo các quốc gia, và những người có trách nhiệm trong các tổ chức và cơ chế
quốc tế nhằm cổ võ những đề xuất thích đáng nâng đỡ người di dân.[9]
Tất cả mối ưu
tư mục vụ của Giáo hội đều nhắm tới mỗi người và mọi người đang trên đường lữ
khách. Giáo huấn của Giáo hội đều nhắm tới con người là trọng tâm trong sứ mạng
của Giáo hội. “Những tuyên bố mới gần đây nhất của Giáo hoàng cũng đã nhấn mạnh
và mở rộng thêm tầm nhìn cũng như nhãn quan mục vụ về di dân, phù hợp với định
hướng: con người là con đường
của Hội thánh.”[10]
3. Thượng Hội
Đồng Giám Mục Á Châu
Châu Á là một
châu lục với nhiều tôn giáo lớn và cổ kính, tại lục địa này rất nhiều người
phải sống kiếp tha hương cầu thực. Cái nghèo và cái khổ, cái lầm lũi và cái
long đong đang đeo đuổi rất nhiều người tại châu lục đông dân số nhất thế giới
này. Làm sao Giáo hội có thể làm ngơ trước bao nhiêu thân phận của người Á Châu
đang chịu cảnh đói nghèo và dốt nát? Các nghị phụ Thượng Hội Đồng Giám Mục Á
Châu đã vạch ra những mặt tích cực và tiêu cực đối với hiện tượng di dân.
Các Nghị Phụ Thượng
hội đồng nói về những thay đổi nhanh chóng xảy ra trong các xã hội Á Châu và
nói về những khía cạnh tích cực và tiêu cực do những thay đổi đó mang lại.
Trong số đó có hiện tượng đô thị hoá và sự xuất hiện những khối đô thị khổng
lồ, thường có những khu vực rộng lớn gây ngã lòng, nơi mà các tội ác có tổ
chức, khủng bố, mại dâm và sự bóc lột những phần tử yếu kém hơn trong xã hội
đang lớn mạnh. Việc di dân cũng là hiện tượng lớn xã hội, đặt hàng triệu người
vào những hoàn cảnh khó khăn về mặt kinh tế, văn hoá và luân lý. Dân chúng di
cư nội trong khu vực Á Châu và từ Á Châu đến các lục địa khác vì nhiều lý do,
chẳng hạn nghèo đói, chiến tranh và xung đột sắc tộc, sự chối bỏ nhân quyền và
những quyền tự do cơ bản. Việc thiết lập những liên hiệp công nghiệp khổng lồ
là một lý do nữa của sự di dân nội và ngoại, kèm theo những hậu quả tàn phá đời
sống và các giá trị của gia đình.[11]
4. Công đồng
Vatican II
4.1. Di dân – một hiện tượng quan trọng
Ngày hôm nay
hơn bao giờ hết, hiện tượng di dân đang đặt ra nhiều thách đố cho xã hội cũng
như Giáo hội.
Các cộng đoàn cổ
truyền địa phương, như gia tộc, ‘thị tộc’, bộ lạc, xóm làng, các tập thể khác
và các liên hệ trong cộng đoàn xã hội đều thay đổi mỗi ngày mỗi sâu xa hơn.
Tổ chức xã hội theo
khuôn mẫu kỹ nghệ dần dần bành trướng, đưa một số quốc gia tới mức thịnh vượng
kinh tế và thay đổi tận gốc rễ những quan niệm và hoàn cảnh đời sống xã hội đã
cố định từ lâu đời. Sự ham chuộng theo đuổi đời sống thị thành cũng gia tăng,
vì các thành phố càng ngày càng mọc lên nhiều, dân cư càng ngày càng đông, và
vì cách sống thị thành đang lan rộng tới cả thôn quê (...).
Một hiện tượng không
kém quan trọng khác: biết bao người bởi nhiều lý do phải di cư, và vì di cư đã
thay đổi cả cách sống.[12]
4.2. Cần đảm bảo cuộc sống cho người di dân
Thành phần di
dân đóng góp vào việc phát triển cho xã hội tại địa phương rất nhiều, nhưng họ
lại không được hưởng những thành quả do công mình làm ra cho xứng đáng. Công
đồng mời gọi xã hội dân sự đảm bảo công bằng cho người di dân. Đó không những
là một đòi hỏi cần thiết, nhưng đó là một phận vụ công bằng của xã hội dân sự.
Sự di chuyển là điều
cần thiết đối với nền kinh tế đang phát triển, tuy nhiên, sự công bằng và quân
bình đòi hỏi phải tổ chức sự di chuyển ấy thế nào để đời sống cá nhân cũng như
gia đình không bị xáo trộn và bấp bênh. Những công nhân từ một quốc gia hay một
miền khác đến, cũng là những người góp công vào việc phát triển kinh tế của một
nước hay một miền, nên cần phải cố gắng tránh mọi dị biệt về điều kiện lương
bổng và việc làm. Hơn nữa, mọi người, nhất là chính quyền, phải coi họ như
những nhân vị, chứ không phải chỉ như những công cụ sản xuất; phải giúp đỡ để
họ có thể đưa gia đình đến và có thể kiếm được một nơi nương thân đàng hoàng;
cũng phải cho phép họ dễ dàng gia nhập đời sống xã hội của quốc gia hay miền
đất nào đón tiếp họ. Tuy nhiên, nếu có thể, nên tạo cho họ có công ăn việc làm
ngay tại nguyên quán của họ.[13]
4.3. Di dân góp phần vào
công cuộc truyền giáo
Để đáp ứng những nhu cầu nơi thành thị cũng như ở thôn quê, họ không chỉ
hạn hẹp sự cộng tác của mình trong giới hạn giáo xứ hay giáo phận nhưng họ cố
gắng mở rộng phạm vi tới cả các lãnh vực liên xứ, liên giáo phận, quốc gia hay
quốc tế. Hơn nữa, việc di dân mỗi ngày một nhiều, những mối tương giao gia
tăng, và việc giao thông dễ dàng đã không để một thành phần xã hội nào sống
đóng kín cho riêng mình. Vì thế người giáo dân phải quan tâm đến những nhu cầu
của dân Thiên Chúa ở rải rác trên khắp địa cầu. Nhất là họ phải coi những công
cuộc truyền giáo như việc của chính mình, bằng cách đóng góp về vật chất hay về
cả nhân sự. Vì chưng nhiệm vụ và vinh dự của người Kitô hữu là trả lại cho
Thiên Chúa phần của họ đã nhận nơi Ngài.[14]
4.4. Nhận thức những tác động của hiện tượng di dân
Hiện tượng di
dân tác động rất nhiều lên đời sống xã hội. Công đồng mời gọi ý thức tầm quan
trọng của hiện tượng này. Công đồng cũng đặc biệt kêu gọi các Kitô hữu ý thức
về hiện tượng di dân và nhận ra các tác động của nó lên đời sống con người.[15]
4.5. Quyền và phẩm giá của người di dân
Di dân cũng
là con người như ai khác, vì thế họ cũng có các quyền lợi và phẩm giá. Ngày
nay, giới di dân bị thua thiệt nhiều điều. Họ là người dễ bị bỏ quên. Họ là những
người dễ bị tổn thương. Họ là những người bị khinh mệt nhiều. Công đồng khẳng
định các quyền và phẩm giá của người di dân.[16]
4.6. Điều tiết dòng chảy di dân
Hiện tượng di
dân đang là vấn đề nóng của xã hội thời đại thông tin và toàn cầu hoá. Hiện
tượng di dân hầu như xảy ra khắp nơi. Xã hội nếu không điều tiết nổi dòng chảy
của hiện tượng này thì sự phát triển bền vững và ổn định chắc chắn sẽ khó mà
đạt được. Công đồng nhìn nhận những quyền hạn của công quyền trong việc điều
chỉnh dòng chảy di dân. Công đồng đánh giá cao quyền hạn của công quyền trong
việc điều tiết dòng chảy di dân để đảm bảo sự ổn định của cộng đồng quốc gia
cũng như quốc tế, của cá nhân cũng như tập thể.[17]
4.7. Cột mốc quan trọng cho mục vụ di dân
Sau chiến
tranh thế giới II, trật tự thế giới được sắp xếp lại. Cuộc sống của con người
xem ra dễ thở hơn, người ta có thể dễ dàng di chuyển từ nơi này đến nơi khác.
Hơn nữa, khoa học kỹ thuật phát triển làm cho công việc đi lại của con người
cũng dễ dàng và nhanh chóng hơn. Với bối cảnh xã hội như thế, Giáo hội qua Công
đồng Vatican II đã sớm nắm bắt được nhịp thay đổi của xã hội con người.
Như thế Công đồng
Vatican II đã là một cột mốc đáng nhớ của mục vụ chăm sóc di dân và người lữ
hành, khi nêu lên ý nghĩa quan trọng đặc biệt của tính di chuyển và công giáo,
của các Giáo hội địa phương, nhận thức về giáo xứ, và nhãn quan Hội thánh như
mầu nhiệm hiệp thông.[18]
5. Giáo Luật
5.1. Di dân là đối tượng chăm sóc của cha xứ
Bộ giáo luật
khẳng định và thể hiện mong muốn của Công đồng khi buộc các linh mục quản xứ
phải đặc biệt quan tâm tới những người sống xa quê hương.[19]
5.2. Một chọn lựa cần được ưu tiên
Giáo hội mong
muốn và đòi hỏi có những chăm sóc cho người di dân.[20]
5.3. Cần có mục vụ chuyên biệt cho di dân
Giáo luật
cũng tiên liệu thiết lập những tổ chức mục vụ chuyên biệt cho người di dân.[21]
6. Giáo hội
tại Việt Nam với Mục vụ Di dân
6.1. Đề cương chuẩn bị Năm Thánh 2010
- Một bận tâm trong dịp đặc biệt
Giáo hội tại
Việt Nam đang đối diện với một hiện tượng vừa mới mẻ, vừa phức tạp và cũng vừa
đa dạng. Di dân không đơn thuần là chuyện đi lại, công ăn việc làm hay nhà ở
nhưng còn liên quan đến nhiều khía cạnh khác của cuộc sống con người.
Đất nước cũng đang
chứng kiến sự bùng phát về di dân. Vì gặp thiên tai bão lụt thường xuyên, vì
không có việc làm và sinh sống khó khăn, nên nhiều người trẻ từ nông thôn đổ xô
vào các thành phố lớn để kiếm kế sinh nhai. Làn sóng di dân làm thay đổi nhanh
chóng khung cảnh sinh hoạt xã hội. Không những thế, môi trường sống cũng bắt
đầu phát sinh những vấn đề không nhỏ. Các đô thị trở nên quá tải đến độ nghẹt
thở; nhiều băng đảng nảy sinh từ tình trạng hỗn độn không được dự phòng và
không sao kiểm soát. Đất nước mở ngỏ có thể trở thành miếng mồi ngon cho buôn
bán ma túy, trẻ em và phụ nữ. Nếp sống buông thả dường như có khuynh hướng gia
tăng. Bạo lực cũng xảy ra thường hơn nơi những nhóm vị thành niên. Tệ nạn xã
hội cũng như ‘du lịch tình dục’ đang làm mất đi hình ảnh một xã hội Việt Nam
trong sáng đã từng là niềm tự hào của cả dân tộc. Vì thế, cùng với toàn cầu hoá
kinh tế, còn có thể nói tới một thứ toàn cầu hoá tội phạm, và Giáo hội chắc
chắn phải quan tâm nhiều hơn đến vấn đề đạo đức và luân lý trong tiến trình
toàn cầu hoá.[22]
- Hiện tượng di dân làm thay
đổi xã hội và Giáo hội
Làn sóng di dân tại
Việt Nam, trong nước cũng như ngoài nước, đang làm thay đổi bộ mặt đất nước,
tại cả nơi đi lẫn nơi đến. Một đàng chính những biến động xã hội đã tạo nên làn
sóng di dân từ nông thôn lên thành thị hoặc đi lao động tại nước ngoài; đàng
khác, tình trạng di dân lại tạo nên nhiều phức tạp về môi trường, xã hội, văn
hoá. Dù thế nào chăng nữa, trong tiến trình hội nhập, anh chị em di dân luôn
chịu nhiều áp lực về tâm lý, tình cảm, kinh tế, xã hội và cả trong đời sống
luân lý đức tin. Họ thật sự cần đến tình thương hiền mẫu của Giáo hội. Để làm
dịu đi những cơ cực của họ và để giúp họ sớm hội nhập vào xã hội cũng như cộng
đoàn Giáo hội địa phương, Hội đồng Giám mục Việt Nam nên đi đến sự thống nhất
về một số nguyên tắc và tiêu chuẩn trong phương sách mục vụ, nhất là mục vụ hôn
nhân và dự tòng. Đồng thời các Giáo hội địa phương tiếp nhận anh chị em di dân
cũng cần đề ra một kế hoạch để hội nhập họ vào trong sinh hoạt đức tin. Nhờ đó,
họ cảm nghiệm thật sự Giáo hội là mầu nhiệm hiệp thông, là mẹ hiền nâng đỡ, yêu
thương và là vị thầy hướng dẫn khôn ngoan.[23]
- Một cơ hội loan báo Tin Mừng
Công cuộc
loan báo Tin Mừng ngày hôm nay đang đòi hỏi nhiều nỗ lực của người tín hữu
trong bối cảnh đa phức của hiện tượng di dân. Di dân là một thách đố lớn, nhưng
đồng thời cũng là một cơ hội. Giáo hội khi gặp bắt bớ, các tín hữu bị phân tán
khắp nơi, khi họ tới đâu là mang Tin Mừng tới đó. Trong cái nhìn đức tin, di
dân là một hồng ân Thiên Chúa ban để Giáo hội có thể mang sứ điệp cứu độ ra
khỏi miền đất có truyền thống đức tin lâu đời đến nơi xa khác.
Lịch sử làm chứng
rằng việc di dân cũng mang theo nhiều cơ hội cho việc loan báo Tin Mừng. Được
chuẩn bị cách thích đáng, chính anh chị em di dân trở thành những nhà truyền
giáo tại nơi họ đến và làm cho cộng đoàn Giáo hội đón tiếp có khuôn mặt mới mẻ
hơn. Vì thế, chăm sóc mục vụ cho anh chị em di dân là trách vụ gắn liền với sứ
mạng truyền giáo, và cần được lưu tâm đặc biệt trong bối cảnh ngày nay.[24]
6.2. Hội nghị Toàn quốc về Mục vụ Di dân
Dưới đây là
bản đúc kết các ý kiến của Hội nghị Toàn quốc về Mục vụ Di dân diễn ra trong
hai ngày 08-09/01/2010 tại Học Viện Phan Sinh - Q.9 - TP.HCM do Uỷ ban Mục vụ
Di dân thuộc HĐGMVN tổ chức:
1/ Về hội nghị:
nhiều người tỏ ra ngạc nhiên, phấn khởi, vui mừng vì hội nghị được triệu tập.
Có rất nhiều kỳ vọng nhiều vào kết quả hội nghị. Có nhiều ý kiến mong được
triển khai sau Hội nghị, chẳng hạn như nên tổ chức hội nghị thường xuyên hơn,
có thể là hàng năm hay ít là 02 năm một lần.
2/ Mục vụ di dân
trong tình hình hiện nay là quá cần thiết và cấp bách. Phải làm ngay không thể
chần chừ, vì lợi ích các linh hồn.
3/ Mong
UBMVDD/HĐGMVN sớm ra những hướng dẫn cụ thể để ứng dụng toàn quốc, cần tạo
thông tin liên lạc tốt hơn.
4/ Mọi người đều
nhận ra Giáo hội phải quan tâm tới lãnh vực mục vụ di dân vì chính bản chất mục
tử và truyền giáo của mình. Tầm cỡ và sự quan trọng của hiện tượng di dân tại
Việt Nam và trên thế giới là điều không thể chối cãi. Có điều ý thức thì lại
chưa đồng bộ.
5/ Lý do cần có
sự cộng tác chăt chẽ giữa các Giáo hội xuất phát và Giáo hội tiếp nhận là quá
rõ: chính vì lợi ích thiêng liêng của người di dân. Một nơi đã quen biết họ,
nhất là trong các biểu hiện cuộc sống đức tin, nơi kia đang phải nâng đỡ đức
tin của họ gặp hiểm nghèo.
6/ Có sự khác biệt sâu sắc về mục vụ di dân giữa nơi xuất
phát và nơi tiếp nhận.
* Nơi xuất
phát phải giúp di dân chuẩn bị đối phó với tình thế sống đạo mới. Chăm sóc
những người ở lại cách đặc biệt vì nhiều khó khăn tinh thần có thể xảy ra. Tiếp
nhận và thông cảm với họ khi trở về. Giúp họ tái hội nhập.
* Nơi tiếp nhận: rộng
lượng tiếp nhận và nâng đỡ họ về mọi mặt. Giúp họ hội nhập. Tạo cho họ có dịp
phát huy truyền thống đức tin của họ.
7/ Trong tình hình hiện nay của Giáo hội Việt Nam các vấn đề
cấp thiết nhất của mục vụ di dân là:
* Thoát khỏi
não trạng cục bộ trong mục vụ. Cần thông tin và liên kết.
* Các chủ
chăn cấp giáo phận và giáo xứ cần nắm bắt tình hình qua hiểu biết tình hình và
thống kê chính xác.
* Cụ thể cần
sớm có một ‘Cẩm nang Mục vụ Di dân’ áp dụng trên toàn quốc được mọi giáo phận
chấp nhận. Cẩm nang chứa đựng các nét chính về giáo lý di dân, các qui định về
mục vụ và quản lý di dân, các hướng dẫn thống nhất về cử hành bí tích, đặc biệt
là hôn phối…
* Cũng cần
sớm thiết lập ‘văn phòng’ hoặc ‘ủy ban’ di dân cấp giáo phận hoặc giáo xứ có
đông di dân.
* Cũng cần
sớm thực hiện việc cấp thẻ di dân là phương tiện quản lý và theo dõi rất hữu
hiệu. Cũng cần thống nhất các thủ tục giấy tờ.
8/ Công tác gây nhận thức về tầm quan trọng của mục vụ di
dân là rất lớn: bắt đầu từ các cấp lãnh đạo là các giám mục, bề trên dòng và các
linh mục quản xứ. Các khóa đào tạo về mục vụ di dân là rất cấp thiết, cần dành
ưu tiên, đặc biệt là các chủng sinh và các tu sĩ trẻ. Cần sớm phổ biến các kế
hoạch mục vụ di dân tới các cấp Cộng đoàn Dân Chúa.
9/ Nên soạn một cuốn giáo lý thích hợp hơn cho di dân trong
đó các khía cạnh tông đồ, truyền giáo, hội nhập văn hóa và đối thoại liên tôn
cũng được đề cập tới.[25]
Tạm kết
Giáo hội lấy
con người là con đường phải đi qua. Tất cả mọi nỗ lực của Giáo hội là vì con
người. Con người là trung tâm của mọi ưu tư và mục vụ của Giáo hội. Giáo hội
hoàn vũ đã có đường hướng mục vụ cụ thể cho người di dân. “Không chỉ những qui
định của giáo luật, mà nếu học hỏi cách nghiêm túc các tài liệu và hướng dẫn về
di dân đã được Giáo hội ban hành cho đến nay, ta sẽ thấy sáng tỏ những khám phá
thần học và mục vụ quan trọng tới nay đã đạt được. Đó là: vị trí trung tâm của
con người và việc bảo vệ quyền của người di dân, bất luận nam nữ, và con cái
họ; chiều kích Giáo hội và truyền giáo của di dân; giá trị của việc tông đồ
giáo dân; giá trị của văn hoá trong công tác phúc âm hoá; bảo vệ và tôn trọng
của việc đối thoại trong và ngoài Giáo hội; đóng góp độc đáo của di dân cho nền
hoà bình thế giới. Các tài liệu này cũng nói lên chiều kích mục vụ trong công
tác phục vụ di dân.”[26]
Còn Giáo hội
tại Việt Nam thì sao? Giáo hội tại Việt Nam trong những năm qua đã nỗ lực rất
nhiều trong vấn đề chăm sóc mục vụ cho người di dân. Nhưng những cố gắng đó chỉ
là bước khởi đầu dò dẫm tìm tòi, chưa đi tới đâu cả, khả năng đáp ứng so với
nhu câu thực tế đang còn rất khiêm tốn. Giáo hội phải làm thế nào để nắm bắt
được nhịp thay đổi của xã hội ngõ hầu thích nghi với công việc mục vụ trong
hoàn cảnh mới? Giáo hội tại Việt Nam đã có những thống kê về khả năng chăm sóc
mục vụ cho người di dân chưa? Bao nhiêu người Công Giáo phải rời bỏ quê hương
để đi tìm kiếm việc làm hay học tập? Họ rời quê nhà, ai sẽ lo cho đời sống đức
tin của họ? Có bao nhiêu người, vì phải sống cảnh nay đây mai đó, đã đánh mất
đức tin? Những người trẻ Công Giáo khi sống trong một môi trường phức tạp và
đầy cạm bẫy, có bao nhiêu người sống trong tình trạng rối hay sống thử? Các vị
mục tử có quan tâm đủ đến các con chiên xa đàn của mình không? Giáo hội gốc đã
chuẩn bị gì cho con chiên của mình trước khi họ rời quê đi xa? Giáo hội tiếp nhận
đã sẵn sàng đón tiếp người di dân với lòng trắc ẩn của Đức Giêsu trước cảnh dân
chúng lầm than không người chăn dắt?
Hiện tượng di
dân là một vấn đề rất quan trọng, nhưng trong thực tế thì rất nhiều người trong
Giáo hội tại Việt Nam lại chưa quan tâm đúng mức, thậm chí có nhiều vị mục tử
coi chuyện di dân như là chuyện tốn công phí thời gian, là chuyện của người ta
chứ không phải là chuyện của mình! Năm Đức Tin là dịp để đưa vấn đề di dân lên
đúng tầm mức của nó, qua đó, mỗi người sẽ nhận ra được những tác động của hiện
tượng đa phức này. Xin mượn lời của một tham dự viên Đại Hội Toàn Quốc về Mục
Vụ Di Dân để nói thay cho những ưu tư và thao thức của người viết: “Giáo hội
nói chung và mỗi Giáo hội địa phương nói riêng (Giáo hội gốc, nơi người di dân
xuất phát lẫn Giáo hội nơi tiếp nhận), qua huấn thị Erga Migrantes, đều được mời
gọi cảm thấy có liên quan tới và phải dấn thân cho di dân, và giúp mọi thành
phần Dân Chúa trong Giáo hội nhận ra tính phức tạp của vấn đề di dân, và chống
lại các ngờ vực vô căn cớ cũng như những thành kiến chống lại các ngoại kiều.
Chúng ta không thể đáp ứng lại lời mời gọi này, nếu không cùng một thao thức
quan tâm với Giáo hội, không cùng một nhịp đập với ‘con tim chạnh lòng thương
của Chúa’ nơi các Đấng thay mặt Chúa đã góp phần tạo ra Huấn thị Erga Migrantes Caritas Christi -
Tình Yêu Đức Kitô dành cho Di dân. [27]
[1] Hội đồng Giáo hoàng về Mục vụ Di dân, Erga Migrantes Caritas Christi – Tình yêu Đức Kitô
dành cho Di dân (Bản
dịch Việt ngữ của Uỷ ban Mục vụ Di dân – Hội đồng Giám mục Việt Nam), số 14.
[6] Xc. Cv
[18] Hội đồng Giáo hoàng về Mục vụ Di dân, Erga Migrantes Caritas Christi – Tình yêu Đức Kitô
dành cho Di dân (Bản
dịch Việt ngữ của Uỷ ban Mục vụ Di dân – Hội đồng Giám mục Việt Nam), số 22.
[21] Sđd, 294; xin coi thêm: Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, Giáo hội tại
Mỹ Châu, số 65;Giáo hội tại Âu Châu, số 103.
[22] Hội đồng Giám mục Việt Nam, Đề cương Giáo hội tại Việt Nam: Mầu nhiệm – Hiệp
thông – Sứ vụ, Ban
tổ chức Năm Thánh 2010, tháng 10/2008, số 4d.
Đăng nhận xét