Đức Tin Thời Di Dân

Người di dân Việt Nam hiện nay
phần lớn là di dân vì lý do kinh tế.
Nỗi lo lắng về cuộc sống
chiếm hết những sức lực, thời giờ, quan tâm của họ.
Do đó, sự chểnh mảng về đời sống đức Tin
cũng là tình trạng phổ biến…
Sự kiện này buộc Giáo hội Việt Nam
phải nhìn lại phẩm chất đức Tin của mình.

Giuse Nguyễn Trọng Viễn, OP.


1. Đức tin trong tầm mức toàn cầu

Thế giới toàn cầu hoá, đó là một thực trạng, một thực trạng đang từng bước xác lập vị trí của nó. Toàn cầu hoá đang hiện thực trong lãnh vực thông tin, trong lãnh vực văn hoá, trong lãnh vực kinh tế, trong lãnh vực chính trị...;
và dĩ nhiên cả trong lãnh vực đức tin. Người Kitô hữu không thể nào không đón nhận thực trạng khách quan ấy, và đón nhận cả những biến động liên quan đến phẩm chất đức tin của mình.
Di dân là chuyện muôn thuở. Đó là tình trạng một người hoặc một nhóm người phải di chuyển chỗ ở của mình đến một môi trường khác; di dân vì rất nhiều lý do, lý do chiến tranh, lý do kinh tế, lý do tôn giáo, lý do chính trị... Tuy nhiên, ngày hôm nay, thực trạng di dân lại nằm trong vấn đề toàn cầu hoá nói chung, và đó là một hiện thực rộng lớn có nhiều ảnh hưởng trên mọi lãnh vực. Ngày xưa, cha ông ta căn dặn đúng đắn rằng: “an cư lạc nghiệp”. Cần phải ổn định chỗ ở trước thì mới có thể ổn định việc làm được. Hiện nay chân lý đó không còn hoàn toàn đúng nữa. Với nhiều người, thứ tự tầm quan trọng đã đảo ngược, cần “lạc nghiệp” trước rồi mới “an cư”; nghĩa là ngày nay, chuyện quan trọng hơn cả là tìm được việc làm, việc làm ở đâu thì ta sắp xếp chỗ ở theo đó, chứ không phải mua nhà, đóng chốt ở nhà rồi tìm việc làm quanh quẩn xung quanh chỗ ở của mình... Thực tế đó càng ngày càng lan rộng; càng ngày càng có nhiều người trở thành di dân... thực tế đó tạo nên một sự xáo trộn lớn trong mọi xã hội hôm nay.
Điều kèm theo tình trạng di dân là sự xuất hiện càng ngày càng rõ rệt hơn một thế giới pha trộn, cào bằng... Thế giới phẳng, đó là lời tiên tiên báo của Thomas Friedman. Những biến động trong vấn đề di dân cũng là những bước đi đến một thế giới phẳng. Diễn biến của vấn đề di dân được cắt nghĩa theo qui luật cân bằng giữa trung tâm của ngoại biên, theo đó, trung tâm luôn là cột trụ để đón nhận để hoá giải và tìm ra những thích nghi hợp lý trong mối tương tác với ngoại biên. Khi di dân là một hiện tượng bình thường và tương đối ít so với khối dân định cư, thì, bên cạnh yếu yếu tố tiêu cực luôn luôn có, di dân cũng có thể mang lại những giá trị tích cực. Tuy nhiên, khi di dân lại là một tình trạng càng ngày càng trở nên tình trạng chung, hoặc liên quan đến phần lớn con người thì những giá trị truyền thống, những nền văn hoá truyền thống chắc chắn sẽ bị đặt lại vấn đề, thậm chí bị đảo lộn. Khi đó sẽ xuất hiện những thách đố nghiêm trọng, có thể tốt mà cũng có thể là một sự tàn phá. Di dân trong xu thế toàn cầu hoá lại đưa tới tình trạng ngoại biên có sức tác động rộng lớn và mạnh mẽ, đến độ có khả năng xác lập một thế giới phẳng, có nhiều khả năng phá đổ những truyền thống của cái trung tâm[1].
Trong bầu không khí ấy, chắc chắn những yếu tố quen thuộc của đời sống đức Tin Kitô giáo cũng không thể thoát khỏi những tương tác, tiêu cực hay tích cực của tình trạng di dân. Chẳng hạn các giáo xứ truyền thống, nề nếp sẽ khó chấp nhận được tình trạng lôn xộn về giấy tờ, về hôn nhân, ma chay; chẳng hạn vấn đề những luật lệ của Giáo hội gắn với lãnh địa của giáo phận, giáo xứ...
Mặt khác, tâm trạng của người di dân là thích nghi, một thứ thích nghi nhằm ưu tiên cho mục tiêu lợi ích trước mắt chứ không phải thứ thích nghi như một sự thông hiệp các giá trị. Thái độ thích nghi bên ngoài ấy sẽ đặt dần dần phá đổ những giá trị truyền thống hoặc gạt bỏ những tâm tình thân thương bên trong. Người thích nghi, một cách nào đó, chọn lập trường “bán anh em xa mua láng giềng gần”. Khuynh hướng này sẽ đặt lại vấn đề tất cả mọi sự, đặt lại giá trị, đặt lại ý nghĩa, đặc biệt là duyệt xét lại theo tiêu chuẩn lợi ích thực dụng. Điều đó sẽ khiến cho nhiều vấn đề, nhiều cách suy nghĩ, nhiều truyền thống phải đối diện với một “thử nghiệm” mới…

2. Dưới ánh sáng đức tin

Có lẽ nhiều vị hữu trách và cả nhiều người Kitô hữu chỉ nhận thấy những rắc rối cụ thể trước tình trạng di dân. Ở Sàigòn chẳng hạn, những ngày lễ nghỉ, ngày Tết, khi mà di dân trở về quê, thành phố tìm lại được khung cảnh êm ả, thông thoáng và người dân thành phố thoát được cảm giác ngại ngần, khổ sở mỗi khi dắt xe ra khỏi nhà. Rồi khi mà những ngày lễ nghỉ đang qua đi, di dân trở lại mỗi ngày mỗi tấp nập, người dân Sàigòn lại sẽ cảm giác như đếm từng ngày mất đi sự thanh thản ấy; từng ngày thêm ngại phải đối diện với đường phố trở lại tình trạng chật chội, đầy bụi bậm và ngột ngạt khói xe; và người đi đường lại phải bước vào cuộc chiến trường kỳ … cuộc chiến trước mỗi ngã tư, mỗi vòng xoay, cuộc chiến khi gặp lô cốt, cuộc chiến vào mỗi giờ cao điểm…và cuộc chiến với tâm trạng bực bội vì những kẻ đi ẩu, sai tuyến, lấn đường, những kẻ giành giựt từng mét đường hơn thua khi kẹt xe; cuộc chiến trong các bãi giữ xe, trong con hẻm nhỏ…. Những cảm giác đó, rất thật và tái đi tái lại, khiến cho người ta chỉ thấy tình trạng di dân như một sự kiện rắc rối, gây căng thẳng, tạo phiền muộn cho cuộc sống.
Thế nhưng Giáo hội lại cho chúng ta thấy tình trạng di dân là một dấu chỉ thời đại; một dấu chỉ có thật nhiều ý nghĩa dưới ánh sáng đức Tin. Văn kiện “Tình yêu đức Kitô dành cho di dân”[2] cho chúng ta thấy cách nhìn của đức tin và cách nhìn này giúp ta đón nhận vấn đề di dân không phải theo những cảm quan tự nhiên, cũng không phải chỉ như một tình huống cụ thể cần giải quyết, nhưng có khả năng hé lộ những phẩm tính có thể giúp cho đời sống đức tin của người Kitô hữu nói chung được chân chính và phong phú hơn. Đức Benedicto XVI, trong sư điệp ngày quốc tế di dân thứ 99 đã nói :
Họ (di dân) cũng sẽ là những chứng nhân cho đức tin, một sự làm chứng mang lại một nguồn năng lượng và một sức sống mới cho các cộng đoàn Ki-tô hữu truyền thống, đồng thời mời gọi người khác gặp gỡ Đức Kitô và tiến tới việc biết đến Giáo hội.
2.1 Tính lữ hành của đức tin
Điều khá kỳ cục mà con người chúng ta thường hay vấp phải, đó là thái độ không biết nhìn lại bản thân mình. Lấy khung cảnh của thành phố Sàigòn chẳng hạn, ta thấy có những người “bắc kỳ 54” tỏ ra khó chịu vì làn sóng di dân của những người “bắc kỳ 75” mà không hề nghĩ rằng, cách đây mấy chục năm, chính mình cũng đã từng là di dân và cũng gây không ít khó khăn cho người dân “nam kỳ”. Cũng vậy, chắc hẳn có những người dân “nam kỳ” đã khó chịu vì những làm sóng di dân 54 và 75 mà không hề nhớ rằng cách đây mấy trăm năm, chính cha ông mình cũng từng là những người di dân như vậy. Có những người chỉ mới định cư ở nơi nào đó năm bẩy năm lại quên đi gốc gác của mình để rồi tỏ ra bực mình với những người đến sau mình một thời gian chẳng bao lâu… Với một tầm nhìn lịch sử, ta thử điểm lại xem có mấy ai lại không phải là di dân, đã từng mong ước được người khác đón nhận; thế mà chính những người được đón nhận ấy lại không muốn đón nhận những anh chị em khác có cùng hoàn cảnh như mình…
Sách Thánh nhắc nhở người dân Israen :
 “Anh em phải yêu thương ngoại kiều, vì anh em đã từng là ngoại kiều ở đất Ai-cập” (Dnl 10,19).
Lời nhắc nhủ đó cũng đúng với mỗi người Kitô hữu Việt Nam hôm nay. Không phải chỉ như một bài học luân lý, nhưng còn là một bài học về đức Tin. Chính những anh chị em di dân sẽ nhắc nhở người Kitô hữu về thực trạng của mình, về ý nghĩa của hành trình đức Tin mà Chúa đã dẫn dắt gia tộc, gia đình và bản thân mình. Hơn nữa, trong khung cảnh lịch sử ơn cứu độ, hiện tượng di dân cần phải đưa lòng trí người Kitô hữu về một thực trạng sâu xa hơn nhiều. Cuộc đời con người là một cuộc lữ hành, không ai là kẻ “định cư vĩnh viễn” ở trần gian này. Trịnh Công Sơn diễn tả ý nghĩa đó trong bài hát khá thú vị “ Ở Trọ” :
“1/ Con chim ở đậu cành tre. 
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn……
Tôi nay ở trọ trần gian
Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời …
(…)
5/ Trăm năm ở đậu ngàn năm 
Đêm tối ở trọ chung quanh nỗi buồn …
Ô hay là một vòng xinh 
Tôi như người bỗng lênh đênh giữa đời …”
Cũng như người ta mau quên thân phận di dân của mình, của cha ông mình, thì người ta lại càng dễ quên hơn nữa thực trạng “ở trọ trần gian” của mình. Nếu biết thông cảm với anh chị em di dân, biết suy gẫm từ những dấu chỉ của thời đại, người Kitô hữu sẽ có cơ may hiểu ra ý nghĩa sâu xa “cuộc lữ hành đức Tin” của đời mình. Thực sự khung cảnh nền tảng của ơn cứu độ chính là một cuộc lữ hành. Tất cả ý nghĩa của ơn cứu độ trong Sách Thánh đều diễn ra trong khung cảnh lịch sử, và đó là lịch sử của một Dân lữ hành. Ý nghĩa đó thật căn bản, thiết yếu đến độ, dưới ánh sáng công đồng Vatican II, sống đức Tin thiết yếu là sống lịch sử đời thường của mình như một lịch sử ơn cứu độ.
Khi Thiên Chúa muốn khởi đầu nhiệm cục cứu độ, Ngài đã chọn Abrahaham, và đưa dẫn ông vào một hành trình đức Tin qua một cuộc “xuất hành” để trở thành một người di dân trong đức tin. Hành trình đó kéo dài suốt lịch sử ơn cứu độ :
 Nhờ đức tin, ông Áp-ra-ham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp, và ông đã ra đi mà không biết mình đi đâu. Nhờ đức tin, ông đã tới cư ngụ tại Đất Hứa như tại một nơi đất khách, ông sống trong lều cũng như ông I-xa-ác và ông Gia-cóp là những người đồng thừa kế cũng một lời hứa,  vì ông trông đợi một thành có nền móng do chính Thiên Chúa vẽ mẫu và xây dựng. (…) Tất cả các ngài đã chết, lúc vẫn còn tin như vậy, mặc dù chưa được hưởng các điều Thiên Chúa hứa ; nhưng từ xa các ngài đã thấy và đón chào các điều ấy, cùng xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách trên mặt đất. (…) Nhưng thực ra các ngài mong ước một quê hương tốt đẹp hơn, đó là quê hương trên trời. Bởi vậy, Thiên Chúa đã không hổ thẹn để cho các ngài gọi mình là Thiên Chúa của các ngài, vì Người đã chuẩn bị một thành cho các ngài (Dt 11, 8-10, 13.16… ).
Tính cách lữ hành có thể mở ra chân trời đích thực của đức Tin. Đức Tin đưa người tín hữu vào một cuộc hành trình, mời gọi một tấm lòng tha thiết mong chờ một quê hương, mong chờ “đất hứa”; rồi từ đó mà hiểu ra quê hương đích thực ở trên trời. người Kitô hữu không phải là người khinh chê trần gian, nhưng là người không bám rễ vào trần gian. Người Kitô hữu trân trọng và khám phá những hạt men của Nước Trời trong trần gian; và không để lòng mình ra mê muội để đắm đuối trong những thực tại giới hạn của trần gian. Như thế, đời sống đức Tin gắn liền thiết yếu với một phẩm tính lữ hành và thái độ thiết yếu của người tín hữu là sống tâm trạng bấp bênh giữa trần gian… Tình trạng bấp bênh là dấu chỉ về tính mỏng dòn của thực tại trần gian mà người Kitô hữu không bao giờ được bỏ quên. Huấn thị Tình yêu Đức Kitô dành cho di dân viết :
Đức tin nhận ra nơi di dân cuộc hành trình của các Tổ phụ, dựa vào lời hứa, đang di chuyển tới đất tổ tương lai, và dân Hipri sau khi thoát khỏi kiếp nô lệ, hành trình Exodus vượt qua Biển Đỏ để trở thành Dân của Giao ước. Hơn nữa, đức tin nhìn thấy nơi di dân một cuộc lưu đầy, trong đó mọi mục tiêu đạt được thực tế chỉ là tương đối (số 13.)
Chính khi tìm lại một cảm nhận rõ rệt về tính lữ hành của Giáo hội, người Kitô hữu mới có thể, cùng với Công đồng Vatican II, tìm lại được ý nghĩa của đức Cậy. Đức Cậy không còn chỉ là trông cậy được vào Nước Thiên đàng mai sau, mà còn là có Chúa đồng hành trên hành trình trần gian. Đức tin thiết yếu là tin-cậy; vì đức cậy mang lại “da thịt”, mang lại ý nghĩa “thật”  cho sự sống đức tin. Kitô giáo không phải là một thế giới bay bổng, cao xa ở trên mây, nhưng là đón nhận tất cả mọi biến cố, đảm nhận mọi thách đố của cuộc sống này, và xử lý chúng trong nhãn giới đức tin. Sống đức tin thiết yếu là sống lịch sử đời thường của mình như một lịch sử ơn cứu độ; và lịch sử ấy luôn nhắc nhớ về niềm hy vọng Nước Trời.
Hơn nữa, tính cách lữ hành còn bao hàm một ý nghĩa quan trọng, theo đó, con người không phải là kẻ có thể hoàn thành vận mạnh đời mình bằng cái-gì (nơi chốn chẳng hạn) nhưng luôn luôn là hành trình thể hiện khát vọng sống với-ai. Thái độ “hiếu khách” là một lựa chọn con người thay vì sự vật; lựa chọn ưu tiên cho tình nghĩa hơn là sự an ổn; lựa chọn có khả năng giải gỡ khuynh hướng ích kỷ nằm sâu trong mỗi người. “Hiếu khách” cũng là một đường nét trong linh đạo của lịch sử ơn cứu độ. Văn kiện “Tình Yêu Chúa Kitô dành cho di dân” viết:
Theo Đức Kitô có nghĩa là dõi theo bước ngài để trở thành quá cảnh trong thế giới, bởi vì “trên đời này chúng ta không có thành trì bền vững” (DT 13:14). Tín hữu luôn mãi là paroikos, người tạm cư, khách trọ ở bất cứ đâu (cf. 1Pr 1:1; 2:11; Ga 17:14-16). Điều đó có nghĩa là đối với Kitô hữu nơi chốn cư trú không thật sự quan trọng, trong khi tính hiếu khách lại phải là điều tự nhiên nơi họ (Huấn thị, Sdd, s. 16).
2.3 Tính phổ quát
Giáo hội mang đặc tính công giáo, đó là một trong bốn phẩm tính căn bản. Phẩm tính ấy, trước tiên, không phải là một sự nối kết bên ngoài nhưng là phẩm chất của chính sự sống đức Tin. Sự liên kết bên ngoài của một giáo xứ với giáo phận, với Giáo hội toàn cầu là hệ quả của phẩm chất công giáo trong chính sự sống đức Tin. Một giáo xứ, trong ý nghĩa thần học, chính là Giáo hội toàn cầu đang hiện diện tại giáo xứ. Từ phẩm chất “bên trong” của sự sống ấy, đời sống kitô giáo luôn phải thể hiện tính “công giáo”, nghĩa là luôn phải có khả năng mở ra với thế giới, mở ra cho mọi người. Người Kitô hữu không thể sống đức tin chân chính mà lại không liên đới với anh chị em của mình. Một giáo xứ không thể chỉ gắn bó với giáo phận và Giáo hội toàn cầu mà lại không rộng mở với những người Kitô hữu di dân đang sống bên cạnh mình. Sự sống của giáo xứ mang phẩm chất giáo hội toàn cầu ấy thiết yếu phải đón nhận mọi anh chị em của mình đến từ khắp phương trời.
Quả thật, khi đối diện với tình trạng di dân, mỗi người Kitô hữu, mỗi giáo xứ và giáo phận sẽ được chất vấn về tính công giáo của mình; sẽ phải “trả lời” bằng việc tuyên xưng phẩm tính công giáo trong thái độ của mình. Hiến chế tín lý về Hội thánh nói :
Như vậy, mọi người đều được mời gọi vào sự hợp nhất mang tính công giáo này của Dân Thiên Chúa, sự hợp nhất tiên báo và làm tăng tiến nền hoà bình trên khắp thế giới, và các tín hữu công giáo, những ai tin vào Đức Kitô, và kể cả toàn thể nhân loại đều đang thuộc về hay đang hướng tới sự hợp nhất đó theo những cách thức khác nhau, vì tất cả mọi người đều được mời gọi lãnh nhận ơn cứu độ nhờ vào ân sủng của Thiên Chúa (GH 13).
Giáo hội là Dân Thiên Chúa, đi qua dòng lịch sử, tiến về ngày Cách Chung. Hành trình ấy cũng là hành trình thu họp mọi dân trở nên một Dân duy nhất là Giáo hội Chúa Kitô. Một giáo xứ hoặc giáo phận truyền thống dễ tạo nên tình trạng đóng chốt, đưa đến thái độ cục bộ và chỉ bằng lòng với một sự hiệp nhất bên ngoài, hiệp nhất như là “bỏ tất cả những thứ hổ lốn vào một bao bì”. Ngược lại, tình trạng di dân sẽ có khả năng đưa người Kitô hữu vào một hành trình, gỡ mình ra khỏi mọi thứ ổn định, an toàn; giúp khám phá lại phẩm chất công giáo bên trong, để sống mầu nhiệm Giáo hội như một hành trình thu họp muôn dân, hướng tới một Giáo hội duy nhất của đức Kitô đang hình thành trong dòng lịch sử.

3. Vài vấn đề cụ thể trong phẩm chất đức Tin

3.1 “Đạo tại tâm” hay “đạo sinh hoạt”
Trong tình trạng di dân, khi mà nề nếp sống đạo không còn được sự hỗ trợ của hoàn cảnh bên ngoài nữa; đồng thời lại có nhiều khó khăn trong vấn đề tài chính, người ta sẽ đối diện với một vấn đề cụ thể : “đạo tại tâm” hay “đạo sinh hoạt”. Người Kitô hữu có thiết yếu cần phải đi lễ, cần phải tham dự phụng vụ chung với giáo xứ hay chỉ cần “có lòng” với Chúa, chỉ cần tin vào Chúa là được ?
Từ trong Cựu ước, Thiên Chúa giáo đã vượt qua thứ đạo thuần tuý là hình thức bên ngoài. Điều răn thứ Hai cấm người Dân giao tiếp với Chúa bằng những công thức bùa chú hoàn toàn có tính ma thuật bên ngoài. Xưa kia, người tín hữu thờ các thần không phải vì kính yêu chính bản thân của vị thần, mà chỉ muốn lợi dụng sức mạnh của vị thần. Khi đó, người ta cần tìm một công thức bùa chú, thường bao gồm tên của thần, để đọc lên một cách máy móc, nhằm để bắt ép thần thực hiện yêu cầu của mình. Mười điều răn của giao ước trên núi Xi nai là một đòi hỏi của một cấp độ tôn giáo khác, vượt qua cấp độ của những thứ tôn giáo “giành giựt”. Mười điều răn của giao ước bao hàm trong ý nghĩa căn bản của điều răn thứ nhất : thờ phượng và kính mến Chúa trên hết mọi sự… Đồng thời, điều răn này cũng loại bỏ một thứ đạo thuần tuý tâm với điều răn thứ ba : “Ngươi hãy nhớ ngày Sa-bát mà coi đó là ngày thánh…” (Xh 20,8). Điều răn thư Ba đòi buộc phải diễn tả đức tin. Đức tin cần được diễn tả, cần được biểu lộ một cách hữu hình (với Kitô giáo, cần được biểu lộ khi có điều kiện). Như thế, điều răn thứ Nhất, thờ phượng và kính mến Chúa trên hết mọi sự, vừa không cho phép người Dân biến tôn giáo thành một thứ đạo sinh hoạt thuần túy, lại cũng không cho phép người tín hữu thu mình vào một thứ đạo tại tâm. Đức Tin khởi đi từ trong “tâm”, những đồng thời phải được biểu lộ trong sinh hoạt; đó mới là nếp sống đức tin chân chính. Truyền thống ấy bao gồm những đường nét căn bản của đức tin mà Tân Ước hoàn trọn chứ không hề phá bỏ.
Trong tình hình hiện nay, chắc chắn nề nếp đức tin ở các giáo xứ truyền thống có phần nghiêng ngả nhiều về đạo sinh hoạt; và ta có thể thấy rằng những nơi nào có khuynh hướng biến đạo Chúa thành đạo sinh hoạt sẽ khó có thể vượt qua được những xáo trộn do tình trạng di dân. Một khi quá nhấn mạnh đến những điều kiện bên ngoài của một tổ chức có nhiều tính sinh hoạt, thì một cách ngược lại, các giáo xứ ấy sẽ dễ đẩy người tín hữu di dân, hoặc là bỏ đạo, hoặc nếu còn một chút lương tâm nhà đạo, sẽ phải chọn lập trường thuần tuý đạo tại tâm.
3.2 Đạo cho chiên ngoan hay đạo cho chiên lạc ?
Một nghịch lý khác của Tin Mừng cũng lộ ra trong tình trạng di dân hiện nay, đó là tình trạng biến Kitô giáo thành đạo cho chiên ngoan, trong khi mà chủ đích của đức Giêsu thì đã quá rõ ràng :
Đức Giê-su nói : "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Hãy về học cho biết ý nghĩa của câu này : 'Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế’. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi." (Mt 9, 12-13)
Môi trường hoạt động của đức Giêsu không phải nơi những người đạo đức, những người pharisêu, sa đốc, nhưng là những người nghèo, những người tội lỗi, những người bệnh tật đau khổ cách này cách khác. Nếu đức Giêsu chọn những “con chiên ngoan” là những người đạo đức thời đó, thì có lẽ đích điểm của hành trình trần gian của ngài không phải là thập giá mà là ngai vàng. Chỉ cần trở nên một đấng Mêsia của những người danh giá đạo đức thời đó, cuộc đời của ngài đã “lên hương” rồi…
Kitô giáo một khi từ bỏ những con chiên ghẻ, chắc chắn sẽ bị biến chất, sẽ biến Kitô giáo thành con đường của những người ưu tuyển như các tôn giáo và triết học khác. Nhưng chính nơi những người nghèo mà đức Giêsu đã tỏ bày nổi bật phẩm tính cao quý nhất của Giavê Thiên Chúa, phẩm tính lòng thương xót. Điều này quan trọng, hết sức quan trọng, đến độ chỉ người nào nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa thể hiện nơi con người Giêsu thì mới nhận ra ngài chính là Đấng Mêsia được Thiên Chúa hứa.
Đồng thời, khi trở thành đạo của chiên ngoan, thì Kitô giáo sẽ biến đạo cứu độ trở thành đạo luân lý; nghĩa là thay vì công bố lời yêu thương của Chúa, những hành động cứu độ của Chúa, thì Kitô giáo chỉ còn biết nhắc đi nhắc lại những việc con người phải làm, những thái độ của con người phải sống. Dĩ nhiên, ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ biến đổi con người, nhưng tình yêu và ơn sủng của Chúa đi bước trước, thông ban một cách quảng đại cho con người. Một khi ai đó biết lãnh nhận với lòng tri ân, thì đời sống luân lý sẽ được thay đổi. Ở đẳng cấp này, hành vi luân lý của con người không còn phải là một sự đổi chác để được ơn cứu độ, mà là nghĩa tình xuát phát từ thái độ tri ân vì đã được lãnh nhận ơn cứu độ “tặng không” của Thiên Chúa.
3.3 Đạo nhà thờ hay đạo trong hành trình cuộc sống ?
Một khía cạnh khác cũng không kém phần quan trọng được lộ ra trong vấn đề di dân, đó là vấn đề của đời sống đức Tin, trong chiều hướng sống lịch sử đời mình.
Trong truyền thống do thái Kitô giáo, sống đức tin chính là sống lịch sử đời mình trong sự vâng phục thánh ý của Chúa. Ơn cứu độ thiết yếu diễn ra trong môi trường lịch sử, lịch sử đời thường của con người. Những thị kiến, những ơn huệ xuất thần, đỉnh núi Thabor,… không phải là mục đích của đời sống đức tin, mà chỉ là những giây phút hé lộ sự sống đích thực Thiên Chúa, nhằm tăng thêm sức mạnh của niềm tin cho hành trình lịch sử. Trong khía cạnh này, Hosê là mẫu gương đích thực của đời sống đức Tin, Hôsê đã vâng lệnh Chúa để cưới bà Gomer, vâng lệnh Chúa để tha thứ cho Gomer nhiều lần phản bội, vâng lệnh Chúa để giữ một thời gian khiêng cữ vợ chồng nhằm thanh luyện… Với tất cả những chuyện tình yêu đời thường ấy, đời sống của Hôsê trở thành dấu chỉ tình thương của Chúa với Dân; và người ta có thể nói rằng hành trình nên thánh của Hôsê không ở nơi đỉnh núi cao sang thánh thiện nào cả, mà là con đường “nên thánh trên giường ngủ”… Hôsê, dĩ nhiên, là một trường hợp đặc biệt. Nhưng phương thưc sống đức tin của Hôsê bộc lộ đường nét căn bản của một người Israen chân chính, đó là cách sống đức tin trong lịch sử thật của cuộc đời mình.
Nhờ hồng ân của Chúa, nhờ những giọt máu của các thánh tử đạo Việt Nam, đời sống đức tin trong Giáo hội Việt Nam vẫn còn khá phong phú. Sinh hoạt đạo rất phong phú và không hẳn chỉ là một thứ đạo bề ngoài mà thôi. “Nhờ ơn” xã hội chủ nghĩa, Giáo hội Việt Nam đang trở thành “lò” cung cấp ơn gọi cho cả Giáo hội; và mặc dù còn có nhiều điều cần phải được thanh luyện, ta vẫn có thể có một tầm nhìn lạc quan về Giáo hội Việt Nam. Tuy nhiên, có lẽ điều lệch lạc lớn của đời sống đức tin trong giáo hội Việt Nam, đó là sự tách biệt đời sống đức tin với cuộc sống hằng ngày. Hiến chế Mục vụ công đồng Vatican II nói :
Công đồng khuyến khích các Kiô hữu, công dân của cả hai thành đô, hãy nỗ lực để trung thành chu toàn những bổn phận trần thế, và luôn hành động theo tinh thần Tin Mừng. Thật là sai lầm nếu nghĩ rằng, vì chúng ta không có một quê hương trường tồn ở trần thế và đang kiếm tìm quê hương đời sau, nên có thể không cần quan tâm đến cách bổn phận trần thế, như vậy là không nhận thấy rằng chính đức tin buộc mỗi người, tuỳ theo ơn gọi của mình, phải chu toàn các bổn phận đó cách hoàn hảo hơn. Ngược lại, cũng sai lầm không kém nếu cứ dìm mình trong các công việc trần thế, như thể hoạt động ấy hoàn toàn xa lạ với đời sống tôn giáo, vì cho rằng tôn giáo chỉ giới hạn trong những hành vi phụng tự và một vài bổn phận luân lý phải chu toàn. Sự phân cách giữa đức tin được tuyên xưng và cuộc sống thường ngày của nhiều người phải kể vào số những sai lầm trầm trọng nhất của thời đại chúng ta…. (MV 43).


Người di dân Việt Nam hiện nay phần lớn là di dân vì lý do kinh tế. Nỗi lo lắng về cuộc sống chiếm hết những sức lực, thời giờ, quan tâm của họ.  Do đó, sự chểnh mảng về đời sống đức Tin cũng là tình trạng phổ biến… Sự kiện này buộc Giáo


hội Việt Nam phải nhìn lại phẩm chất đức Tin của mình. Khi mà những người nghèo, những người lao động, những người đang phải lao đao giữa cuộc chiến kinh tế không tìm được sức mạnh, không tìm được ánh sáng, không tìm được sự đồng hành nơi đời sống Giáo hội, thì chắc chắn người ta sẽ ngả về những hoạt động trần thế để đáp ứng chuyện cơm áo hằng ngày.

Tạm kết

Khi đức Giêsu nói : “lúa chín đầy đồng”, thì đó chưa hẳn là một “cánh đồng” đầy những người đạo đức như người ta thường nghĩ, nhưng có lẽ đúng hơn là cánh đồng những người khao khát ơn cứu độ, đặc biệt nơi những người nghèo mà hình ảnh người di dân ngày nay cho chúng ta một kinh nghiệm sống động :
Đức Giê-su đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Đức Giê-su thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng : Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về (Mt 9, 35-38).
Đối diện với tình trạng này, người mục sẽ bị chất vấn về tinh thần mục tử của mình. Tác vụ linh mục cũng không phải là công việc quản trị nhưng là mục tử. Người quản trị thì bận tâm nhiều đến tổ chức chung, đến nề nếp trật tự…, trong đó có những con chiên ghẻ bị loại trừ. Ngược lại, mục tử thì phải biết chiên, biết từng con chiên một. Kỷ luật, trật tự bao giờ cũng cần thiết, nhưng nếu trật tự đè bẹp sự sống cá nhân của một con chiên, dù là “chiên ghẻ”, thì vị mục tử sẽ phải biết chọn giải pháp nào đúng với Tin Mừng của Chúa. 
Cũng thế, những người giáo dân đang an ổn trong giáo xứ nề nếp cũng bị chất vấn. Người Kitô hữu không được quyền “hợp pháp hoá” tình trạng khốn khổ của những anh chị em mình bằng một một thái dộ dửng dưng. Di dân chính là một cuộc thanh luyện cho đời sống đức tin của người tín hữu Việt Nam hôm nay vậy.




[1] PGS. TS Nguyễn Văn Dân -  Văn học trung tâm – ngoại vi nhìn từ góc độ văn hóa. Xc. http://vanvn.net/news/11/3224-van-hoc-trung-tam-ngoai-vi-nhin-tu-goc-do-van-hoa.html.

[2] Huấn thị  Erga migrantes caritas Christi  (Tình yêu Đức Kitô dành cho di dân), Vatican 2004

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn