Này con là đá
trên đá này Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy …
trên đá này Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy …
Quốc Văn, OP.
Đức Giêsu đã xây dựng Giáo hội trên nền tảng đức tin của thánh Phêrô. Từ danh xưng Simon, tông đồ Phêrô đã được đổi tên là “ĐÁTẢNG”, một tên gọi thật ấn tượng, mạnh mẽ. Và chính trên nền Đá Tảng ấy, Giáo hội đã được hình thành và phát triển, vượt qua nhiều sóng gió trong suốt 21 thế kỷ qua, và sẽ trường tồn mãi như lời hứa của Đức Giêsu : Trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy, và quyền lực quỷ thần sẽ không thắng nổi …
Ta hãy
dừng chân chốc lát để nhìn về Giáo hội là mẹ hiền, với lòng trân trọng, biết ơn
và yêu mến.
Điểm khởi đi của chúng ta chính là câu hỏi bỏ ngỏ :
I. BẠN NGHĨ GÌ VỀ GIÁO HỘI ?
Khi bàn về Giáo hội, người ta thường nhìn Giáo hội với cơ
cấu, phẩm trật, và do vậy không ít người ác cảm với chính Giáo hội của mình.
Giáo hội là ai đó chứ không phải là tôi.
Thực ra Giáo hội không phải chỉ là cơ cấu, nhưng trước tiên
Giáo hội là “mẹ chúng ta” (Gl 4,26), là “hiền thê tinh tuyền của Con Chiên
không tỳ ố” (Kh 19,7; 22,17), là “nhà Thiên Chúa” (1Tm 3,15), là “thành
Giêrusalem trên trời” (Kh 12,17) … Hơn nữa Giáo lý Hội thánh Công giáo còn dạy
rằng: ”Giáo hội là một với Đức Kitô” (Số 795).
Chúng ta được mời gọi tham dự làm nên Hội thánh và là chính
Hội thánh. Trong lòng Hội thánh, tôi muốn nhìn Hội thánh như một bà mẹ. Mẹ đã
sinh ra tôi, nuôi dưỡng tôi. Dù Mẹ có già nua, có xấu xí, thì đó vẫn là mẹ tôi,
đáng để tôi yêu quý và trân trọng. Nếu trên mặt Mẹ có những vết nhăn, những tỳ
ố, thì tôi phải có trách nhiệm làm cho khuân mặt Mẹ rạng rỡ hơn hơn.
Bản chất của Giáo hội là duy nhất (GLHTCG số 813). Giáo hội
là dấu chỉ sự hiệp nhất của nhân loại, là nơi thể hiện sự khát vọng của Đức
Giêsu : “Lạy Cha, xin cho chúng nên một, như Cha ở trong Con, và như Con ở
trong Cha”.
Và cũng tự bản chất, Giáo hội là thánh thiện, vì Giáo hội
được phát sinh và nuôi dưỡng từ chính sự sống của Đức Giêsu ; Giáo hội được
trang điểm bằng một sự thánh thiện đích thực, tuy chưa hoàn hảo (GLHTCG số
825).
Hội thánh cũng là Công giáo vì được Đức Kitô sai đến với toàn
thể nhân loại(GLHTCG số 831). Nếu ngày lễ Ngũ Tuần là sinh nhật của Giáo hội,
thì Giáo hội ấy còn trải dài cho tới ngày Chúa quang lâm.
Hiến chế về Giáo hội Lumen Gientium số 13 quảng diễn:
Mọi người được mời gọi gia nhập Dân Thiên Chúa. Vì thế, dân
mới này, một dân hiệp nhất và duy nhất có bổn phận phải lan rộng khắp thế giới
trải qua mọi thế hệ, hầu hoàn tất kế hoạch của thánh ý Thiên Chúa.
Cuối cùng, Hội thánh cũng là tông truyền, vì hội thánh được
xây dựng trên nền tảng các tông đồ, được Chúa Thánh Thần trợ giúp và gìn giữ
kho tàng các tông đồ truyền lại, được chính cách tông đồ giảng dạy và thánh hóa
qua các vị kế nhiệm các ngài trong nhiệm vụ mục tử (GLHTCG số 857).
Như vậy Giáo hội được tuyên xưng với bốn đặc tính: duy nhất, thánh
thiện, công giáo và tông truyền. Đó là bản chất của Giáo hội, bản chất của Mẹ
chúng ta. Tuyên xưng như thế để chúng ta can đảm đón nhận những sự thật chưa
hoàn hảo của Giáo hội. Giáo hội vẫn còn mang thân phận lữ hành, còn cần được
thanh luyện. Giáo hội ôm ấp trong lòng cả những con người tội lỗi; và chính tội
lỗi đã gây ra chia rẽ, đã làm cho sự hiệp nhất của Giáo hội bị tổn thương, làm
cho Giáo hội không hoàn toàn thánh thiện. Trong Giáo hội vẫn còn đó những hận
thù, những tranh giành quyền lực, óc cố chấp, bè phái, trịch thượng … Thấy
những vết nhăn như thế trên mặt Mẹ mình, nhưng không được quyền thất vọng. Chúa
Thánh Thần vẫn đang hoạt động trong lòng Giáo hội, trong lòng mỗi người chúng
ta.
Giáo
hội vẫn trải dài trong thời gian, và không một thời điểm nào Giáo hội không bị
thử thách. Giáo hội còn phải chiến đấu mỗi ngày, phải nỗ lực mỗi ngày để thi
hành sứ mạng của mình. Giáo hội không ngừng phải trở nên Bí tích của sự hiệp
nhất, vì mục đích đầu tiên của Giáo hội là trở thành Bí tích của sự kết hợp mật
thiết giữa con người với Thiên Chúa (GLHTCG số 775). Giáo hội không ngừng phải
trở nên thánh thiện mỗi ngày, nhờ biết canh thân và hoán cải nội tâm, để Hội
thánh trở thành công cụ hữu hiệu đem ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Một khi
sống trọn vẹn mầu nhiệm hiệp nhất và thánh thiện, Giáo hội trờ thành ánh sáng
soi chiếu mọi người và đặc tính Công giáo được hiển tỏ. Và chính lúc này, giáo
lý của các Tông đồ cũng được sống động trong lòng Hội thánh và sinh nhiều hoa
thơm trái tốt.
Cuối cùng, chúng ta nhìn về Hội thánh qua gương mẫu Trinh
Nữ Maria. Mẹ chính là thành phần ưu tuyển, là mẹ Hội thánh và là chính Hội
thánh nữa. Chúng ta chiêm ngắm Giáo hội trong tư cách là Mẹ, một người Mẹ đầy
yêu thương lân tuất. Lời của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu như một xác tín về
tình yêu tuyệt vời trong Giáo hội :
Giáo hội có một trái tim và trái tim ấy cháy lửa yêu mến.
Tôi hiểu rằng chỉ có tình thương khiến các chi thể hoạt động, và nếu thiếu tình
thương, các tông đồ sẽ không loan báo Tin Mừng nữa, các vị tử đạo sẽ không chịu
đổ máu mình nữa. Tôi hiểu rằng tình thương cưu mang tất cả ơn gọi, tình thương
là tất cả, tình thương bao trùm mọi thời đại và mọi nơi chốn … Tóm lại, tình
thương là vĩnh cửu.
Bạn nghĩ gì về Giáo hội ? Đó là lời mời gọi bỏ ngỏ, dẫn ta
vào một thực tại khác sâu thẳm hơn, là chính mầu nhiệm Giáo hội.
II. MẦU NHIỆM GIÁO HỘI
1. Tại sao các Giáo phụ coi Giáo
hội là một mầu nhiệm?
Giáo hội chỉ là
một (đặc tính duy nhất của Giáo hội) nhưng
rất phong phú, không một hình ảnh nào có thể diễn tả trọn vẹn được Giáo hội. Do
vậy, Giáo hội được diễn tả bằng nhều hình ảnh khác nhau : Giáo hội là đoàn
chiên có một người mục tử (Ga 10), là hiền thê tinh tuyền của Con chiên không
tỳ ố (Kh 19,7;22,17), là nhà Thiên Chúa (1Tm 3,15)…
Các thánh Giáo phụ cũng có cái nhìn rất phong phú về Giáo
hội. Thánh Clement thành Alexandre và thánh Cypriano coi Giáo hội như một người
mẹ; Methodio thành Olympus lại diễn tả Giáo hội như hiền thê của Đức Giêsu, như
Eva được khai sinh từ cạnh sườn của Ađam. Thánh Ambosio thành Milan và thánh
Cypriano thành Carthage cũng diễn tả Giáo hội bằng hình ảnh hiền thê xinh đẹp.
Đặc biệt hình ảnh Giáo hội là thân mình Đức Giêsu đã được nhiều Giáo phụ quảng
diễn, bởi vì qua phép rửa tội, tất cả mọi người được trở nên một thân thể duy
nhất trong một Thần Khí (Cr 12,13). Thánh Clement giải thích : theo sách Sáng
Thế, Thiên Chúa dựng nên con người có nam, có nữ (St 1,27), nam đây có thể hiểu
là Đức Kitô, và nữ chính là Giáo hội. Và như vợ chồng nên một với nhau thế nào,
thì mầu nhiệm giữa Đức Kitô và Giáo hội cũng vậy.
Thực ra, không thể nào hiểu hết được sự phong phú của Giáo
hội. Chúng ta được mời gọi để đón nhận, yêu mến hơn là mong có thể hiểu được
trọn vẹn về Giáo hội. Giáo hội không bao giờ là điểm kết thúc, mà là điểm khởi
đầu, là lối mở cho ta tiếp tục dấn thân, khám phá. Trong lối nhìn này, chúng ta
mới hiểu được tại sao các Giáo phụ lại gọi Giáo hội là một mầu nhiệm, và mầu
nhiệm này được sáng tỏ nơi Đức Kitô.
2. Mầu nhiệm Giáo hội được tỏ
bày nơi Đức Kitô
Có thể nói, chỉ nơi Đức Kitô, mầu
nhiệm Giáo hội mới được tỏ bày trọn vẹn. Không có Đức Kitô, lời hứa sẽ không
được thực hiện và cũng không có Giáo hội. Phần lớn những hình ảnh dùng để diễn
tả Giáo hội đều có liên hệ tới Đức Kitô. Không thể nói đến hiền thê, nếu không
có Đức Kitô là phu quân; không thể nói đến đoàn chiên, nếu không có Đức Kitô là
mục tử; không thể nói đến thân mình, nếu không có Đức Kitô là đầu… Nói cách
khác, chỉ nơi Đức Kitô, và qua Giáo hội của Người, ý định cứu độ của Thiên Chúa
mới được thực hiện trọn vẹn.
Tuy
nhiên, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng nơi các Giáo phụ có một điểm độc sáng,
là các ngài không coi Giáo hội như chỉ bắt đầu nơi Đức Kitô khi người gọi và
chọn các tông đồ, nhưng Giáo hội bắt đầu từ muôn thuở khi tạo dựng đất trời.
Giáo hội chính là sự thể hiện lời hứa từ khởi đầu của thời gian cho đến ngày
tận cùng của nhân loại. Thánh Ignatio giải thích Giáo hội như là việc thông ban
sự viên mãn của Chúa Cha, từ ngàn đời, thánh ý của Người đã muốn thế. Và quả
thực, không ai biết được Chúa Cha mà không qua Đức Giêsu, không qua Giáo hội của
Người.
Tóm lại, nơi Đức Kitô mầu nhiệm Giáo hội được tỏ bày trọn
vẹn, và Giáo hội đó mang một tên gọi cụ thể: cộng đoàn yêu thương.
3. Giáo hội : cộng đoàn yêu
thương
Sách Công Vụ Tông Đồ diễn tả Giáo hội như một cộng đoàn yêu
thương, gắn bó, chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với
nhau, năng tham dự thánh lễ và cầu nguyện không ngừng. Đó cũng là một cộng đoàn
mọi người để tất cả của cải làm của chung … (2,42-47). Người ta có thể nhìn vào
cộng đoàn Giáo hội và nhận ra đó là cộng đoàn yêu thương, cộng đoàn của những
người theo đạo yêu nhau. Tinh thần yêu thương này có giá trị và ảnh hưởng rất
lớn đến đời sống và giáo huấn của các Giáo phụ. Thánh Âutinh trong tác phẩm “
The way of life of the Catholic Church”, đã vẽ nên bức tranh sống động về Giáo
hội như một cộng đoàn yêu thương. Theo thánh Âutinh, đối với người Kitô hữu
chúng ta, không có nguyên tắc sống nào khác hơn là hãy yêu mến Thiên Chúa hết
trái tim, hết tâm hồn, hết sức lực ta, và yêu thương người thân cận như chính
mình (Mt 22, 37-39). Cũng chính vì lẽ sống này, đường lối mục vụ của Giáo hội
cũng không gì khác hơn là phục vụ mọi người trong tinh thần bác ái. Tất cả mọi
công việc, mọi mối tương quan phải được xây dựng trên nền tảng đức ái này.
Chẳng vậy, Giáo hội bao gồm đủ mọi thành phần, có những người thánh thiện và
cũng không thiếu những người tội lỗi; nhưng mọi người đều được tôn trọng, đối
xử bình đẳng và được yêu thương như nhau. Đây là một hướng mục vụ tuyệt vời
được xây dựng trên nền tảng Giáo hội là một cộng đoàn yêu thương.
Mầu
nhiệm Giáo hội thật khôn do khôn thấu. Chính nhờ các Giáo phụ là những người đã
sống vào thời đầu của Giáo hội, nhờ những kinh nghiệm, suy tư và giáo huấn của
các ngài, Giáo hội trải qua mọi thời vẫn được đón nhận và hiểu biết một cách
đúng đắn. Càng sống xa với Giáo hội thời đầu, chúng ta càng có nguy cơ xa cách
nguồn mạch và hiểu lệch lạc về Giáo hội; do vậy, việc tìm về với giáo huấn của
các Giáo phụ là chúng ta đang trên hành trình về nguồn, hành trình này sẽ giúp
chúng ta hiểu biết và yêu mến Giáo hội nhiều hơn. Giáo hội không phải là những
cơ cấu cứng nhắc, cũng không phải chỉ là một thực tại con người không thể thấu
đáo, nên gọi là mầu nhiệm; hơn thế nữa, Giáo hội còn được tỏ bày là Giáo hội
của lòng trắc ẩn.
III. GIÁO HỘI CỦA LÒNG TRẮC ẨN
Giáo hội là một người mẹ mang trong mình vai trò chứng
tá, loan báo cho mọi người về một Thiên Chúa yêu thương và kế hoạch cứu độ của
Người. Trong thế giới hôm nay, Giáo hội đang phải đối diện với bao điều phức
tạp, nhiều bậc thang trong xã hội bị đảo lộn, của cải vật chất đang lấn át đời
sống tinh thần của con người, và hố ngăn cách giàu - nghèo trong xã hội ngày
càng thăm thẳm. Để nên chứng tá, Giáo hội phải xác định lại căn tính, và chọn
lựa một cách thế hiện hữu cho phù hợp với hoàn cảnh xã hội hôm nay.
1. Giáo hội giàu hay Giáo hội
nghèo ?
Tác giả Jon Sobrino, SJ. Phân tích hai nguyên lý hình
thành nên Giáo hội, đó là “nguyên lý giàu” và “nguyên lý nghèo”. Nếu Giáo hội
được hình thành từ nguyên lý giàu, tự căn bản, Giáo hội đi ngược lại với mầu
nhiệm nhập thể của Đức Giêsu. Thánh Phaolô trình bày cho chúng ta dung mạo của
Đức Giêsu, đầu của Giáo hội:
“Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên
Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm
nhân
sống như người trần thế “ (Pl2, 6-7).
Con đường Đức Giêsu đi là con đường hẹp của Tin mừng,
trái với con đường sự dữ khởi đầu bằng sự giàu sang phú quý. Của cải vất chất
dễ làm tha hóa con người, đẩy con người tới lòng tham vô đáy, tôn sùng của cải
như những thần tượng … Chính Đức Giêsu đã cảnh cáo thái độ này: “Không ai có
thể làm tôi hai chủ được”.
Nếu Giáo hội được hình thành từ nguyên lý giàu có, thì
Giáo hội khó có thể chọn lựa người nghèo, và như vậy họ sẽ bị loại ra bên lề
Giáo hội. Trong khi đó, Kinh thánh cho thấy người nghèo luôn được Chúa yêu
thương :
“Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân
Ta bên Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta
biết các nỗi khổ đau của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai
Cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một vùng đất tốt tươi …” (Xh 2, 7-8).
Khi suy nghĩ về Giáo hội, tôi luôn tự
nhủ : Giáo hội của tôi có thực sự là Giáo hội nghèo khó ? Tinh thần Bát Phúc có
thực sự là kim chỉ nam cho Giáo hội tiến bước hay không ?
Và chính bản thân tôi là thành phần của Giáo hội, tôi có thực sự sống khiêm hạ, nghèo khó, nên chứng tá của Tin mừng ? Nhìn vào đời sống của Giáo hội, đời sống của chính mình, tôi không khỏi bị Tin mừng chất vấn !
Và chính bản thân tôi là thành phần của Giáo hội, tôi có thực sự sống khiêm hạ, nghèo khó, nên chứng tá của Tin mừng ? Nhìn vào đời sống của Giáo hội, đời sống của chính mình, tôi không khỏi bị Tin mừng chất vấn !
2. Căn tính
của Giáo hội
Một trong những nét đặc trưng của Giáo
hội là sự nghèo khó. Con đường của Đức Giêsu khởi sự là con đường nghèo khó :
sinh ra trong cảnh nghèo (Lc 2, 1-20), lớn lên trong cảnh nghèo, rao giảng về
sự khó nghèo (Mt 5,3), giao du với những người bị khinh dể (Mt 9).., và chết
trần trụi không một tấm áo che thân. Chính Đức Giêsu ấy đã thiết lập Giáo hội
và giáo hội của Người phải là Giáo hội khiêm hạ, yêu thương và phục vụ. Giáo
hội đó phải là một dân mới của Thiên
Chúa, là sự tiếp nối của một dân toàn những người nghèo của Giavê (Đnl
7,6-11).
Trong một xã hội đầy những người nghèo
khổ, sự hiện diện khiêm hạ của Giáo hội như một sự đồng cảm, như lời chứng cho
một Thiên Chúa luôn gần gũi, chia sẻ
trọn vẹn kiếp người. Trong nghèo khó, mầu nhiệm Nhập thể của Đức Giêsu được
biểu tỏ. Trong nghèo khó mọi sự dối trá đều bị vạch trần, sự thật được phơi bày
dưới ánh sáng. Đó là sự thật một Đức Giêsu, một Giáo hội bị bách hại; lời Đức
tổng giám mục Romeo, một người đã chịu bách hại, đã trở nên nghèo khó đến tận
cùng, như một thứ ánh sáng soi dọi cho chúng ta : “Anh em quý mến, tôi vui
mừng khi Giáo hội bị bách hại. Điều ấy cho thấy Giáo hội đã thực sự nhập thể
trong sự nghèo hèn”.
Như vậy, nghèo hèn đồng nghĩa với sự
bách hại; nghèo hèn là chứng tá, là nét nổi bật Giáo hội phải thể hiện. Theo ý
nghĩa này, chúng ta có thể hiểu được Giáo hội, vì trong thực tế, xét về mặt của
cải, có lẽ Giáo hội chưa thực sự là nghèo khó ! Dưới cái nhìn của tác giả Jon
Sobrino, SJ, nghèo khó còn được mở ra với
một nhãn quan mới :
3. Giáo hội
nghèo là Giáo hội giàu lòng trắc ẩn
Từ khởi đầu đã có lòng trắc ẩn, và đây
là nguyên lý chi phối cả lịch sử cứu độ của con người. Thiên Chúa cứu con người
là do lòng trắc ẩn của Ngài, và lòng trắc ẩn được thể hiện qua hành động yêu
thương của Thiên Chúa. Những biến cố Thiên Chúa can thiệp và cứu dân trong Cựu
ước là một bằng chứng hùng hồn cho lòng trắc ẩn của Ngài.
Trong Tân ước, Đức Giêsu còn diễn tả
lòng trắc ẩn đậm nét qua dung mạo của Thiên Chúa Cha, Đấng giàu lòng xót
thương. Tình thương của Chúa Cha được thể hiện cụ thể qua con người của Đức
Giêsu : một người Samaritanô nhân hậu chăm sóc vết thương cho người bị nạn, một
mục tử tốt lành bỏ 99 con chiên nơi đồng vắng để đi tìm con chiên lạc, một
người cha sẵn sàng ra nghênh đón đứa con hoang đàng trở về, và là một Thiên
Chúa sẵn sàng mang thân phận tội nhân chết tất tưởi trên thập giá. Tất cả những
việc làm này của Đức Giêsu đơn giản chỉ là vì yêu thương, là thể hiện lòng trắc
ẩn của Người.
Giáo hội cũng được mời gọi cùng thi
thố một lòng trắc ẩn như thế. Lòng trắc ẩn chính là nguyên lý và cũng là cùng
đích để Giáo hội hướng tới. Thể hiện lòng trắc ẩn là Giáo hội sống nghèo, chống
lại sự giàu sang phú quý; lòng trắc ẩn giúp Giáo hội đón nhận sự bách hại và
chống lại những vinh quang hão huyền của trần gian; lòng trắc ẩn giúp Giáo hội
biết thực sự sống khiêm tốn, thay vì một thái độ tự mãn, kiêu ngạo; và cuối
cùng lòng trắc ẩn sẽ đưa Giáo hội đến mọi nhân đức.
Tóm lại, lòng trắc ẩn chính là điểm hội tụ của Tin mừng,
Tin mừng đó không chỉ trình bày một sự thật cứu độ, nhưng còn loan báo tình
thương và niềm vui. Lòng trắc ẩn phải là tên gọi mới của Giáo hội : Giáo hội
nghèo chính là Giáo hội giàu lòng trắc ẩn; và Giáo hội giàu lòng trắc ẩn là
Giáo hội nghèo khó đích thực.
Cũng trong một hướng nhìn về Giáo hội ấy, chiều kích cuối
cùng trong bài viết này chúng tôi muốn đề cập tới, Giáo hội là sự quy tụ trong
Thần Khí của Đức Giêsu.
IV. GIÁO HỘI: SỰ QUY TỤ TRONG THẦN KHÍ CỦA
ĐỨC GIÊSU
ĐỨC GIÊSU
Có thể nói ngày khai sinh Giáo hội chính ngày lễ Ngũ
Tuần. Đức Giêsu đến trần gian loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa, mời gọi mọi
người tham dự bàn tiệc Nước Trời, quy tụ muôn người và khai sinh Giáo hội. Thế
nhưng Giáo hội chỉ thực sự thi hành sứ mạng của mình khi Đức Giêsu về trời và
cử Chúa Thánh Thần đến với các môn đệ.
Thời kỳ của Giáo hội là thời kỳ hoạt động của Chúa Thánh
Thần. Sách Công Vụ Tông Đồ là cuốn “Tin mừng” sống động Thánh Thần đã viết ra
qua tay thánh sử Luca. Những trang Tin mừng sống động này đã cho chúng ta thấy
sức sống mãnh liệt của Giáo hội thời sơ khai. Sức mạnh của Thần Khí là linh hồn
mọi hoạt động của các Tông đồ và của cả Giáo hội.
1. Thần Khí hoạt động trong cộng đoàn Giáo hội thời sơ khai
a. Tại Giêrusalem
Sức mạnh Thần Khí của Đức Giêsu lan tỏa nơi cộng đoàn sơ
khai của các môn đệ ở Giêrusalem. Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy có cả ba ngàn
người Do Thái xin chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu sau khi nghe thánh Phêrô
giảng vào ngày lễ Ngũ Tuần. Đây là niềm vui, là sức sống mạnh mẽ của cộng đoàn
mới mẻ này :
Các tín hữu chuyên cần lắng nghe các
Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh
và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kính sợ vì các Tông đồ làm nhiều điềm
thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung.
Họ đem bán tất cả đất đai, lấy tiền của chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ
đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến đền thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư
gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, được dân thương
mến, và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ (Cv 2, 42-47).
Lúc khởi đầu, các Kitô hữu được mệnh danh là “những môn đệ
trên đường phố”; với ơn Thánh Thần, họ có sức thuyết phục, lôi cuốn đám đông
dân chúng quy tụ quanh mình. Tuy nhiên họ vẫn còn mang não trạng là một người
Do Thái, ngày ngày vẫn lên đền thờ Giêrusalem. Như những con người theo phong
trào Giêsu, họ “bẻ bánh” tại tư gia, chia sẻ Thánh Thể để tưởng niệm về Đức
Giêsu trong những bữa tiệc của họ. Giữa cộng đoàn, không ai là những người
nghèo, vì họ để tất cả của cải làm của chung và cũng chia sẻ với nhau. Lối sống
yêu thương bác ái củahọ đã trở nên một bài giảng hùng hồn về sức mạnh của Đấng
Phục Sinh, và chính nhờ lối sống chứng tá này, Tin mừng ngày càng được lan
rộng. Giáo hội không còn chỉ gói gọn ở Giêrusalem nữa, mà lan rộng ra khắp nơi,
và rồi sau này lan rộng đến tận cùng thế giới.
b. Vượt ra khỏi Giêrusalem
Thần Khí của Đức
Giêsu đã hoạt động vượt ra khỏi phạm vi Giêrusalem, nhiều Giáo hội địa phương
được thành lập, khởi đầu là những thành thị vùng Palestin. Chắc chắn phong trào
trẻ trung này đã bắt đầu lôi cuốn dân ngoại (những người không phải là Do
Thái). Tại Antiôkia, cộng đoàn đầu tiên được thành lập bao gồm cả người Do Thái
và dân ngoại theo Đức Giêsu. Sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy rằng: “Tại Ankiôkia,
các môn đệ lần đầu tiên được gọi là Kitô hữu” (11,26), bởi vì họ là những người
theo Chúa Giêsu Kitô.
Ngày càng có đông dân ngoại chịu phép rửa, nên các tông đồ
là những người Do Thái theo Chúa Kitô, đã đưa ra những vấn nạn quan trọng :
Những người dân ngoại theo Chúa Kitô, trước tiên có phải gia nhập Do Thái giáo
không ? Có phải giữ tất cả các tập tục, luật lệ của Do Thái giáo, kể cả việc
những người đàn ông phải cắt bì ? Các tông đồ đã nhóm họp Công đồng tại
Giêrusalem và quyết định “mở cửa” cho
dân ngoại, họ không phải gia nhập Do Thái giáo trước khi trở thành Kitô
hữu. Sau đó, phong trào những người theo Đức Giêsu ngày càng lan rộng và lan
tỏa khắp đế quốc Rôma.
c. Sự tách ly khỏi Do Thái giáo
Những người Kitô hữu đã cởi mở đối với dân ngoại, không bắt
họ phải gia nhập Do Thái giáo trước khi trở nên Kitô hữu. Điều này đã gây nên
vết rạn nứt giữa những người Kitô hữu và những nguời lãnh đạo Do Thái giáo. Sau
biến cố Đền Thờ bị quân Rôma phá hủy vào năm 70 và người Do Thái phải phân tán
khỏi trung tâm là Giêrusalem, giới lãnh đạo Do Thái thấy rằng phải xiết chặt
những sinh hoạt tôn giáo của người Do Thái lại. Trước đó những người lãnh đạo
Do Thái giáo đã không cho phép những tín hữu Kitô gốc Do Thái được cử hành
phụng tự tại hội đường với người theo đạo Do Thái. Vào thời điểm này, phong
trào Kitô hữu đã tách biệt ra khỏi Do Thái giáo và trở thành một tôn giáo độc
lập, đó là Kitô giáo. Tuy vậy, người Kitô hữu vẫn biết rằng, đức tin của mình
được xây dựng trên nền tảng Do Thái giáo, họ vẫn tiếp tục cầu nguyện và đọc
Kinh Thánh Do Thái (theo truyền thống được gọi là Cựu Ước), và ngày nay, trong
việc phụng tự, người Kitô hữu vẫn đọc Kinh Thánh Cựu Ước này
2. Giáo hội : sự quy tụ trong Thần Khí
Khởi đi từ Giáo hội sơ khai và đời
sống của những người theo Chúa Kitô vào những thập niên đầu sau biến cố Ngũ
Tuần, chúng ta có thể xác định nền tảng của Giáo hội chúng ta đang sống hôm
nay. Quả thực, Giáo hội hôm nay chính là sự
tiếp nối, kế thừa Giáo hội tiên khởi trải qua cả 2000 năm lịch sử. Giáo
hội này đã tồn tại, phát triển suốt 20 thế kỷ và lan rộng ra khắp các châu lục.
Ngày nay khoảng một phần ba dân số thế giới là người Kitô hữu, và hơn một nửa
trong số đó là người Công Giáo.
Thánh Thần đã quy tụ Giáo hội, và trải
qua bao bước thăng trầm, có những lúc tưởng chừng như Giáo hội đã hoàn toàn tan rã với bao cuộc
bách hại, bao cuộc phân ly, bao sai lầm và suy thoái ... Thế nhưng Giáo hội vẫn
trường tồn và phát triển mạnh mẽ, vượt qua mọi sóng gió của trần gian. Chính
sức mạnh của Thánh Thần đã làm lên điều kỳ diệu đó.
a. Sự quy tụ của những người tin,
những
người tiếp tục sứ mạng của Đức Giêsu
Dù chúng ta có nói về Giáo hội của những năm 70 hay là Giáo
hội của năm 2005, thì Giáo hội vẫn là như thế. Giáo hội Kitô giáo là sự quy tụ
những người tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô và lãnh nhận phép rửa trong đức
tin đó. Và còn hơn thế nữa, Giáo hội là sự diễn tả sống động về Chúa Giêsu cho
thế giới, tiếp tục sứ mạng của Người nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Nhưng sứ
mạng của Đức Giêsu là gì ? Như chúng ta đã nói ở trên, sứ mạng của Đức Giêsu là
loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa bằng chính cuộc sống của Người, bằng sự hy
sinh chịu chết và phục sinh vinh hiển. Đức Giêsu được Chúa Cha cử đến để hiệp
nhất con người với Thiên Chúa và thiết lập Vương Quốc Thiên Chúa trong công lý
và hoà bình trên thế giới. Như vậy, Giáo hội tiếp tục sứ mạng của Đức Giêsu
nghĩa là Giáo hội trở nên công cụ cứu độ của Thiên Chúa trong lòng lịch sử.
Do đó, Giáo hội không hiện hữu cho chính mình như một thể
chế, nhưng giúp cho các phần tử tiến đến đời sống viên mãn và thánh thiện. Và
Giáo hội hiện hữu là cho toàn thể thế giới này, thắp lên cho thế giời ngọn lửa
tin yêu, hy vọng; trở nên nguồn mạch cho sự hiệp nhất và chữa lành, giữa một
thế giới đang bị xâu xé bởi chiến tranh,
hận thù, chia rẽ, tội lỗi và bất công.
b. Những hình ảnh nói về Giáo hội
Giáo hội chỉ là một, là duy nhất, nhưng rất phong phú,
không một hình ảnh nào có thể diễn tả trọn vẹn được Giáo hội. Do vậy, Giáo hội
được diễn tả bằng nhều hình ảnh khác nhau, cho dù đó là Giáo hội địa phương hay
là Giáo hội hoàn cầu.
Xin khai triển ba hình ảnh sau đây như nét đặc trưng của
Giáo hội :
- Giáo hội là dân
Thiên Chúa.
- Giáo hội là thân
thể Đức Kitô.
- Giáo hội đền thờ
Chúa Thánh Thần.
Những hình ảnh trên cho thấy Giáo hội là công trình của
Chúa Ba Ngôi trong thực tại nhân loại.
* Giáo hội là dân Thiên Chúa
Chúng ta nhớ lại dân riêng của Chúa,
dân Israel đã được Giavê yêu thương, tuyển chọn. Ngày nay, Giáo hội là một
Israel mới cũng đang trên đường lữ thứ trần gian tiến về Đất hứa là Giêrusalem
trên trời. Nếu như xưa kia dân riêng đã phản bội Giavê, thì ngày nay “dân Thiên
Chúa” cũng không phải là những con người đặc tuyển, Giáo hội vẫn ôm ấp cả những
người yếu đuối, tội lỗi, và có thể phản bội Thiên Chúa. Như Israel được Giavê
yêu thương thế nào, thì ngày nay Giáo hội cũng được Người yêu thương và dẫn
dắt, Thiên Chúa không bao giờ bỏ quên dân Người. Nếu như lịch sử của Israel
như một trang tình sử giữa Giavê và dân
riêng của Người, thì lịch sử Giáo hội
cũng là mối tình thắm thiết giữa Đức Giêsu và Israel mới.
* Giáo hội là thân thể Đức Kitô
Đức Kitô là đầu, toàn thân thể được
chia sẻ sức sống của đầu. Trong thư thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô, thánh
Phaolô diễn tả Giáo hội như là thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô :
“Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là
một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các
bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô
cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự
do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân
thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất” (1 Cr 12,12-13).
“Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cũng đau. Nếu một
bộ phận nào vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung. Vậy anh em, anh em là thân
thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận”
(12,26-27).
Theo thánh Phaolô, mỗi chúng ta là một chi thể, là một
Giêsu Kitô đang sống trong dòng lịch sử. Mặc dù chúng ta có những khả năng khác
nhau, có những hoàn cảnh, điều kiện khác nhau; nhưng đều được mời gọi hiệp nhất
nên một. Sự thánh thiện hay tội lỗi của một người sẽ ảnh hưởng đến cả Giáo hội.
Nhờ sự hiệp nhất này, chúng ta trở nên Đức Kitô cho thế giới. Nhờ việc chia sẻ
Thánh Thể, chúng ta được liên kết với Đức Giêsu và hiệp nhất với nhau.
*Giáo hội là đền thờ Chúa Thánh Thần
Thánh Thần Thiên Chúa tuôn trào, và tiếp tục tuôn trào,
không phải trên ngôi thánh đường bất động bằng vật chất, mà là trên ngôi thánh
đường sống động bằng da bằng thịt, tức là những con người được Thánh Thần quy
tụ gọi là Giáo hội. Thánh Tông đồ dân ngoại đã diễn tả rất sinh động ý tưởng
này trong thư ngài gởi cho giáo đoàn Côrintô và Êphêsô:
“Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền thờ của Thiên
Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao ? Vậy ai phá hủy Đền thờ
Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. Vì Đền thờ Thiên Chúa là nơi
thánh, và Đền thờ ấy chính là anh em” (1Cr 3, 16-17).
“Trong Người, cả anh em nữa, cũng được
xây dựng cùng với những người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí”
(Ep 2,21-22).
Nên biết rằng, trước khi trở thành Kitô hữu, thánh Phaolô
đã rất nhiệt tâm với Đền thờ Do Thái ở Giêrusalem, đền thờ này là điểm hội tụ
của những ước mơ và hy vọng của dân tộc Israel .
Đối với thánh Phaolô, đền thờ Thiên Chúa không phải là công
trình xây dựng vật chất, mà là chính cộng đoàn dân Chúa. Dân Thiên Chúa chính
là nơi Người cư ngụ, là nơi Thánh Thần hiện diện và hoạt động.
c. Đức Maria, gương mẫu của Giáo hội
và là mẹ Giáo hội
Chúng ta nhìn về Giáo hội qua gương mẫu Trinh Nữ Maria. Mẹ
chính là thành phần ưu tuyển, là mẹ Giáo hội và là chính Giáo hội. Mẹ đã trở
nên thánh thiện tuyệt với, không tỳ ố, không nếp nhăn, hoàn toàn chiến thắng
mọi tội lỗi. Đó chính là niềm hy vọng, là đích điểm Giáo hội luôn hướng tới.
Đức Maria là Đấng “đầy ân sủng”. Mẹ đã
hoàn toàn mở lòng cho Thánh Thần hoạt động. Mặc dù Mẹ không thể hiểu hết được
Thiên Chúa hoạt động nơi Mẹ thế nào, nhưng Mẹ đã sẵn sàng xin vâng, cưu mang và
sinh hạ Con Thiên Chúa cho thế giới. Như vậy, Mẹ trở nên gương mẫu để Giáo hội
cũng biết mở rộng lòng khiêm tốn để Thiên Chúa hoạt động, chữa lành, yêu thương
và qua Giáo hội Ngài ban tặng Chúa Giêsu cho thế giới.
Qua Đức Maria, nhân tính và Thiên tính được kết hợp trong
Đức Giêsu. Qua Giáo hội, nhân tính và Thiên tính cũng được kết hợp khi các phần
tử nỗ lực trở nên giống Đức Kitô, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Truyền thống Công Giáo xác tín rằng vì vai trò duy nhất của
Đức Maria giữa lòng nhân loại, nên sau khi hoàn tất cuộc đời dương thế, Mẹ được
kết hợp với Thiên Chúa một cách trọn vẹn, không phải chịu cảnh thối nát của
thân xác. Do đó, Giáo hội ban bố tín điều Đức Mẹ hồn xác về trời. Bằng cách
thức hoàn toàn khác biệt với mọi người, Đức Maria được chia sẻ trọn vẹn vinh
quang Phục Sinh của Đức Giêsu. Mẹ đã cho chúng ta niềm hy vọng rằng, một ngày kia,
chúng ta cũng được chia sẻ vinh quang Phục Sinh ấy.
Chúng ta là một Giáo hội xinh đẹp, có gương mẫu tuyệt vời
là Đức Maria, tuy nhiên, Giáo hội vẫn còn bị phân năm sẻ bảy, vẫn còn mang trong mình niềm khát vọng hiệp nhất.
3. Khát vọng hiệp nhất
Chúng ta tin rằng Đức Giêsu muốn thiết lập một Giáo hội duy
nhất và Người là vị Mục tử nhân lành, Người muốn quy tụ các đàn chiên tản mác
về một mối. Trong tiến trình hiệp nhất này, chúng ta đau đớn khi thấy Giáo hội
đang bị chia rẽ.
a. Sự chia rẽ trong Kitô giáo
Một sự thật đau lòng là các Kitô hữu ngày nay còn đang chia
rẽ nhau. Thân mình Đức Giêsu đang bị chia cắt thành hàng trăm mảnh, hàng loạt
giáo phái ra đời và cũng tự xưng mình là Giáo hội. Trải qua nhiều thế kỷ, nhiều
nhóm Kitô hữu đã tách ra khỏi Giáo hội Công giáo, một Giáo hội có truyền thống
từ các tông đồ, với các Giám mục kế vị, dưới sự hướng dẫn của Đức giáo hoàng,
Giám mục Rôma, người kế vị thánh Phêrô, vị tông đồ trưởng.
Có nhiều lý do dẫn đến sự chia rẽ trong Kitô giáo : có khi
do sự tranh luận về những nghi lễ, tín điều; có khi là những lý do tế nhị hơn
có liên quan đến chính trị, quân sự, hoặc những xúc phạm, hiểu lầm... Thường
thì những lý do trên hoà trộn vào nhau tạo nên sự chia rẽ đáng tiếc.
Những Giáo hội Kitô giáo ngày nay bao gồm : Công giáo,
Chính Thống, Tin Lành (bao gồm nhiều giáo phái)
và một số những giáo phái nhỏ khác. Mặc dù các Giáo hội Kitô giáo ngày
nay không hợp nhất dưới quyền một vị lãnh đạo, nhưng chúng ta tìm cách để hiệp
nhất với nhau hơn là chia rẽ, vì tất cả cùng diễn tả một tình yêu, một niềm tin
vào Đức Giêsu. Trong những thập niên gần đây, phong trào Đại Kết đang phát
triển mạnh. Công giáo, Tin Lành và Chính Thống đã bắt tay làm việc với nhau
trên tinh thần xây dựng, hiểu biết và tôn trọng. Kết quả là một số Kitô hữu đã
khám phá ra đức tin của mình có chung một truyền thống với nhau, tuy có những
khác biệt về chi tiết, nhưng không phải vì thế mà không thể bắt tay nhau cộng
tác làm việc.
Tuy chưa thể và cũng không thể xóa hết được những sự khác
biệt, nhưng tiến trình đại kết là một việc làm tích cực thể hiện khát vọng hiệp
nhất của Đức Giêsu. Tin mừng Gioan cho thấy sau bữa tiệc ly, Đức Giêsu cầu
nguyện với Chúa Cha cho sự hiệp nhất, đó cũng chính là nền tảng cho sự hiệp
nhất của Giáo hội :
“Con không chỉ cầu nguyện cho những
người này (các tông đồ) nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để
tất cả nên một như, lạy Cha, Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở
trong chúng ta. Như vậy, thế gian sẽ tin rằng Cha đã sai con” (Ga 17,
20-21).
Lời
cầu nguyện đó của Đức Giêsu cả hai ngàn năm nay Giáo hội vẫn coi như là một
lệnh truyền, như một khát vọng cháy bỏng để Giáo hội cố gắng đạt tới. Bên cạnh
nỗ lực hiệp nhất này, Giáo hội cũng phải đối diện với một thực tại phức tạp
khác, đó là sự đa phức tôn giáo trên thế giới.
b. Những tôn giáo khác
Ngoài những người có niềm tin Kitô giáo, còn cả hàng tỷ
người theo niềm tin tôn giáo khác, họ là những người Do Thái giáo, Hồi giáo, Ấn
Độ giáo, Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo và rất nhiều những tôn giáo địa
phương, tôn giáo bộ lạc khác nữa. Những tôn giáo này có chứa đựng chân lý không
? Kitô giáo tương quan với những tôn giáo này như thế nào ? Họ có thấy mình cần
được Thiên Chúa cứu độ ? …
Giáo hội khẳng định rằng Thiên Chúa chắc chắn đã tỏ lộ mình
ra (dù không hoàn toàn) cách nào đó nơi những tôn giáo không phải là Kitô giáo
này, đặc biệt là đối với Do Thái giáo và Hồi giáo, những tôn giáo có niềm tin
độc thần; đồng thời Giáo hội tôn trọng sự thật Thiên Chúa đã đặt để trong những
truyền thống tôn giáo của họ. Và như vậy, Kitô giáo cũng được chia sẻ rất nhiều
những đức tính nhân bản, luân lý và truyền thống tâm linh nơi các tôn giáo lớn
trên thế giới.
Tuy nhiên, người Công giáo chúng ta tin rằng mặc khải trọn
vẹn và sự thật về Thiên Chúa đã được ban tặng cho con người qua Đức Giêsu Kitô.
Qua Đức Kitô, nhân loại được cứu độ, và ngay cả những người ngoài Kitô giáo,
nếu cứ theo lương tâm ăn ở ngay lành thì cũng sẽ được cứu độ, bởi vì Đức Giêsu
đã sinh ra làm người và chết cho mọi người chứ không phải cho riêng biệt một
ai. Thánh Phaolô diễn tả điều này trong
thư ngài gởi cho ông Timôthy :
“Trước hết, tôi khuyên ai nấy dâng lời
cầu xin, khẩn nguyện nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người … Đó là điều tốt và
đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng Cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý” (1 Tm 2,1-4).
Chỉ trên nền tảng này chúng ta mới có
thể chân nhận và tôn trọng thực sự những giá trị tinh tuý nơi những truyền
thống văn hóa, và tôn giáo của họ. Giáo hội xác tín rằng:
“Sự hiện diện và sinh hoạt của Thần
Khí ảnh hưởng đến không những từng cá nhân mà còn cả xã hội và lịch sử, các dân
tộc, các nền văn hóa và các tôn giáo... Lại nữa, chính Thần Khí, Đấng gieo
‘những hạt giống Lời’ hiện diện trong các tập quán và văn hóa khác nhau, chuẩn
bị chúng được trưởng thành đầy đủ trong Chúa Kitô” (Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris Missio, 28.)
Với nỗ lực hội nhập văn hóa trong
truyền giáo, Giáo hội tìm cách đối thoại với các tôn giáo như một phương thế hữu hiệu để rao giảng Tin
mừng. Tuyên ngôn Dominus Jesus xác
định:
“Đối thoại chắc chắn không thể thay
thế, nhưng đúng hơn, đi kèm theo sứ vụ truyền giáo, hướng về “mầu nhiệm hiệp
nhất” từ đó mà tất cả người nam và nữ, những kẻ được cứu chuộc, chia sẻ dù cách
khác nhau, cùng một mầu nhiệm cứu độ trong Chúa Giêsu Kitô, nhờ Thần Khí của
Người” (Thánh Bộ Đức Tin, Tuyên
ngôn Dominus Jesus, số 2)
Như vậy, trong việc đối thoại, một mặt
ta phải luôn trân trọng những gì là chân thiện mỹ nơi các tôn giáo, nhưng mặt
khác ta không để lãng quên hay đánh mất căn tính của mình là đem Tin mừng cho
các dân tộc. Công đồng Vaticanô II định hướng rõ ràng cho việc đối thoại liên
tôn là cùng nhau khám phá và làm triển nở những yếu tố “chân lý và ân sủng do
sự hiện diện tiềm ẩn của Thiên Chúa nơi mọi tôn giáo” (Cđ. Vat II, Ad Gentes, số 9).
Việc đối thoại theo tinh thần của Công
đồng Vaticano II phải đặt nền tảng trên mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể. Do đó
không có gì ngoài tình liên đới sốt sắng và một tinh thần vô vị lợi thúc giục
Giáo hội đối thoại với những người đang tìm kiếm chân lý trong tình yêu (Xc Ecclesia in Asia, số 29). Trong viễn cảnh này, Đức Gioan Phaolô II đã ngỏ
lời với các thành viên của hội đồng đối thoại liên tôn:
“Việc đối thoại liên tôn trong một
mức độ sâu xa hơn, luôn luôn là cuộc đối thoại cứu độ, bởi vì chủ tâm của nó là
khám phá, làm sáng tỏ và hiểu rõ hơn cuộc đối thoại vĩnh cửu mà Thiên Chúa vẫn
tiếp tục thực hiện với nhân loại” .
(Trích lại trong Nguyễn Thái Hợp, Đường vào thần học về
tôn giáo, tr 47).
Để đạt đến một cuộc đối thoại như thế,
chúng ta gặp không ít những thách đố trên bình diện cá nhân cũng như tập thể vì
đã đụng chạm đến những vấn đề thiêng thánh là sự xác tín, là niềm tin. Cuộc đối
thoại còn là cả một hành trình dài, đòi hỏi nhiều nỗ lực suy tư cũng như sự dấn
thân thực tế.
Tuy nhiên, xin nhắc lại một yếu tố
quan trọng là sức sống, là nguồn mạch của Giáo hội, đó là chính Thánh
Thần, Đấng quy tụ nên Giáo hội.
3. Thánh
Thần hoạt động trong Giáo hội qua dòng lịch sử
Thánh Thần tuôn tràn trên các môn đệ Đức Giêsu vào ngày Ngũ Tuần,
cũng chính là Thánh Thần đang họat động trong Giáo hội hôm nay, cũng như xuyên
suốt qua hai ngàn năm lịch sử. Trong dòng lịch sử thăng trầm, Thánh Thần vẫn
luôn hiện diện trong Giáo hội cả khi Giáo hội thịnh vượng hay là tụt dốc. Thánh
Thần luôn hướng dẫn những người lãnh đạo trong Giáo hội, giúp Giáo hội lắng
nghe được tiếng của thời đại, mời gọi nhiều người nam nữ quảng đại hiến thân
phục vụ.
Nhiều Kitô hữu xuyên qua các thời đại đã anh dũng lấy máu
đào minh chứng niềm tin, nhiều vị thánh hiển tu, bác ái … Trang sử Giáo hội đã
ghi lại cuộc đời các vị thánh, họ là những thành phần trong Giáo hội, đã đi
trọn hành trình đức tin. Nhìn vào đời sống của các vị, chúng ta có thể khám phá
ra sức sống mãnh liệt của Giáo hội xuyên suốt
dòng lịch sử.
Vườn hoa
Giáo hội gồm rất nhiều bông hoa ngạt ngào hương sắc, mỗi vị thánh mang một vẻ
đẹp riêng. Chúng ta không thể liệt kê ra đây tất cả các thánh, cũng như không
thể bắt chước tất cả các nhân đức của các vị. Chiêm ngưỡng các vị thánh để thấy
được sự đa dạng, phong phú và thánh thiện của Giáo hội. Các ngài đã đóng trọn
vai trò của mình và đi hết hành trình đức tin. Mỗi vị mỗi cách thức khác nhau,
mỗi hoàn cảnh khác nhau : các thánh tử đạo khác với các thánh hiển tu, khác với
các thánh lo việc bác ái…, nhưng tất cả các vị gặp nhau ở một điểm, đó là lòng
yêu mến: Yêu mến Chúa, yêu mến Giáo hội và yêu mến tha nhân. Đó là những tấm
gương sống động để chúng ta học đòi băt chước.
KẾT
LUẬN
Để kết
luận, chúng ta trở về với Tin mừng như điểm quy chiếu của Giáo hội. Trong các
sách Tin mừng, chỉ thấy Tin mừng thánh Matthêu nhắc ba lần từ ngữ “Giáo hội”
(Xc. Mt 16,18; 18,17). Tuy nhiên các sách Tin mừng đều cho thấy rằng Đức Giêsu
kêu gọi các môn đệ và muốn thành lập cộng đoàn của Người. Thánh Máccô còn muốn
trình bày ngay từ lúc đầu khi kêu gọi
bốn môn đệ tiên khởi (Mc 1,16), Người đã muốn thiết lập Giáo hội, để rồi từ
nhóm nhỏ này, Người gầy dựng nhóm Mười Hai. Và rồi nhân rộng lên nữa, Người kêu
gọi nhóm đông các môn đệ, nhưng nhóm Mười Hai không bị tách lìa hay đặt ở vị
trí cao hơn, mà là được đặt nằm trong cộng đoàn môn đệ, vì tất cả cộng đoàn đều
được xây dựng trên một khuôn mẫu tuyệt vời là Đức Kitô, và tất cả các môn đệ
phải bước theo Người (Xc. Mc 10, 41 - 44).
Đặc biệt thánh Mátthêu còn cho chúng ta thấy Giáo hội chính
là cộng đoàn các môn đệ sống theo tinh thần Bát Phúc (Mt 5, 1 -12). Giáo hội
này mang trong mình sứ mạng truyền giáo
theo lệnh truyền của Đức Giêsu (Mt 28, 19 - 20), sứ mạng này Giáo hội chỉ thực
hiện được trong sức mạnh của Thánh Thần (Mt 10, 20).
Còn thánh Luca với Tin mừng thứ ba và sách Công Vụ Tông Đồ,
cho chúng ta thấy Thánh Thần đã khai sinh ra Giáo hội, và Giáo hội đó được đặt
trong dòng lịch sử cứu độ. Giáo hội chính là thời hoạt động của Thánh Thần.
Cuối cùng, Tin mừng thánh Gioan cho chúng ta cái nhìn chìm
sâu trong tình huynh đệ, tình thầy trò; người môn đệ giữ vai trò đặc biệt trong
việc hình thành và phát triển Giáo hội.
Quả thực, Giáo hội là một Israel mới, một dân mới được
Thánh Thần quy tụ. Qua biến cố Ngũ Tuần, Thánh Thần đã tác động, thay lòng đổi
dạ bao con người, biến họ nên những nhân tố sống động làm nên một Giáo hội đặc
sủng, xinh đẹp, hiệp thông và phục vụ. Giáo hội này vừa hữu hình vừa vô hình,
có phẩm trật và cũng mang chiều kích siêu việt.
Cuối cùng cũng cần nhắc lại rằng, dù sao Giáo hội cũng còn
mang thân phận lữ hành, Giáo hội cần phải được thanh luyện luôn mãi. Giáo hội
phải không ngừng nỗ lực để trở nên dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện sống động ở
trần gian, để trở thành công cụ cứu độ của Chúa, và trở nên mối dây hiệp nhất
giữa mọi Kitô hữu cũng như trong mối tương quan giữa Kitô giáo và các tôn giáo
khác.
Đăng nhận xét