Năm Đức tin cũng là dịp
để không những chỉ những người sống Đời thánh hiến
mà tất cả mỗi người con trong Giáo Hội
duyệt lại cách sống Đức tin của mình.
Đức tin xuất phát từ hồng ân Thiên Chúa,
phải là động lực thúc đẩy và hướng dẫn
mọi hoạt động của mỗi người tín hữu,
chi phối trọn vẹn tư tưởng,
lời nói và hành động của chúng ta.
để không những chỉ những người sống Đời thánh hiến
mà tất cả mỗi người con trong Giáo Hội
duyệt lại cách sống Đức tin của mình.
Đức tin xuất phát từ hồng ân Thiên Chúa,
phải là động lực thúc đẩy và hướng dẫn
mọi hoạt động của mỗi người tín hữu,
chi phối trọn vẹn tư tưởng,
lời nói và hành động của chúng ta.
Nt. Mary Nguyễn Hòa – MTG Qui Nhơn
Dẫn nhập
Nhìn lại hành trình đón nhận Tin Mừng của cha
ông chúng ta cũng như công sức nỗ lực truyền giáo của biết bao thừa sai trên
miền đất Việt Nam này, chúng ta chắc hẳn sẽ hãnh diện với thế giới vì những
thành quả đã đạt được: nào là ơn gọi tu trì trong các Chủng viện và Hội Dòng
vẫn là con số khá đông so với các nước Âu Mỹ; nào là tổ chức sinh hoạt trong
các xứ đạo, các ban bệ, hội đoàn được xây dựng, củng cố và đi vào sinh hoạt qui
mô, hoành tráng; nào là quang cảnh chuẩn bị cho các buổi đại lễ, các cuộc rước
sách, cung nghinh, đi kiệu với cờ lọng, trống phách, hội kèn, hội đoàn, biểu
ngữ đầy màu sắc rực rỡ và long trọng. Chúng ta không thể phủ nhận hay chối rằng
những tổ chức và sinh hoạt như thế không góp phần làm cho đời sống đức tin được
nuôi dưỡng và tăng trưởng.
Tuy
nhiên, đôi khi những yếu tố tùy phụ này lại bị lợi dụng biến thành những yếu tố
chính yếu trong các nghi lễ mang tính thánh thiêng và chiều sâu nội tâm, “lễ
nghi” đã trở thành “lễ hội” trần tục hơn là thể hiện và biểu lộ đức tin trưởng
thành và chân thực của con người, một cái gì đó mang tính cách giữ đạo hơn là
sống đạo. Không biết đó là tín hiệu vui hay buồn bởi khi thực tế đi vào chiều
sâu nội tâm của đời sống đức tin người giáo dân Việt Nam, cho thấy chúng ta hơi
quá mải lo chuẩn bị cho những công việc tổ chức mang nặng tính hình thức bên
ngoài và cứng nhắc, thậm chí có thể nói là khoa trương, xa hoa, lãng phí. Sẽ được gì khi đằng sau những lễ nghi long trọng
này là những lời gièm pha, ghen tỵ, hận thù, lên án, tranh chấp và cấu xé nhau
không đượm chút nào men Tin Mừng.
Mục
đích quan trọng đưa con người tiến lại gần Thiên Chúa, hiệp thông với Ngài và
luôn ý thức đặt Ngài làm tâm điểm đời sống tâm linh cũng như đời sống hiệp nhất
huynh đệ với tha nhân lại bị lãng quên nhường chỗ cho những hào nhoáng, tiếng
khen ngợi, những lời trầm trồ tán thưởng từ người đời. Thế thì chẳng lạ lẫm gì
khi nhận thấy niềm tin của người Kitô hữu nông cạn, hời hợt, thiếu chiều sâu,
kém bền vững, một niềm tin dị dạng và chắp vá. Điều đó cũng tạo nên những
nguyên nhân làm cho đức tin người tín hữu khủng hoảng, chao đảo và ngày một
giảm sút nghiêm trọng, đặc biệt trong thế giới tục hóa và toàn cầu hóa này: một
thế giới đang xa rời Đức tin, mất cảm thức về Thiên Chúa, không còn nhận thấy
sự cần thiết của Thiên Chúa trong đời sống của mình, không nhận thấy bàn tay
quan phòng của Thiên Chúa trong những biến cố của đời sống gia đình, cộng đoàn
mình... Sống, củng cố và loan truyền Đức tin trong bối cảnh xã hội ngày hôm nay
của người tín hữu Kitô chẳng phải là một việc làm rất cấp thiết đó sao?
1.
Nhận định về thực
trạng sống đạo dựa vào luật lệ và tổ chức sinh hoạt đình đám
Có lẽ từ lâu văn hóa lễ hội đã in sâu trong tâm thức của bao
thế hệ dân Việt, nơi đây đã trở thành điểm quy tụ cộng đồng con người tìm lại
tinh hoa của nhân loại và những giá trị tinh thần. Hơn
bao giờ hết con người càng có nhu cầu hướng về nguồn cội của mình. Người
Việt Nam vốn đã có cảm thức bẩm sinh về tâm linh và tố chất “ thiêng”, cảm thức
tôn giáo hơi thiên về tình cảm, nên việc tổ chức những buổi lễ diễn tả niềm tin
của mình đôi lúc trở thành rườm rà, dài
dòng. Cùng với sự phát triển về mọi mặt của xã hội, lễ hội truyền thống văn hóa
dân tộc được tổ chức đó đây từ miền xuôi lên miền ngược, thành thị hay làng quê
với cách thức tổ chức ngày càng qui mô hơn, số người đến tham dự cũng tăng lên
đáng kể. Thử nhìn lại những lễ hội cổ truyền của dân tộc như Lễ Hội Chùa Hương,
Lễ Hội Hùng Vương, Lễ Hội Quan Thế Âm…, khơi lại trong lòng mỗi người dân Việt
những giá trị văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc cùng với những nét tinh hoa thâm
thúy.
Không có gì để nói nếu chỉ dừng lại ở những điểm tích cực
này, điều đáng nói ở đây các nét đẹp này đã bị nhiều người hiểu sai và bóp méo
làm cho nó biến dạng không còn như trước nữa, đó là hiện trạng đầy dẫy bao hành
động, hình ảnh phản cảm đã khiến nhiều người phàn nàn nhiều trên các phương
tiện truyền thông đại chúng. Những dòng suy tư trong bài viết “Liệu có nên chăng” của Ngô Quốc Đông[1] về
hiện trạng các nơi tổ chức các lễ hội truyền thống văn hóa dân tộc xem ra cũng
đau thật, như một câu hỏi tự chất vấn lương tâm mỗi người. Du khách thì tự chất
vấn xem mình đến những chốn linh thiêng này mục đích thành tâm hay chỉ vì tò
mò, hiếu kỳ; hay với những người với trách nhiệm tổ chức thì tự chất vấn rằng
mình tổ chức khuếch trương thanh danh lễ hội vì để mang lại cho con người những
giá trị tinh thần cao quý và bổ ích hay để thu hút nhiều người đến dự, càng
đông càng thu được nhiều tiền.
Thực tế có quá nhiều biến tướng, nhiêu khê ở các lễ hội,
đình, đền, chùa, miếu: nào là động vật hoang dã
được xẻ thịt treo đầy dọc hai bên lối vào Chùa Hương; nào là nạn sư
giả, cò mồi, lừa đảo... Bên ngoài thì hàng quán tranh thủ “chặt, chém”, bên trong thì người ta chen
lấn xô bồ
bát nháo; giẫm đạp lên nhau để đặt đồ lễ, giành ấn, xin thẻ; nào là cảnh “cướp
lộc, cướp ấn” tại Đền Trần Nam Định vào ngày rằm tháng Giêng hay
bỏ tiền ở những nơi nổi bật để dễ bề lọt mắt người cõi trên. Ai chậm chân thì
rải tiền lẻ mới cúng ra bất cứ chỗ nào có thể rải được để mong thần thánh thấy
tiền mà động lòng để ý đến. Dường như con người đang biến cõi linh thiêng thành
cõi phàm trần với đủ mùi tục lụy. Tín ngưỡng dân
gian đang bị mất đi tính chất thiêng liêng nhường chỗ cho một thứ lễ
hội bát nháo, nhuốm màu mê tín dị đoan và trần tục.
Nhìn người mà nghĩ đến ta, không chừng chúng ta cũng tổ chức
đời sống Đức Tin Công Giáo của mình trên những hình thức cử hành lễ nghi phụng
vụ đầy hình thức phô trương, rầm rộ nhưng lại thiếu cả chiều sâu lẫn tình yêu.
Có thể nói được rằng về mặt lễ nghi và tổ chức đời sống tâm linh thì khó có tổ
chức nào qua mặt được Giáo Hội Công Giáo: các nghi lễ khai mạc được tổ chức
long trọng từ cấp lớn đến cấp nhỏ, có thứ tự; biểu ngữ, logo cũng được treo
khắp nơi từ các Thánh Đường đến từng gia đình như phương tiện nhắc nhở thêm
trong sinh hoạt đức tin; các tài liệu hướng dẫn về chủ đề học tập, suy niệm và
sống đã được biên soạn công phu và cho phổ biến trong từng thành phần Dân Chúa.
Nếu có dịp ngồi lại, suy xét thái độ sống đạo của những người thân, những người
chúng ta có dịp tiếp xúc hoặc chính bản thân chúng ta, chúng ta cũng phần nào
hãnh diện về đời sống đạo đức tuy bình dân nhưng phảng phất tấm chân tình của
chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta muốn tận dụng tất cả: thời gian, sức khỏe,
tiền bạc, công sức để tham gia đều đặn và tích cực vào những sinh hoạt đạo đức
này nhưng cũng không khỏi ưu tư một đời sống đạo đức này có bất cập hay thái
quá lắm không? Có người vừa đọc kinh
trong hội các bà mẹ Công Giáo xong, lại vội vã đến đọc kinh lòng Chúa thương
xót. Đọc kinh lòng Chúa thương xót chưa xong thì lại vội cho mau để đến kịp với
Hội đọc kinh Phạt tạ. Có nghĩa là suốt ngày cuộc đời họ là một chuỗi kinh kệ
thật dài dòng với suy nghĩ càng đọc kinh nhiều càng tốt, không đọc nhiều là kẻ
“khô đạo”.
Bên cạnh đó, cũng không ít người tỏ ra bối rối và thấy có lỗi
khi mình không tham gia tất cả các giờ kinh, các hội đoàn như những người khác
trong khi hoàn cảnh của mình không cho phép. Đứng trước những tâm hồn này,
chúng ta không có quyền lên án cũng không biết gì để nhận xét cho chính xác,
nhưng xem ra những cách thực hành đạo đức thái quá này liệu có phải là khung
tiêu chuẩn đưa ra khiến nhiều người lệ thuộc vào nó như một cái máy, một thói
quen chăng? Có mang lại cho họ niềm tin bền vững không hay sau những giờ kinh
ấy đời sống đức tin của họ vẫn trống rỗng như trước? Liệu khi đối diện với khó
khăn, thử thách trong niềm tin họ có áp dụng được lời kinh mình đọc vào trong
cuộc sống để can đảm vượt qua chăng? Một khi chỉ đặt niềm tin của mình đánh
cược với những giá trị vật chất thì niềm tin này không sớm thì muộn cũng chao
đảo, khủng hoảng và suy thoái trầm trọng. Trong bài tham luận của linh mục
Phêrô Mai Viết Thắng về đề tài “Giáo dục nhân bản- đức tin” có nêu lên cho cả
hội nghị những trường hợp cũng đáng chúng ta suy nghĩ thật, thường hay gặp
trong những dịp tổ chức các nghi lễ long trọng chẳng hạn trong tuần thánh, có
vài giáo xứ tổ chức ngắm nhân tài, không hẳn người lên ngắm ai cũng chú tâm vào
việc suy ngắm sự thương khó của Chúa, đôi khi cũng có người hơi thực dụng một
chút: chú tâm tới giải thưởng.
Hay có nơi tổ chức thi trang trí và rước kiệu, sau đó vì
không đoạt giải, họ đã xông vào bẻ nát kiệu trước mặt giám khảo. Cũng tại giáo
xứ khác trong nghi thức hôn Thánh Giá vào ngày thứ 6 Tuần Thánh, người ta cũng
tranh nhau chen lấn, giẫm đạp lên những người già và trẻ em để mong cho được
phần mình hôn Thánh Giá, cũng rầm rầm, bát nháo chẳng khác một lễ hội trần tục.
Còn gì nói đến là nhường nhịn, là hy sinh, là yêu thương, bác ái … Quả là những sự thật đau lòng.
Công đồng Vatican II, sắc lệnh về chức vụ và đời sống Linh
Mục viết:
Những
nghi lễ dù đẹp mắt, những hội đoàn dù phát triển rầm rộ cũng không có ích bao
nhiêu, nếu chúng không hướng về việc giáo dục con người đạt tới sự trưởng thành
Kitô giáo. Để đạt đến sự trưởng thành đó, các linh mục phải giúp họ sáng suốt
nhận ra trong các biến cố lớn nhỏ, đâu là việc phải làm, đâu là ý Chúa muốn (LM 6).
Nếu có niềm tin chân
chính và vững vàng, con người sẽ phân định được đâu là điều Chúa muốn, đâu là ý
con người để có những hành động đẹp hơn, phù hợp với đường lối của Chúa hơn và
sẽ cư xử với tha nhân với tình yêu thương, sẻ chia và bác ái hơn. Phần lớn, đời
sống đức tin của người tín hữu Công Giáo đều được diễn tả qua Phụng vụ. Việc cử
hành phụng vụ đóng vai trò không nhỏ trong Mầu Nhiệm Đức Tin.
2. Phụng vụ giúp khám phá
và bảo vệ các chân lý Đức tin
và bảo vệ các chân lý Đức tin
Việc cử hành phụng vụ là việc cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô,
một việc quan trọng và không thể thiếu trong đời sống của Hội Thánh từ thời các
Tông Đồ (x. Cv 2). Trong đó, cử hành
Thánh Thể chiếm giữ vị trí trung tâm vì Thánh Thể là “nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo” (LG 11). Khi
cử hành Phụng vụ, người Kitô hữu lãnh nhận các bí tích đòi buộc phải có đức tin đồng thời các bí tích
nuôi dưỡng, củng cố và diễn tả đức tin qua các lời đọc và những nghi thức. Kho
tàng đức tin được khám phá.
a. Kho tàng Đức tin được khám phá qua cử
hành Phụng vụ
Truyền thống Giáo
Hội đón nhận Phụng vụ như là một trong các nguồn mạch của Đức tin. Nơi Phụng
vụ, thần học tìm được các lý chứng để trình bày Đức tin Kitô giáo. Có 3 khía
cạnh cơ bản của Phụng vụ giúp chúng ta khám phá Đức tin của Giáo Hội.[2]
Cử hành phụng vụ chính
là cử hành các Mầu nhiệm Đức tin. Chứng từ hữu hình để mọi người có thể biết
Đức tin Kitô giáo là gì, đó là tham dự các cử hành Phụng vụ. Phụng vụ cử hành
các Mầu nhiệm Đức tin trước khi Đức tin này được suy luận cách hệ thống và khoa
học.
Phụng vụ là hành động biểu lộ Đức tin sống
động. Hành động này giả thiết phải có chủ thể và đối tượng của hành động. Chủ
thể hành động trong phụng vụ là Chúa Kitô và Giáo Hội. Nhờ sự hiện diện của
Chúa Kitô và Giáo Hội mà chương trình cứu độ của Thiên Chúa được hiện tại hóa
và kéo dài cho đến tận thế. Đối tượng của Phụng vụ là Mầu nhiệm Vượt Qua. Từ
Mầu nhiệm này con người khám phá ra các Mầu nhiệm khác như là chân lý của đời
sống Đức tin Kitô giáo. Hành động cứu độ của Thiên Chúa đạt đến sự hoàn tất
trong biến cố Thiên Chúa trao ban Con Một yêu dấu và Thánh Thần của Ngài. Chúa
Kitô hoàn tất công trình cứu độ qua cuộc khổ nạn thập giá, sự sống lại và lên
trời vinh hiển, vì nhờ đó, Người đã chết để tiêu diệt sự chết và sống lại để tái
lập sự sống cho nhân loại. Và qua mọi thời đại, trong quyền năng Chúa Thánh
Thần, cử hành các bí tích, nhất là cử hành Thánh Lễ, tái hiện công trình cứu độ
của Chúa Kitô, để nhờ đó ơn cứu độ được tiếp tục chuyển ban cho các Kitô hữu.
Khi
quy tụ để cử hành Phụng vụ bí tích, cộng đoàn diễn tả và công bố Đức Tin sống
động của mình vào ơn cứu độ Thiên Chúa thương ban cho con người. “Khi cử hành
các bí tích, Hội Thánh tuyên xưng Đức tin đã lãnh nhận từ các Tông Đồ, do đó có
ngạn ngữ: cầu nguyện thế nào, tin thế ấy. Luật cầu nguyện là luật Đức tin, Hội
Thánh tin như Hội Thánh cầu nguyện. Phụng vụ là một yếu tố cấu thành truyền
thống thánh thiện và sống động của Hội Thánh. (GLHTCG, 1124). Việc biểu lộ Đức
tin của Hội Thánh được diễn tả qua các lời cầu, các cử hành bí tích, các tác
động phụng vụ… mà Giáo Hội biểu lộ Đức tin công khai của mình vào các Mầu nhiệm
cứu độ. Bên cạnh đó, việc biểu lộ Đức tin trong Phụng vụ cũng nhằm biểu lộ Đức
tin cá nhân của từng thành viên trong Giáo Hội, nghĩa là sau khi đã đón nhận chân
lý Đức tin khách quan qua Giáo Hội, mỗi tín hữu còn biểu lộ Đức tin đó bằng xác
tín cá nhân qua lời nài xin, niềm trông cậy và thái độ tin tưởng của mình. Châm ngôn “Lex orandi lex credendi” vừa
mang ý nghĩa phổ quát với đời sống phụng vụ toàn Giáo Hội, vừa biểu lộ đời sống
kinh nguyện của mỗi cá nhân. Tin làm sao Giáo Hội cử hành như vậy, tin làm sao
người tín hữu biểu lộ ra bên ngoài thế ấy.
Phụng
vụ là sự sống cho Đức tin. Đức tin được biểu lộ qua cử hành phụng vụ, đồng thời
Phụng vụ cũng còn làm cho Đức tin được bén rễ sâu và triển nở trong cuộc sống.
Sự sống mà Phụng vụ trao ban xuất phát từ Thiên Chúa, vì thế khi con người tham
dự Phụng vụ, sự sống được trao ban không những ở đời này, mà còn bảo đảm cho sự
sống vĩnh cửu mai sau. Giáo huấn của Giáo Hội dạy: “Khi cử hành phụng vụ, Giáo
Hội nhận được bảo chứng gia nghiệp Chúa Kitô, được dự phần vào đời sống vĩnh
cửu, đang khi đợi chờ ngày hồng phúc, Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ngự đến”
(LHTCG số 1130).
b.
Phụng vụ và việc bảo vệ chân lý Đức tin
Phụng
vụ không những diễn tả Đức tin cách tinh tuyền theo truyền thống Giáo Hội, mà
còn là cách bảo vệ Đức tin khỏi các giáo thuyết sai lạc. Rất nhiều lời nguyện
trong Phụng vụ xuất hiện từ bối cảnh chống lại các lạc giáo, chẳng hạn nhiều
lời kêu cầu Chúa Kitô trong tư cách là Thiên Chúa chống lại giáo phái Ariô. Có
lời kinh thuở ban đầu không được dùng trong Phụng vụ, nhưng sau đó trở nên dấu
chỉ bảo vệ và tuyên xưng đức tin công khai trước các lý thuyết sai lầm, chẳng
hạn Kinh Tin Kính. Việc bảo vệ chân lý đức tin không chỉ là canh giữ khỏi sai
lạc, mà còn là quảng bá và làm cho Đức tin chân chính thấm nhập vào thế giới,
ngay cả trong những nơi sai lạc. Vì thế khi cử hành Phụng vụ đúng điều Giáo Hội
quy định, cử hành trong nghiêm trang, tham dự cách sốt sắng và tích cực… vừa là
cách loại trừ những xuyên tạc về Đức tin có thể xảy ra, vừa là cách làm cho
chân lý đức tin được rạng tỏ trong thế giới hôm nay.
3. Huấn luyện và cử hành Đức tin của người
tín hữu, đặc biệt là tu sĩ trong thế giới tục hóa và toàn cầu hóa
a.
Sống Lời Chúa
Thế
giới tục hóa và toàn cầu hóa, những trào lưu thế tục, lực hút của đồng tiền,
lôi kéo con người cuốn theo những dòng đời xô đẩy, có khi đời sống Đức tin cũng
dần bị mờ nhạt và lãng quên, hoặc trôi qua như một nguyên tắc cứng nhắc trong
cuộc sống và không được “chăm sóc, nuôi dưỡng”. Đời sống đạo trở thành một lối
sống hình thức, máy móc, bề ngoài thiếu chiều sâu nội tâm và lòng mến thực sự,
các thánh đường ngày một vắng bóng giáo dân, các lời kinh ngày một thưa dần
trong các giáo xứ, giáo họ, nơi các gia đình Công giáo. Lời Chúa ngày một xa
dần với người Kitô hữu, hơn hết là các bạn trẻ.
Năm Đức Tin là cơ hội cho mỗi Kitô
hữu nhìn lại vai trò của mình trong việc thực hành Đức tin. Nếu chỉ tin mà
không hành động thì niềm tin không có giá trị gì cho người tin, điều họ tin
không ảnh hưởng gì trên cuộc sống của họ. Trái lại, nếu sống mà không có niềm
tin thì cuộc sống sẽ trở nên vô vọng, mất định hướng. Đức tin là cửa luôn mở
sẵn dẫn con người vào Hội Thánh và hiệp thông với Thiên Chúa để được tham dự
vinh quang của Chúa Giêsu, được hạnh phúc muôn đời (x. Porta Fidei, 1). Nhưng
Đức tin cần được tái khám phá, vì ngày nay xã hội đang xa rời Đức tin và nhiều
Kitô hữu cũng đang bị khủng hoảng Đức tin (x. Porta Fidei, 2). Đức tin phải
được sống và củng cố vì đó là Giáo huấn và là lời mời gọi của Chúa Kitô vì tin
vào Ngài là đường chắc chắn đạt tới ơn cứu độ ( x. Porta Fidei, 3). Niềm tin
này cần trải qua sự huấn luyện liên lỉ và hệ thống để có đường hướng cụ thể, rõ
ràng. Đường hướng sống đạo mà Đức Chân Phước Gioan Phaolô II vạch ra cho Giáo
Hội và cho mỗi Kitô hữu là sống Lời Chúa,
Thánh Thể, cầu nguyện và bác ái huynh đệ, được xem như là lẽ sống của Giáo
Hội nói chung và mỗi Kitô hữu nói riêng. Nhưng làm thế nào để Lời Chúa đến được
và thấm nhập với chúng ta, làm thế nào để Thánh Thể và Thánh Lễ trở thành nguồn
mạch thần linh nuôi dưỡng chúng ta trên đường lữ hành trần thế. Làm thế nào để
đời sống cầu nguyện trở thành sức thiêng giúp con người vượt qua cam go, thử
thách. Và làm thế nào để đức ái được tỏa sáng nơi hành động cụ thể của đời sống
người Kitô hữu???
Đây phải chăng là trách nhiệm và bổn phận của mỗi một người trong Giáo
Hội, cách riêng với vai trò là những người tu sĩ trong thế giới tục hóa và toàn
cầu hóa này ?
Trong bối cảnh xã hội hôm
nay, con người chạy theo các trào lưu sống hưởng thụ, duy vật chất, vô thần,
chủ nghĩa khoái lạc… trong đó phải nói là không ít người tín hữu Công Giáo bị
tha hóa biến chất, bị lôi cuốn vào vòng xoáy của tệ nạn xã hội, xa rời Thiên
Chúa, đánh mất Đức tin hay có sống đạo thì cũng là khô khan, hời hợt chẳng khác
nào những người không có Đức tin, họa chăng là họ chỉ đến nhà thờ trong ngày Lễ
Giáng Sinh vì không khí tổ chức vui vẻ, long trọng. Có lẽ ai trong chúng ta
cũng thắc mắc nguyên do vì sao? Tại sao trong hoàn cảnh như bây giờ, đời sống
kinh tế đa phần các gia đình cũng ổn định, mặc khác đang sống trong thời hòa
bình, không chiến tranh, loạn lạc nhưng niềm tin lại chẳng được một phần của
cha ông thời xa xưa, bị bắt bớ đạo.
Chân thành mà nói, vì môi trường gia đình không là mảnh đất
tốt cho hạt giống Đức tin được vươn lên và phát triển, gia đình là môi trường
thuận lợi và tốt nhất để phát triển: nhiều người được lớn lên trong gia đình
Công giáo nhưng cha mẹ chỉ nhắm đến việc học văn hóa, lơ là trong giáo dục nhân
bản và đức tin cho con cái, đặc biệt là
cộng tác với Giáo xứ để giúp cho con em học giáo lý đầy đủ. Vì không được chuẩn
bị những kiến thức cần thiết về nhân bản, thiếu hiểu biết về giáo lý, Đức tin
chưa kịp đâm rễ, chưa biết phân định về luân lý… nên đời sống đạo cũng hời hợt
và nông cạn, thậm chí trở nên máy móc, hình thức và mù quáng về niềm tin nên
khi bị chất vấn và bắt bẻ, họ cảm thấy chới với và lung lạc. Bên cạnh đó, chính
bản thân cha mẹ cũng lo mải mê với việc mưu sinh, chẳng bao giờ đến nhà thờ,
xao nhãng các việc đạo đức, dần dần xa rời đời sống Đức tin.
Đã
đến lúc phải nhìn thẳng và nhìn thật vào việc sống đạo của chúng ta, cách thức
tổ chức các buổi lễ lạc, rước sách linh đình, kinh kệ dài dòng. Nếu những việc
làm này không xuất phát từ Thần Khí và từ sự thật, thì nó chỉ làm cho Thiên
Chúa tức giận “Dân này thờ kính Ta bằng
môi miệng, còn lòng chúng thì xa Ta” ( Mt 15, 8). Ở đây không có ý chối bỏ
hay loại trừ những việc tổ chức bên ngoài. Những dịp tổ chức như thế là những
cơ hội và là môi trường tốt giúp cho người tín hữu hăng hái, phấn khởi và đi
vào chiều sâu tương quan với Chúa, yêu mến và gắn bó với Chúa hơn đồng thời là
dịp tỏa sáng niềm tin cho đồng loại chứ không phải chỉ dừng lại ở những giải
thưởng, những tổ chức rầm rộ cốt để được tiếng khen, được nhiều người biết đến.
Hiện
tại Giáo Hội Việt nam đang sống động nhưng cần phải chuẩn bị để đương đầu với
những thách đố từ bên ngoài như chủ nghĩa duy vật chất, chạy theo tiền bạc… Như
trả lời cho đại diện trang Web Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Đức Hồng Y Oswald
Gracias, Chủ Tịch FABC đã cho biết: Giáo Hội tại Việt Nam cần tập trung vào
việc huấn luyện Đức tin, mọi người cần hiểu biết về Tin Mừng nhiều hơn, tham dự
Phụng vụ cách sống động hơn[3]. “Cử hành Đức tin” một cách có ý nghĩa, đó là một
trong những thực hành cụ thể được Hội đồng Giám mục Việt Nam đề
nghị trong năm Đức tin này. Canh tân
phụng vụ, đó cũng là lời mời gọi của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI:
Năm Đức tin sẽ là một cơ hội thuận lợi để tăng cường việc
cử hành đức tin trong phụng vụ, nhất là trong phép Thánh Thể, vốn là chóp đỉnh
mà hoạt động của Giáo hội hướng tới, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào sức mạnh
của Giáo hội.[4]
Là phần tử trong gia đình Giáo Hội đang đứng trước thảm
cảnh Đức tin ngày càng suy giảm và khủng hoảng trầm trọng, người viết xin nêu
lên vài tư tưởng nhỏ tự thân thấy cần thiết cho việc huấn luyện và cử hành Đức
tin để thanh luyện và củng cố Đức tin cho chính mình đồng thời có sứ mạng loan
truyền cho người khác trong thế giới nhiều đổi thay này.
Năm
Đức tin được khai mở là dịp tốt để Giáo Hội mời gọi con cái mình củng cố Đức
tin, đặc biệt trong việc lắng nghe, sống Lời Chúa “Chúng ta phải tìm lại sở thích nuôi dưỡng mình bằng Lời Chúa được Hội
Thánh trung thành truyền lại”.[5]
Tông Đồ Phaolô diễn tả mối liên hệ giữa Đức tin và Lời Chúa: “Có Đức tin là nhờ nghe giảng mà nghe giảng
là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10, 17). Kinh nghiệm ấy là kinh nghiệm
của toàn thể Hội Thánh khi đọc và suy niệm Lời Chúa. Điều
cần nói ở đây là cần dồn nhân và tâm lực vào việc học hỏi và suy niệm Lời Chúa,
đặc biệt là các lớp học hỏi về Thánh Kinh. Một khi hiểu sai lạc về Đức tin và
việc hành đạo, chúng ta lại thực hành các hình thức sống đạo có vẻ bề ngoài,
hình thức kinh kệ rườm rà, rước sách đình đám không cần thiết. Chỉ có thể sống
đạo cách trưởng thành và sống động qua việc gặp và sống ý nghĩa Lời Chúa.
Quả thật, Chúa Giêsu là “Lời Nhập Thể” của Thiên Chúa và sứ điệp Tin Mừng của
Ngài là bày tỏ tình thương và ý định cứu độ của Thiên Chúa. Ngài kêu gọi mọi
người “sám hối và tin” (Mc 1, 14) để được cứu rỗi. Chính lời rao giảng của Ngài
đã khơi dậy đức tin người nghe, đưa họ đến với Thiên Chúa, Đấng là Cha yêu
thương cứu độ con người, đồng thời giúp họ nhận ra ý nghĩa cuộc sống làm người và
làm con Thiên Chúa.
Vậy khi
đến gặp Người, dân Samari xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại với họ hai
ngày. Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ:
không còn phải vì lời chị kể lại mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã
nghe và biết rằng Người thật là Đấng Cứu Chuộc trần gian (Ga 4, 40 –
42).
Các
Tông Đồ đã nhận lãnh từ Chúa Giêsu sứ mạng rao giảng Lời để khơi dậy Đức tin “ Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan
báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo…” (Mc 16, 15) và các ngài đã ra đi khắp
nơi để rao giảng cho mọi người nhận biết và yêu mến Chúa. Tiếp nối truyền thống
các Tông Đồ, biết bao chứng nhân của Chúa Kitô đã ra đi khắp nơi để rao giảng
Lời Chúa. Phần còn lại là việc lắng nghe và sống Lời Chúa của mỗi Kitô hữu. Tuy
nhiên không thể tự đọc mà hiểu đúng Lời Chúa trong Kinh Thánh, vì thế cần thiết
phải tham dự Thánh Lễ để được nghe và giải nghĩa Lời Chúa qua các bài đọc, đặc
biệt là Tin Mừng. Cũng có thể tham dự các lớp học hỏi về Kinh Thánh để được hướng
dẫn rõ ràng hơn. Đọc Lời Chúa hằng ngày là trò chuyện với Thiên Chúa, chiêm
ngắm khuôn mặt của Ngài trong Đức Tin, Cậy, Mến. Đọc Lời Chúa hằng ngày là hiểu
được ý định của Chúa muốn gì trong cuộc đời ta, là chia sẻ với Chúa những vui
buồn trong cuộc sống trần thế, là tìm được động lực thúc đẩy quyết tâm hơn
trong đời tận hiến “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là
ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv. 118, 105). Nhờ năng suy niệm Lời Chúa người
tu sĩ có thể dễ dàng nhận ra và đón nhận những nghịch cảnh, hiểu lầm trái ý từ
Bề Trên và chị em; những va chạm trong đời sống chung không làm cho họ cảm thấy chao đảo, khủng hoảng và thậm
chí đánh mất ơn gọi của mình.
Mặt khác, việc sống Đức tin
không phải chỉ dành cho cá nhân, nhưng cùng với anh chị em thăng tiến trong
Đức tin để tất cả cùng được hưởng ơn cứu độ vĩnh cửu. Nắm giữ vai trò cộng tác
với giám mục và linh mục trong việc huấn giáo, người tu sĩ cần tận dụng khả
năng và điều kiện thuận lợi để trau dồi vốn Kinh thánh, giáo lý, giúp các tín hữu học hỏi biết về Đức Giêsu,
Đấng Cứu Độ duy nhất, có thể đặt trọn cuộc đời và phó thác cuộc sống trong Tình
Yêu của Ngài. Vậy công việc giáo dục Đức tin trong
thời đại này quả là cấp thiết, không những với những người làm công tác
đào tạo như các giám mục, linh mục, tu
sĩ, mà bổn phận và trách nhiệm cho mỗi Kitô hữu, mỗi người sẽ thực hiện trong
khả năng và cố gắng của mình.
b. Sống Thánh Thể
Hành trình Đức tin của người tín hữu là hành
trình kéo dài suốt đời, trong đó được khởi đầu với Bí tích Thánh Tẩy, hiệp
thông trọn vẹn với Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Hành
trình này mời gọi con người sống rõ nét và triệt để : “Bước theo Chúa Giêsu với Lời Chúa qua Bí tích Thánh Thể, trong Nhiệm
Thể Chúa Kitô”. Người Kitô hữu dấn
thân bước theo Chúa Giêsu, chìm ngập và kín múc nguồn sức sống làm lương thực
nuôi dưỡng đời sống Đức tin qua bí tích Thánh Thể; làm trổ sinh nhiều hoa trái
của ơn cứu độ là tham dự vào sự sống vinh quang của Thiên Chúa, đích điểm của
hành trình dài trong đời sống Đức Tin. Chính Đức tin vừa là ân ban của Thiên
Chúa vừa là sự đáp trả tự do của con người với tất cả lòng tín thác và yêu thương vào Đức Giêsu Kitô bởi
Đức Kitô là tâm điểm Đức tin Kitô Giáo. Qua Đức Kitô, con người gặp được Thiên
Chúa và tìm được ý nghĩa cho cuộc đời mình. Con người đặt niềm tin khi chấp
nhận mở lòng đón nhận Thiên Chúa và phó thác cho Tình Yêu của Người.
Đức tin là một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa,
Đấng nâng đỡ và hứa ban cho chúng ta sự sống vĩnh cửu. Đó cũng là tín thác vào
Thiên Chúa với thái độ của một trẻ nhỏ, biết rõ rằng tất cả những khó khăn, tất
cả những vấn đề của mình đều được an toàn trong tay của người mẹ.[6]
Điều diễn tả Đức tin cụ thể là khi con người tham dự vào
việc cử hành Phụng vụ. Xây nền trên Đức tin, Phụng vụ phải được cử hành
trong sự tuân phục kỷ luật của Giáo hội. “Mầu nhiệm Thánh Thể
quá cao trọng đến nỗi không ai được cảm thấy tự do hành động cách
tùy tiện và xem nhẹ tính thiêng thánh và chiều kích phổ quát của
nó”. Phụng vụ Thánh Thể cho ta tham dự vào Hy tế của Chúa Kitô, Hy tế do
chính Ngài dâng để đem ơn cứu độ đến cho toàn thể nhân loại. Thật vậy, Chúa
Kitô hằng hiện diện mỗi khi Giáo Hội thi hành lệnh truyền của Ngài “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”.
Sự hiện diện của Ngài làm cho Hy Tế Thánh Thể mang giá trị cứu độ. Ngài hiện
diện nhờ sự biến đổi bánh và rượu nên Mình và Máu Ngài. Niềm tin Giáo Hội khẳng
định sự biến đổi này được thực hiện nhờ sức mạnh của Lời Ngài “Này là Mình Thầy, Này là Máu Thầy” mang
lại hiệu quả đích thực và nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần” (GLHTCG 1475).
Người tín hữu đến với Thánh Thể qua Thánh Lễ để đón nhận
Tình Yêu Chúa trao ban và đem Tình Yêu ấy cho những người mình có dịp tiếp xúc.
Đặc biệt với người tu sĩ luôn tâm niệm, tình yêu của mình chắc chắn không hoàn
hảo khi dâng hiến cho Thiên Chúa, nhưng nhờ ân sủng của Ngài mà mỗi ngày hoàn
thiện hơn khi tiếp xúc với Chúa Giêsu Thánh Thể. Người tu sĩ ý thức rằng tinh
thần của mình yếu đuối, dễ vấp ngã giữa thế
giới tục hóa nhiều thách thức và cạm bẫy này, nhiều lúc làm giảm lòng mến cũng
như sự nhiệt tình dấn thân nơi các tu sĩ, họ cũng muốn được hưởng thụ nhiều
nhưng không muốn chia sẻ cho người khác. Nếu không đến với Chúa Giêsu Thánh
Thể, thì không thể đạt tới sự trưởng thành trong đời sống tu trì giữa xã hội đầy
biến động này. Đặc biệt đến với Thánh Thể, người tu sĩ cảm nghiệm được sự bình
an nội tâm, niềm vui và hạnh phúc vì có Chúa là Đấng luôn đỡ nâng và đồng hành
với mình trong mọi biến cố cuộc sống. Điều cần thiết cho mỗi một tu sĩ là luôn
nhớ gắn bó với Chúa Giêsu Thánh Thể, đặc biệt là trung thành với những giờ
Viếng Thánh Thể như Luật Dòng đã ấn định, không phải làm vì “sợ luật” hay giữ luật “cứng ngắc” nhưng với tinh thần yêu mến
và tự nguyện. Có như thế chắc chắn sẽ vượt qua những khó khăn và thử thách
trong cuộc sống.
c. Sống đời cầu nguyện
Cầu
nguyện thật sự không phải là cách đọc kinh rang rang ngoài miệng mà trong lòng
chẳng suy, chẳng còn đọng lại chút gì về điều Chúa muốn dạy bảo ta thi hành.
Cũng chẳng phải là cách mà bấy lâu nay thói quen đạo đức ta hay làm: đọc càng
nhiều kinh thì được coi là đạo đức và thật sự cầu nguyện.
Sách
Giáo lý Hội Thánh Công Giáo nhắc nhở ta rằng: “Phụng vụ của Giáo Hội liên kết
các tín hữu trong đời sống mới của cộng
đoàn và đòi hỏi phải có một sự tham dự có ý thức, tích cực và đầy hoa trái của
mọi người” (GLHTCG, 1071). Một cách thức quan trọng để ta hoàn thành lời
kêu gọi tham dự vào phụng vụ của Giáo Hội là qua đời sống cầu nguyện trong phụng vụ, chúng ta sẽ nội tâm hóa, đem
tinh thần của Chúa dạy vào thực hành trong cuộc sống. Đặc biệt với người tu sĩ,
đời sống đạo đức thiêng liêng được thể hiện qua chiều kích chiêm niệm trong
việc lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, trong sự hiệp thông vào sức sống thần linh
được trao ban qua các Bí tích, và cách đặc biệt Bí tích Thánh Thể. Sống đời
sống nguyện cầu thật sự, người tu sĩ nhận ra Chúa nơi các biến cố vui buồn xảy
ra trong cuộc sống: những đau khổ trong thân xác vì bệnh tật; những ưu tư, khắc
khoải vì khó khăn gặp phải trong trách nhiệm được giao; những chán nản, thất
vọng vì các xung đột, căng thẳng trong đời sống huynh đệ cộng đoàn và vô vàn
vấn đề lớn nhỏ khác…
Trong
cầu nguyện thật sự, người tu sĩ đặt tất cả trước sự hiện diện nhiệm mầu của
Chúa với thái độ tôn thờ khiêm tốn và tin tưởng rằng Chúa sẽ thanh luyện mình
từ những biến cố rất tầm thường, dần dần với ơn Chúa, họ an tâm vượt qua tất cả
trong bình an nội tâm. Đức Bênêdictô XVI kêu gọi
chúng ta: “Hãy tìm cách làm cho việc
tuyên xưng Kinh Tin Kính một cách công khai trong Năm Đức Tin này” (x.
Porta Fidei, số 9). Chúng ta phải tăng cường việc cử hành Đức tin trong Phụng
vụ đặc biệt là trong Thánh lễ, vốn là nguồn mạch và tột đỉnh của đời sống Giáo
Hội và mỗi tín hữu (x. Vatican II, Hiến chế về Phụng Vụ, số 10). Ngoài ra, còn
có những việc cử hành Đức tin khác trong các nghi thức Phụng vụ, những việc đạo
đức như: tôn kính Đức Maria, gương mẫu của Đức tin; hành hương kính các thánh
Tử đạo, chứng nhân của Đức tin; cùng nhau đọc những kinh nguyện chung hay
riêng... Đức Thánh Cha cũng mời gọi cần cử hành Phụng vụ và những việc đạo đức
này với Đức tin và sốt sắng hơn, nhất là phải tránh những hình thức cử hành có
thể dẫn đến hiểu sai về Đức tin Kitô giáo. Trong Đức tin, việc thực thi
bác ái với tha nhân sẽ là tinh thần chia sẻ, cảm thông chứ không như là kẻ ban
phát, bố thí hay phô trương cho người khác biết việc đạo đức của mình.
d. Hướng đến trưởng thành trong Đức ái
Nhiều
người vốn mang não trạng thích tổ chức. Họ cứ mong sao đến những dịp đại lễ
Giáng Sinh, Phục Sinh, Bổn Mạng Giáo xứ, hội đoàn, Thánh Lễ tạ ơn, Lễ trao tác
vụ Linh Mục, Lễ Khấn Dòng của các tu sĩ… để có dịp tổ chức những cuộc rước sách
linh đình cho bằng các xứ bạn, lễ mừng phải ăn thật to, không ăn không thành
lễ. Đang khi đó, nhiều lúc lại vô tâm không nhận ra những nhu cầu mưu sinh, nhu
cầu sống còn mà anh em sống chung quanh mình đang đối diện: họ phải chật vật lo
lắng để có từng bữa cơm, bữa đói bữa no đối với họ là vấn đề thường ngày, phải
vật vã với cơn đau do những căn bệnh hiểm nghèo mà không có điều kiện để chữa
chạy, con cái họ phải “vào đời sớm”
kiếm sống vì làm gì có tiền để có thể đến trường học hành như chúng bạn… Thử
hỏi chính những lúc đến những buổi cử hành phụng vụ như thế, ai trong chúng ta
có thể chất vấn mình rằng: tôi đã sống niềm tin ngang qua việc thực thi Đức ái
với tha nhân đến mức nào?
Đời
sống con người càng nâng cao, tiện nghi đầy đủ thì nhu cầu hưởng thụ dường như đã
làm lu mờ nhãn quan con người khiến con người khó nhận ra hay không nhạy cảm
trước nỗi đau, khó khăn của anh chị em đồng loại. Chính trong chiều hướng đó,
Đức Giáo Hoàng tiền nhiệm Bênêdictô XVI đã khơi lên trong lòng mỗi người con
Giáo Hội qua lời mời gọi trong năm Đức tin này nỗ lực tăng cường thực thi đức
ái trong niềm tin của người Kitô hữu. Đức ái mà chính Thánh Phaolô, tông đồ dân
ngoại nhắc nhở: “Vì vậy giờ đây còn lại
ba điều là Đức Tin, Đức cậy và Đức Mến. Nhưng lớn hơn cả là Đức Mến (1Cr
13, 13). Và Thánh Giacôbê với những lời mạnh hơn nữa, thúc đẩy các tín hữu rằng:
Thưa anh em, ai
bảo rằng mình có Đức tin mà không hành động theo Đức tin, thì nào có ích lợi
gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che
thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại
nói với họ: hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no, nhưng lại không cho họ
những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, Đức tin không
có việc làm thì quả là Đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ
bảo: bạn, bạn có Đức tin; còn tôi, tôi có việc làm. Bạn thử cho tôi thấy thế
nào là tin mà không có việc làm, còn tôi, qua việc làm tôi cho bạn thấy Đức tin
của tôi (Gc 2,14-18).
Đức tin không có Đức mến sẽ chẳng
mang lại kết quả, còn Đức mến không có Đức tin, sẽ là một tình cảm luôn
phó mặc cho ngờ vực. Đức tin và Đức mến cần có nhau đến mức nhân đức
này giúp cho nhân đức kia thể hiện chính mình. Thực tế có nhiều Kitô hữu[7]
hiến đời mình để yêu thương những người cô thế, bị gạt ra ngoài lề, bị loại
trừ, coi họ là những người đầu tiên cần phải đến gặp và là những người chủ yếu
phải được nâng đỡ, vì nơi họ phản chiếu gương mặt của chính Chúa Kitô. Nhờ Đức
tin, chúng ta có thể nhận ra gương mặt Chúa phục sinh nơi những người đang mong
được chúng ta yêu thương: “Tất cả những
gì các con đã làm cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây,
tức là các con đã làm cho chính Thầy” (Mt 25, 40). Những điều Chúa nói
chính là lời cảnh báo không được phép quên, và là một lời mời gọi không ngừng
đáp lại tình yêu Chúa đã chăm sóc chúng ta. Chính Đức tin giúp nhận ra Chúa
Kitô và chính tình yêu của Chúa thôi thúc chạy đến cứu giúp Chúa mỗi khi Người
trở thành người thân cận của chúng ta trên nẻo đường cuộc sống.
Được Đức tin nâng đỡ, với niềm hy
vọng chúng ta hãy nhìn đến công cuộc dấn thân của chúng ta trong thế giới,
trong khi chờ đợi “trời mới đất mới, nơi
công lý ngự trị” (2 Pr 3, 13; x. Kh 21, 1). “Đức tin không có việc làm là
đức tin chết ( x. Gc 2, 17), một lối thực hành Lời Chúa bằng việc làm cụ
thể chứ không phải của kẻ phụng thờ Chúa bằng môi miệng hay bằng lời nói suông.
Người tu sĩ với lời khấn khó nghèo, không có của cải vật chất để chia sẻ hay
giúp đỡ cho những người gặp thiếu thốn, khó khăn nhưng tình yêu, khả năng, sức
khỏe, thời gian, cảm thông, tha thứ… là những giá trị cao quý mà chúng ta có
thể chia sẻ cho người khác. Trong Đức tin, người tu sĩ tìm ra những điều tích
cực thay vì nghĩ tiêu cực về người đồng loại. Trong Đức tin, người tu sĩ bình
tâm tự tại thay vì tỏ thái độ bực bội, khó chịu trước một người có thành kiến
hay không đồng quan điểm với mình. Trong Đức tin, người tu sĩ sẵn sàng trao ban
khả năng, những điều kiện cần để phục vụ tha nhân thay vì ích kỷ giữ cho riêng
mình. Trong Đức tin, người tu sĩ quảng đại tạo điều kiện động viên anh chị em
mình phục vụ thay vì tìm cách gây khó dễ công việc phục vụ của anh chị em đồng
lý tưởng. Và quả thật, trong Đức tin, tất cả chúng ta sẽ làm mọi sự theo sự
hướng dẫn Thần khí và theo Thánh Ý.
Thay lời kết
Năm
Đức tin cũng là dịp để không những chỉ những người sống Đời thánh hiến mà tất
cả mỗi người con trong Giáo Hội duyệt lại cách sống Đức tin của mình. Đức tin
xuất phát từ hồng ân Thiên Chúa, phải là động lực thúc đẩy và hướng dẫn mọi
hoạt động của mỗi người tín hữu, chi phối trọn vẹn tư tưởng, lời nói và hành
động của chúng ta. Đặc biệt có một hướng sống và cử hành Đức tin mới, không
giới hạn việc sống Đức tin cách hình thức hay bị đóng khung trong những lễ nghi
và trong nhà thờ. Đời sống Đức tin sống động phải được “hiện thực hóa” trong
cuộc sống đời thường là lòng nhân ái, vị tha bằng sự nhiệt thành dấn thân cộng
tác xây dựng một xã hội “công bằng và
văn minh tình thương”, tinh thần chia
sẻ, đối thoại. Vẫn biết rằng đây là một vấn đề không đơn giản, thực hiện một
sớm một chiều nhưng không phải là không làm được. Làm được hay không là phần
trả lời ở mỗi một người trong chúng ta. Ơn Chúa thì có đó, chúng ta có muốn cộng
tác với Chúa không mới là điều đáng nêu lên ở đây.
Đăng nhận xét