Tự bản chất, gia đình là nơi con người được sinh ra,
được bảo vệ và được thăng tiến sự sống.
Truyền thống văn hóa gia đình Việt Nam
vừa bộc lộ nét văn hóa quý trọng sự sống căn bản
của đời người trong việc sinh sản,
vừa nuôi dưỡng nét đẹp văn hóa ấy trong giáo dục gia đình để con người được phát triển về thể chất và nhân cách
đồng thời góp phần xây dựng nền văn minh cho dân tộc.
Truyền thống văn hóa gia đình Việt Nam
vừa bộc lộ nét văn hóa quý trọng sự sống căn bản
của đời người trong việc sinh sản,
vừa nuôi dưỡng nét đẹp văn hóa ấy trong giáo dục gia đình để con người được phát triển về thể chất và nhân cách
đồng thời góp phần xây dựng nền văn minh cho dân tộc.
Tôma. A Trần Phương Quang,
Tu Đoàn Nhà Chúa
Tu Đoàn Nhà Chúa
Dẫn nhập
Giáo Hội đang sống năm đức tin; thế nhưng, hiện nay các gia
đình Công Giáo Việt Nam đang phải đối diện với hai thực tại liên quan đến Đức
Tin đó là bổn phận bảo vệ sự sống và trung thành trong tình yêu hôn
nhân. Đây là hai vấn đề nghiêm trọng mà Công đồng Vatican II đã đề cập tới
năm mươi năm trước vì nó là một trong những khó khăn lớn của con người trong xã
hội đô thị hóa, hiện đại hóa. Vấn đề là gia đình đang thay đổi từ nền văn hóa
nông nghiệp sang nền văn hóa công nghiệp. Tương quan gia đình lỏng lẻo dần và
những giá trị đạo đức luân lý truyền thống đang nhường bước cho quy luật cạnh
tranh của nền kinh tế thị trường và sức thu hút của các phương tiện truyền
thông hiện đại.
Vì thế, người viết muốn nhấn
mạnh đến khía cạnh: “Xây dựng
gia đình đậm nét văn hóa đức tin” như một gợi ý giúp các gia đình Công
Giáo sống Tin Mừng giữa một xã hội đang bị đe dọa bởi sự toàn cầu hóa của nền
văn minh hưởng thụ. Muốn thế, các gia đình cần khẳng định lập trường của mình
để thể hiện Đức Tin qua nếp sống văn hóa nhân bản để xây dựng nền văn hóa sự
sống và tình yêu theo ý Thiên Chúa dưới sự hướng dẫn của Công Đồng Vatican II.
1.
Tầm quan trọng
của việc giáo dục văn hóa và đức tin trong gia đình
Gia đình là hình ảnh của lòng mẹ được gọi một cách trang
trọng là "tử cung" nơi bào thai được hình thành, là vòng tay
ẵm, là nhịp võng ru, là đầu gối mẹ cha, là nơi người con được hấp thụ toàn bộ
sinh hoạt nhân bản: sinh hoạt trí tuệ và tình cảm, việc tìm kiếm ý nghĩa cuộc
đời, các phong tục tập quán và luân lý của con người. Nói cách khác, mỗi người
đón nhận từ gia đình một vòng đời văn hóa: yêu thương, phục vụ, hiếu đễ, tang
chế; trong đó, sự sống và tình yêu là hai nét văn hóa cơ bản và cần thiết nhất
để con người được hiện hữu và trưởng thành nhân cách.
Tự bản chất, gia đình là nơi
con người được sinh ra, được bảo vệ và được thăng tiến sự sống. Truyền thống
văn
hóa gia đình Việt Nam vừa bộc lộ nét văn hóa quý trọng
sự sống căn bản của đời người trong việc sinh sản, vừa nuôi dưỡng nét đẹp văn
hóa ấy trong giáo dục gia đình để con người được phát triển về thể chất và nhân
cách đồng thời góp phần xây dựng nền văn minh cho dân tộc.
1.1. Hướng dẫn của Công Đồng
Công Đồng Vatican II trong Tuyên ngôn về Giáo Dục Kitô Giáo
đã viết như sau:
Vì là người truyền
sự sống cho con cái, nên cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng phải giáo dục
chúng, và vì thế, họ phải được coi là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu
của chúng. Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu xót sẽ khó lòng bổ
khuyết được.[1]
Từ nguồn mạch của Công Đồng,
Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình tiếp tục hướng dẫn:
Sứ mạng giáo dục đòi hỏi cha mẹ Kitô hữu giới thiệu cho con
cái tất cả những gì cần thiết cho nhân cách, từng bước trưởng thành theo quan
điểm Kitô Giáo và Hội Thánh. Sứ mạng giáo dục của gia đình, nơi mà Tin Mừng
được rao truyền và tỏa chiếu, sẽ đạt tới chỗ chính đời sống gia đình trở thành
con đường dẫn tới niềm tin, và một cách nào đó, đóng vai trò dẫn vào đời sống
Kitô hữu và là trường huấn luyện làm môn đệ Chúa Kitô.[2]
Trong gia đình, tất cả mọi
thành viên đều là người loan báo Tin Mừng và được loan báo Tin Mừng… Một trong
những lãnh vực không ai có thể thay thế gia đình chắc chắn đó là việc giáo dục
Đức Tin. Công việc này giúp cho gia đình phát triển như là “Giáo Hội tại
gia”. Việc giáo dục Đức Tin và dạy Giáo Lý cho con cái đặt gia đình trong
Giáo Hội như một phần tử tích cực loan báo Tin mừng và làm tông đồ đích thật[3].
1.2. Truyền thống gia đình văn
hóa đức tin trong gia đình Việt Nam[4]
Đối với truyền thống văn hoá
dân tộc Việt Nam, giáo dục gia đình còn gọi là “gia giáo” có vị
trí quan trọng nhất trong gia đình. Đó là công việc “dạy người nên người”.
Công việc này khởi đầu ngay từ khi con người được thành hình trong lòng mẹ gọi
là “thai giáo”. Đây cũng là một lý do mà người Đông phương chúng
ta tính tuổi đời người trội hơn người Tây phương một năm. Cha ông ta rất trọng
gia giáo và quan niệm rằng: Nước có muôn nhà, nhưng mỗi nhà có một nền giáo dục
riêng. Nước có một mục đích giáo dục chung nhưng không thừa nhận một khuôn mẫu
chung, vì thế mỗi gia đình phải xây dựng gia giáo cho riêng mình, đặc biệt là
lễ giáo, đạo hiếu.
Trong đời sống hằng ngày,
cha mẹ chính là thầy cô giáo đầu tiên và cũng là người mẫu đời thường của con.
Vì thế, trong việc giáo dục Đức Tin, giáo dục giới tính, giáo dục lòng hiếu
thảo trong gia đình đều thông qua gương sống của cha mẹ. Tất cả tâm tình, thái
độ, lời nói, việc làm tích cực hay tiêu cực của cha mẹ đều ảnh hưởng đến con
ngay từ khi còn ở trong thai cho đến khi con chào đời và qua từng chặng đường
lứa tuổi của con, tạo nên nếp nghĩ, nếp cảm, nếp sống, nếp nhà, hình thành nên
gia đạo, gia cương, lễ nghĩa gia phong của từng gia đình.
Nếu con
cái được lớn lên trong bầu khí Đức Tin sống động của gia đình: thường xuyên
nghe những lời cầu nguyện của cha mẹ, được cha mẹ dạy cầu nguyện, được nhắc nhở về những ơn lành và sự hiện diện của Chúa,
được động viên học hỏi Giáo Lý, tham dự Thánh Lễ, sinh hoạt Hội Đoàn, được
chứng kiến đời sống Đức Tin cụ thể của cha mẹ qua những chọn lựa sống yêu thương
và hy sinh cho nhau mỗi ngày, con cái sẽ nhập tâm lối sống Đức Tin đó vào cuộc
sống của riêng nó trong xã hội.
Nhiều người trưởng thành
hiện nay rất xúc động khi nhớ về những kỷ niệm thời thơ ấu của mình được mẹ dạy
cúi đầu trước Bàn Thờ, bắt tay dạy làm Dấu Thánh Giá:
Khi con đặt tay trên trán, con hãy
nghĩ đến Trời là Cha dựng nên con, khi con đặt tay trên ngực là chỗ trái tim
con hãy giục lòng mến Chúa Giêsu là Thiên Chúa làm người, khi con đặt tay bên
trái và bên phải, con nghĩ đến Chúa Thánh Thần xin Ngài ban sức mạnh phù hộ
con. Khi đọc Amen, con xếp tay hình Thánh Giá và hôn lấy Ơn cứu độ của con.[5]
Lòng đạo đức bình dân đã tạo
nên bầu khí Đức Tin bao trùm cả một ngày sống của gia đình: đọc kinh sáng “dâng
mình cho Chúa”, đọc kinh tối “xin ơn chết lành”, rồi khi hắt hơi mẹ
ân cần xoa và cầu: “Đức Bà chữa con”, khi gặp đau khổ mẹ khuyên “bằng
lòng chịu khó cho nên”, ngay cả khi chơi thì cũng được răn dạy: “Thiên
đàng hỏa ngục hai bên,...” Nhờ đó, đời sống của họ hiện nay không bị ảnh
hưởng cơn lốc vật chất, trái lại, họ rất nhiệt thành làm chứng Đức Tin cho
những người chung quanh.
1.3. Những khó khăn trong giáo
dục gia đình Việt Nam hiện nay[6]
Trong nền văn hóa công
nghiệp khi tất cả mọi thành viên trong gia đình đều phải chạy đua với học hành,
nghề nghiệp để khẳng định bản thân và ổn định kinh tế, không còn thời giờ dành
cho nhau, nên vấn đề giáo dục gia đình đang gặp rất nhiều khó khăn và bế tắc.
Mỗi thành viên trong gia đình tự hội nhập và bị lệ thuộc vào những nguồn văn
hóa đa dạng trong môi trường sống của mình: học đường, văn hóa phẩm, tivi, phim
ảnh, internet... Bên cạnh những nguồn văn hóa lành mạnh, cũng có những văn hóa
hưởng thụ, văn hoá “tình yêu tự do” hay “tự do tính dục”... Vì
thế, nếu cha mẹ không có những chọn lựa ưu tiên cho vấn đề giáo dục con cái thì
cái giá phải trả sẽ như thế nào?
Đặc biệt là vấn đề giáo dục
giới tính, trong khi con cái mình đang tiếp cận với nhiều hình thức “giáo
dục sức khỏe sinh sản”, “giáo dục ngừa thai an toàn”, cha mẹ sẽ dạy con cái
như thế nào để chúng không cho rằng “phương pháp tiết dục” hay “Đức
Khiết Tịnh Hôn Nhân” của Giáo Hội thật “lạc điệu” với văn hóa quần chúng?
Cha mẹ có ý thức đảm nhận bổn phận giáo dục giới tính và giúp con cái nhận từ
chính mình những nguyên tắc cơ bản và những khuôn mẫu sống thích hợp thông qua
những tương quan tin tưởng và chân thật không? Cha mẹ có linh động, tế nhị và
khôn ngoan để giải thích cho con từng bước hiểu về tâm sinh lý của chúng để
chúng không phải tự khám phá nơi những văn hóa phẩm đồi trụy?
Đồng thời cha mẹ có giúp cho
con cái biết phân định những hình thức giáo dục giới tính không thích hợp với
sự hướng dẫn của Giáo Hội không? Nếu chính cha mẹ cũng đang hòa nhập vào lối
sống “tự nô lệ hóa” của nền “văn hóa ngừa thai” ấy thì còn có thể
giáo dục Đức Tin cho con cái được không?
Một số không ít bạn trẻ do
không được giáo dục tối thiểu về nền Văn Hóa Đức Tin tôn trọng tình yêu và sự
sống nên đã gặp nhiều khó khăn để nhận diện và chọn lựa một tình yêu chân
chính, xây dựng một gia đình yêu thương, tôn trọng và trung thành với nhau suốt
đời. Vấn đề là mỗi ngày một nhiều hơn những gia đình không tự chu toàn được bổn
phận giáo dục “đạo đức tính dục Công Giáo”. Cuộc sống của họ bị tác động
của nền văn hóa xã hội hơn được ảnh hưởng những lời giáo huấn của Giáo Hội. Vậy
ai sẽ là người hỗ trợ cho các gia đình nếu không phải là những “Gia Đình Đức
Tin” đã ý thức được sứ mạng loan báo Tin Mừng Sự Sống và Tình Yêu của mình
?
2.
Đường hướng giáo dục văn hóa sự sống và tình yêu
2.1. Giáo dục sinh sản có trách nhiệm[7]
Nội dung giáo dục văn hóa
sự sống và tình yêu trong chương trình Giáo Lý Hôn Nhân, cũng như những
hình thức sinh hoạt Mục Vụ khác: các lớp Giáo Lý Đức Tin cơ bản, Hội Đoàn, nhóm
Chia Sẻ Lời Chúa, những câu lạc bộ: tình bạn, tình yêu, gia đình hạnh phúc,
điểm phim, điểm sách,... Một trong những nội dung đó là vấn đề: “Sinh sản
có trách nhiệm” vì nó liên quan đến Đức Tin một cách trực tiếp và có
ảnh hưởng sâu sắc đến tình yêu chung thủy và hạnh phúc gia đình.
Dựa vào những bản văn Kinh
Thánh, và những tài liệu của Huấn quyền, chúng ta có thể đặt ra những câu hỏi
mở cho các bạn trẻ, và các gia đình trẻ trao đổi, thắc mắc về vấn đề này một
cách tự nhiên theo những suy nghĩ, hiểu biết và quan điểm mà họ đang có. Nhờ đó
chúng ta có thể chia sẻ cho họ thông điệp:
Ngừa thai đã biến sự phối hợp tính
dục từ một nhiệm tích thánh, thành ra một sự phạm thánh” và “Các biện pháp ngừa thai đã không được phát minh
ra nhằm mục đích tránh có thai. Đã có cách thức thực hiện hiệu quả: đó là
phương pháp tiết dục... Các biện pháp ngừa thai đã được phát minh ra là để làm
thỏa mãn bản năng tính dục. Như người ta thường nói: nhu cầu là mẹ của phát
minh. Cái nhu cầu đẻ ra các biện pháp ngừa thai ấy chính là “nhu cầu đòi hỏi
tính dục của chúng ta.[8]
Tiếp đến chúng ta cũng nên
mời những chuyên gia đến hướng dẫn về phương pháp “tự quan sát” theo thời gian
không thể thụ thai của phụ nữ để các gia đình có thể sống an bình và hạnh phúc
thực sự khi giữ đức khiết tịnh trong hôn nhân.
Thiết nghĩ, “sinh sản có
trách nhiệm” theo hướng dẫn của Giáo Hội là vấn đề giáo dục giới tính rất
quan trọng cho người trưởng thành. Đây là vấn đề tế nhị nhưng lại rất bức xúc
trong các gia đình. Nếu chúng ta đọc báo Công Giáo và Dân Tộc số 1380, trang 21
về vấn đề ngừa thai thì 90% những người được hỏi (27/30) cho rằng đó là vấn đề
thuộc lương tâm cá nhân. Nhưng đâu là lương tâm chân chính vì phần lớn những
người sử dụng phương pháp ngừa thai nhân tạo cũng cho rằng họ “muốn sinh sản
có trách nhiệm”[9].
Như thế là cùng dùng một cụm
từ nhưng hai thái độ chọn khác nhau: tin Thiên Chúa hay tôn thờ mình? Vì thế,
các Giáo Lý Viên trong những lớp Giáo Lý Hôn Nhân Gia Đình cần nắm vững và giải
thích vấn đề đó một cách rõ ràng dưới ánh sáng Đức Tin và trong tinh thần cầu
nguyện, sống Lời Chúa và giáo huấn của Giáo Hội. Vì nếu không giải quyết được
vấn đề then chốt này thì không thể có một tình yêu chân chính và chung thủy
trong các gia đình.
Trái lại khi niềm tin được
củng cố, các gia đình Công Giáo sẽ là những chứng nhân rất hiệu quả cho nền văn
hóa sự sống và tình yêu của Thiên Chúa giữa trào lưu văn hóa ngừa thai đang
tràn ngập trong xã hội. Hội Đồng Giáo Hoàng về gia đình đã ghi nhận:
Hoạt động của mục vụ gia đình qua
các chứng tá cho thấy rất nhiều gia đình Ki-tô hữu được trở nên sinh động nhờ
tình yêu và chân lý về gia đình. Họ hăng hái làm chứng cho Tin Mừng như Đức
Thánh Cha nói: Trong sự khiêm tốn và đơn sơ, chứng tá đời sống gia đình có thể
là phương tiện hàng đầu cho công tác Phúc Âm hóa.[10]
2.2. Giáo dục đức tin và nhân
bản
Thực tế, nhiều vị Mục Tử đã
than phiền rằng: thật không dễ để có thể giúp giới thanh niên và trưởng thành
sống Đức Tin: yêu mến, tôn trọng văn hóa sự sống và tình yêu theo ý Thiên Chúa
và Giáo Hội. Thiết nghĩ đây là một lý do mời gọi chúng ta suy nghĩ lại việc
giảng dạy Giáo Lý, nội dung chương trình Giáo Lý và lối sống đạo của các Ki-tô
hữu hiện nay.
Nếu người tín hữu: các em
thiếu nhi, các bạn trẻ, các gia đình chưa nhận ra hạnh phúc được làm con Thiên
Chúa, được sống dưới sự hiện diện của Ngài, và chưa cảm nghiệm được tình yêu
cứu độ của Đức Kitô thì sứ vụ của các Giáo Lý Viên và các vị Mục Tử thực sự
chưa hoàn thành. Quả thực chỉ có Đức Tin mới có thể giúp người ta từ bỏ chính
mình để chọn lựa trở nên môn đệ của Đức Kitô[11].
Chỉ có Đức Tin mới giải
thoát chúng ta khỏi mọi hình thức nô lệ để sống trong tinh thần tự do đích thực
của con cái Thiên Chúa. Vì thế cần đẩy mạnh chương trình Giáo Lý Đức Tin các
cấp: 1, 2, 3, 4, ..., giúp mọi tín hữu ý thức tham gia vào sứ mạng cứu độ của
Chúa Kitô, đồng thời cần thêm về giáo dục nhân bản để mọi người biết sống vui
và thể hiện Đức Tin một cách trưởng thành.
2.3. Một số đề nghị cụ thể [12]
1. Chương trình Giáo Lý
các cấp cần được soạn theo sát sách Giáo Lý Công Giáo (FD). Đây là một kho
tàng Đức Tin mà Giáo Hội đã cập nhật hóa sau Công Đồng Vatican II năm mươi năm.
Vì thế, nó phải là cuốn sách cẩm nang của tất cả các Giáo Lý Viên vì những vấn
đề về văn hóa Đức Tin sự sống và tình yêu liên quan đến gia đình đều tìm thấy ở
nguồn phong phú đó.
2. Nên có một chương
trình Giáo Lý hôn nhân thống nhất. Hiện nay có một số nhóm đã và đang soạn
nội dung chương trình học theo Tông Huấn FC (Familiaris Concortio) và Sách Giáo
Lý Công Giáo FD (Fidei Defensor). Đây là công việc rất cần thiết vì hai nguồn
tài liệu trên sẽ giúp người tín hữu thể hiện Đức Tin của mình trong đời sống
phái tính[13],
đức khiết tịnh[14]
và tình yêu vợ chồng[15]
một cách hiệu quả.
3. Nội dung giáo dục nhân
bản có thể xen kẽ vào các tiết học Giáo Lý hoặc tổ chức riêng trong những
buổi nghe nói chuyện chuyên đề, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của từng giới
để giúp các bậc cha mẹ ý thức giáo dục giới tính cho con. Ngoài ra, một nét đẹp
văn hóa khác nên khuyến khích và duy trì đó là bữa ăn tối và giờ kinh tối trong
gia đình, nó mang tính giáo dục Đức Tin và nhân bản rất cụ thể và hiệu quả cao.
4. Khuyến khích sự hợp
tác của Giáo Dân. Theo hướng dẫn của Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình, và
đường hướng cụ thể của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, thiết nghĩ Văn Phòng Mục Vụ
về Hôn Nhân Gia Đình, cấp Giáo Phận và Giáo Xứ nên có sự hợp tác rất chặt chẽ
của mọi thành phần Dân Chúa. Nên phát hiện tiềm năng của người Giáo Dân, trân
trọng, mời gọi sự hợp tác của họ không chỉ trong chuyên môn nhưng cả trong vai
trò lãnh đạo để họ ý thức đẩy mạnh sứ vụ rao giảng trong lãnh vực riêng của họ
nơi đời sống gia đình.
KẾT LUẬN
Nhìn lại năm mươi năm dấu ấn
Công Đồng Vatican II và hai mươi năm ban hành sách Giáo Lý Công Giáo, Giáo Hội
mở ra với thế giới, hội nhập vào các nền văn hóa để nhân bản hóa con người theo
hình ảnh và giống Thiên Chúa, trở nên một người con trong gia đình Ba Ngôi
Thiên Chúa. Đó là điều làm cho con người vượt trên mọi nền văn hóa, trở nên
thước đo của văn hóa và không bị giam hãm trong bất cứ một nền văn hóa nào.
Thiết nghĩ, hai nét Văn Hóa
Sự Sống và Tình Yêu mà Công Đồng đề cập đến trong hôn nhân gia đình là chính
tiếng nói của Chúa Thánh Thần đã tác động để canh tân các nền văn hóa hiện đại
tôn thờ lợi nhuận vật chất và bản năng hưởng thụ. Do đó hướng Mục Vụ Văn Hóa
của Giáo Hội là tìm ra được những điểm chung trong tâm thức con người hướng về
nguồn sống và tình yêu, đồng thời thức tỉnh con người ra khỏi cơn cám dỗ lấy
mình làm trung tâm, đối lập với Thiên Chúa. Nhờ đó, các gia đình sẽ có được
hạnh phúc đích thực theo ý muốn của Thiên Chúa.
Đức Giêsu Kitô luôn chúc
lành cho các gia đình, vì từ nguồn cội sự sống và tình yêu trong gia đình Ba
Ngôi Thiên Chúa, Ngài chính là Lời tác sinh sự sống cho toàn thể vũ trụ. Trong
mầu nhiệm nhập thể, Ngài cũng được sinh ra và lớn lên trong một gia đình để
hoàn tất Ơn Cứu Độ ban lại sự sống cho con người. Đặc biệt hơn là Ngài đã yêu
nhân loại đến nỗi nhận Giáo Hội là hiền thê của Ngài để sinh ra các tín hữu và
sai đi loan báo về tin mừng sự sống và tình yêu.
Đứng trước nền Văn Hóa Tự Do
Tính Dục đang phá đổ tình yêu và hạnh phúc nơi các gia đình, Chúa Giê-su tiếp
tục kết hợp với từng Giáo Phận, Giáo Xứ, làm thành những Gia Đình Đức Tin và
sai các Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ Nam Nữ, các Kitô hữu thiện chí tới phục vụ
các gia đình và mời gọi các thành viên trong gia đình tham gia vào Chương Trình
Cứu Độ của Thiên Chúa.
"Hãy cứu lấy gia
đình", giúp các gia đình giữ được
vẻ đẹp bản chất của mình. Vì chính sự sống và tình yêu thiêng liêng cao quý của
gia đình có sức chữa lành mọi vết thương, đem lại sự bình an và niềm vui đích
thực cho mỗi người (Viết theo kinh nghiệm tư vấn những trường hợp thất tình, tuyệt
vọng).
Ngoài ra hình ảnh gia đình
trong tinh thần Kinh Lạy Cha chính là nguồn động lực hỗ trợ sứ vụ truyền giáo
của chúng ta và cũng là cội nguồn mọi khát vọng tâm linh của con người hướng về
(Kinh nghiệm truyền giáo cho lương dân và tiếp xúc với các bệnh nhân ung thư
đang hấp hối).
Tin tưởng nơi Đức Giêsu
Kitô, chúng ta cùng hợp tác giúp các gia đình thắp sáng niềm tin và hy vọng để
làm chứng cho sự hiện diện yêu thương và quyền năng của Thiên Chúa đang ở giữa
con người.
[1] x. Thánh Công Đồng Vaticanô II, GD,
số 3, tr. 447.
[2] x. ĐTC Gioan Phaolô II, Thư
thành lập Hội Đồng Giáo Hoàng về Văn Hóa, ngày 20.5.1982.
[3]x. Huấn Thị Con
Cái Là Mùa Xuân Của Gia Đình và Xã Hội, của Hội Đồng Giáo Hoàng về Gia Đình, 1998.
[4] x.
Trích dẫn từ Ephata Việt Nam, số 95, năm 2003.
[5] x.
Nhạc phẩm: Làm Dấu, Sáng tác Lê Đức Hùng.
[6] x.
Gia Đình Chiếc Nôi Văn Hóa, www.ubmvgiadinh.org.
[7]x.Gia
Đình Chiếc Nôi Văn Hóa, www.ubmvgiadinh.org.
[8] x. Christopher
West, Good News about sex and marriage – giải đáp thắc mắc dựa trên giáo
huấn của Hội Thánh Công Giáo.
[10]x. ĐTC Gioan
Phaolô II, Thư thành lập Hội Đồng Giáo Hoàng về Văn Hóa, ngày 20.5.1982.
[11] x. Lc 14, 33.
[12]
http://www.ubmvgiadinh.org
Đăng nhận xét