Có thể nói được
“văn hoá đức Tin”,
một cách tổng quát, chính là “văn hoá sống-với”;
chính trong nền văn hoá này
mà con người đáp lại hồng ân đức Tin Chúa ban
bằng quyết định tin của con người toàn diện,
và được củng cố nhờ sức mạnh chứng tá
của cộng đoàn đức Tin.
một cách tổng quát, chính là “văn hoá sống-với”;
chính trong nền văn hoá này
mà con người đáp lại hồng ân đức Tin Chúa ban
bằng quyết định tin của con người toàn diện,
và được củng cố nhờ sức mạnh chứng tá
của cộng đoàn đức Tin.
Nguyễn Trọng Viễn, OP.
Đức Tin là ân sủng siêu nhiên do Chúa ban. Nhưng đức Tin
cũng cần “đất sống”, cần một “môi trường” thuận lợi trong thái độ sống của con
người. Dĩ nhiên, Chúa có thể ban đức Tin phong phú và vững mạnh cho một ai đó,
dù là trong một “môi trường văn hoá” không thuận lợi. Tuy vậy, về phía con
người, chắc hẳn mỗi người cũng cần tự mình tìm tòi những thái độ thích hợp trên
hành trình gặp Chúa. Cũng vậy, cộng đoàn nói chung và mỗi thành viên trong cộng
đoàn đều liên đới trách nhiệm với nhau trong việc tạo nên một bầu khí “văn hoá
đức Tin” để cùng chia sẻ, cùng vun xới cho nhau trên hành trình đức tin ấy.
Tạm gọi là “văn hoá đức Tin”, để chỉ một trong những gì con
người ít nhiều có khả năng hỗ trợ cho đức tin, giúp con người có thể đưa ra
những quyết định về bản thân và cuộc đời mình, tìm thấy niềm xác tín của chính
mình, rộng mở để đón nhận những chứng tá đức tin của cộng đoàn,…
Trải qua một lịch sử dài, đức Tin vẫn là một, nhưng thần
học đã hiểu về đức Tin nhiều cách khác nhau, dựa vào những “khẩu vị” khác nhau
của con người qua các thời đại. Nếu như thời Trung Cổ, nói chung, hướng tới
những chứng cứ khách quan để củng cố niềm tin, thì thời cận đại người ta lại
lưu ý nhiều tới xác tín nội tâm của mỗi người. Thời hiện đại, người ta lưu ý
tới nhiều bước ngoặt liên quan đến đức tin, bước ngoặt của kinh nghiệm, bước
ngoặt của thực hành, bước ngoặt của ngôn ngữ, bước ngoặt của trí tưởng tượng[1]…
Tất cả những yếu tố ấy đều liên quan đến phẩm chất của đức tin và cần được trân
trọng giữ gìn, phát triển phong phú trong một thứ “văn hoá đức Tin”.
1. Trở về với nguồn mạch sống-với
Điều căn bản trong thái độ tin chính là khả năng sống-với.
Đây là nguồn mạch căn bản của sự sống đức Tin trong truyền thống Sách thánh và
đặc biệt trong Kitô giáo. Nền tảng nhân học Kitô giáo khẳng định bản chất con người
trong mạc khải Thánh kinh: con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và
con người được dựng nên có nam có nữ. “Thiên
Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo
hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ”. (St 1,
27)
Ý nghĩa sâu xa và trọn vẹn của nền tảng này là con người
được dựng nên để sống với Chúa và nhờ sống với Chúa sống mà có thể sống với
nhau. Khẳng định này cho thấy bản chất của con người vượt quá mục tiêu tự hình
thành ra mình, tự khẳng định mình, qua lao động trên vật chất hoặc qua việc thể
hiện những tài năng cao cả nào đó của chính mình. Mặc dù con người có bổn phận
“thống trị mặt đất”, “làm bá chủ cá biển,
chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất." (St 1,28) nhưng con
người không thể hình thành nên bản chất người và không thể hoàn thành vận mạng
của mình chỉ với việc lao động. Mặc dù con người có lý trí khôn ngoan và có tự
do cao cả, nhưng con người vẫn không thể hoàn thành cuộc đời mình với trí khôn
sáng suốt hoặc với một thái độ tự do bát ngát. Vận mạng của con người vượt quá
tình trạng sống thế nào, vượt quá cặp phạm trù đúng sai, để vươn tới chỗ sống
với ai khác, sống vì, sống cho ai khác. Vận mạng con người, từ trong mầu nhiệm
sáng tạo, đã bao hàm khao khát sống với, và chỉ có thể hoàn thành vận mạng của
mình khi sống với Chúa, rồi từ đó mà có thể sống với nhau. Sách Giáo lý Giáo
hội nói :
Tận đáy lòng, con
người khao khát Thiên Chúa vì con người được tạo dựng do Thiên Chúa và cho
Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng lôi kéo con người đến với mình, và chỉ nơi
Thiên Chúa, con người mới tìm gặp chân lý và hạnh phúc mà họ không ngừng tìm
kiếm (s.27).
Rồi sách Giáo lý trích lời Hiến chế Mục vụ :
Ý nghĩa cao cả
nhất của phẩm giá con người là con người được kêu gọi kết hợp với Thiên Chúa…và
con người chỉ sống hoàn toàn theo chân lý một khi tự ý nhìn nhận tình yêu ấy và
phó thác đời mình cho Đấng tạo dựng mình (MV 19,1).
Ý nghĩa sống-với
hướng dẫn toàn bộ đời sống đức Tin theo truyền thống Sách thánh. Chẳng hạn,
người dân Israen được Chúa trao ban lề luật; nhưng lý do căn bản để họ giữ luật
không phải là vì luật rất hay, mà là do lòng trung tín với Chúa. Tin, đó là
trung tín với Chúa và vì vậy cũng tuân giữ mọi điều Chúa dạy. Ai đảo ngược vị
thế hai yếu tố ấy, sẽ rơi vào thái độ đề cao sự “lựa chọn” và đi đến lập trường
của “bè rối”. Khi những người môn đệ của đức Giêsu cảm thấy "Lời này chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi ?"
(Ga 6,60); thì kết quả sẽ là “Từ lúc đó,
nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa” (Ga 6,66). Cũng thế,
những mối nguy cơ khác trong đời sống đức Tin của người Do Thái chính là: thay
vì tế lễ để thờ phượng Chúa, người ta dâng lễ vật chỉ để thanh thoả lòng mình
khỏi những bất công mình đã phạm; thay vì nội tâm hóa lề luật vì tôn kính Chúa
như sứ điệp của các ngôn sứ, người ta bám lấy hình thức bên ngoài để tìm sự an
toàn cho chính mình. Đó chính là “căn bệnh thực dụng” vẫn luôn rình rập phá huỷ
đời sống đức Tin đích thực của người Do Thái.
Bản chất của đức tin như thế nằm trong
nền “văn hoá sống với”, nằm trong một sự nhạy bén về mối liên hệ đến ai khác,
nằm trong hệ giá trị đề cao những gì bộc lộ mối tương quan nhân thân. Được lớn
mạnh trong nền văn hoá đức tin ấy, người tín hữu phải nhạy bén với ai khác chứ
không phải bám cứng lấy một thứ nguyên tắc nào đó; phải là người có khả năng
“vui với người vui, khóc với người khóc” chứ không phải là người tự hào về sự
hoàn hảo của chính mình; phải là người tìm thấy ý nghĩa cuộc đời và hạnh phúc
đời mình khi được đi vào hành trình hy sinh cho ai khác chứ không phải kẻ thoả
mãn vì khả năng khẳng định chính mình…
Chỉ trên nền tảng sống-với, thái độ tin tưởng mới lộ ra nét
đẹp cao quí đặc biệt. Lòng tin, cả theo nghĩa đời thường cũng như trong tôn
giáo, không phải là một hình thức hiểu biết thấp kém so với lý trí, nhưng là
đường lối biểu lộ phẩm giá người trên lộ trình đến với ai khác. Ở Tây phương,
vào thế kỷ XIX, người ta đã từng hăm hở mổ sẻ sự vật và tưởng chừng như có thể
thấu triệt được thế giới; rồi người ta lại hăm hở mổ sẻ con người như một sự
vật với một sự lạc quan ngây ngô. Thế nhưng, vào thế kỷ XX, con người hiểu ra,
ngay với vũ trụ vật chất con người cũng chẳng thể thấu triệt tường tận được,
huống hồ gì với con người. Thật sự, không ai có thể tham vọng hiểu biết trọn
vẹn con người, cũng như không bao giờ người ta có thể chiếm hữu ai khác như một
sự vật. Không ai có thể dán con dấu chất lượng để bảo hành cho một nhân cách.
Con đường đến với ai khác qua lý trí bộc lộ ra muôn vàn giới hạn.
Tin là thiết lập tha nhân như một chủ thể bất khả thấu đạt
bằng lý trí; trân trọng tha nhân như một chủ thể tự do trong khả năng tự “mạc
khải” và trao ban chính mình. Tin chính là khai mở lộ trình để con người tìm
thấy cửa ngõ “ra khỏi chính mình” và tìm thấy sự hoàn thành vận mạng của mình
trong gặp gỡ, trong yêu thương. Sống với ai khác một cách chân chính luôn luôn
là đi vào cuộc phiêu lưu. Những ai muốn tìm sự chắc tâm về mình sẽ sa đà vào
khoái lạc thống trị, hạ thấp bản thân mình trong một cuộc “chơi với sự vật”.
Người ấy sẽ không thể đi vào lộ trình của niềm tin, họ đánh mất khát vọng sống
với, và đánh mất cả hạnh phúc đích thực của một đời người.
Có thể nói được “văn hoá đức Tin”, một cách tổng quát,
chính là “văn hoá sống-với”; chính trong nền văn hoá này mà con người đáp lại
hồng ân đức Tin Chúa ban bằng quyết định tin của con người toàn diện, và được
củng cố nhờ sức mạnh chứng tá của cộng đoàn đức Tin[2].
2. Vận hành của sự sống đức tin
Nói chung, về phía con người, tin là một động thái phức
tạp, bao gồm nhiều yếu tố trong con người: lý trí, ý chí tự do, việc thực hành và sự tương tác trong cộng đoàn đức Tin. Tin
không gói gọn trong một hành vi riêng biệt nào, nhưng là một thái độ nền tảng
của ngôi vị người. Con người toàn diện ấy quyết định trao tặng bản thân cho ai
khác, đó là tin[3].
Quyết định tin là biểu lộ của một con người toàn diện; và
quyết định tin lôi kéo sự sống của con người toàn diện. Sự sống của niềm tin
thể hiện trong mối tương tác giữa lý trí, ý chí tự do, việc thực hành niềm tin
và sự tương tác trong cộng đoàn đức Tin. Cũng như kiến thức chân chính là một
sự sống chứ không phải là một kho hàng; cũng như ý chí quyết định, việc thực
hành và mối liên hệ tương tác trong cộng đoàn tin không phải là một tác động
một lần cho tất cả, nhưng là một dòng sự sống, có sự phập phồng, thăng trầm của
sự sống, thì quyết định tin của con người toàn diện cũng là một sự sống đích
thực, mang những dấu chỉ đích thực của sự sống. Nếu như quyết định tin của một
con người toàn diện và mối tương tác của chứng tá được nuôi dưỡng trong “văn
hoá sống-với”, thì lý trí, ý chí tự do và hành động của người tin cũng bộc lộ
sự sống trong những vận hành tương tác mà ta thử phân tích dưới đây:
2.1 Hiểu biết và kinh nghiệm
Đức Tin Kitô giáo có một phẩm chất đặc biệt, được khẳng
định xuyên suốt lịch sử Giáo hội, đó là có thể hoà hợp được với lý trí. Tuy
vậy, đức Tin không phải là “duy lý” nghĩa là xuất phát hoàn toàn từ lý trí hiểu
biết; và đức Tin cũng không phải là “duy tín”, nghĩa là chỉ cần tin mà không cần hiểu biết. Đức Tin là ân ban của Chúa, được
thể hiện ra trong một “hành trình đi về” giữa việc chân thành đón nhân những
chân lý do Chúa mạc khải, được Giáo hội xác nhận, và những xác tín do kinh
nghiệm trong cuộc đời mỗi con người.
Kant cho thấy tri thức của con người thuộc về một dạng đặc
biệt, khác với kiểu tri thức của Chúa. Dạng tri thức của Chúa là tri thức uyên
nguyên, dạng tri thức của con người là tổng hợp, tổng hợp giữa “mô thức”, là
những ý niệm trong tâm trí, và “chất thể” là những kinh nghiệm thật, gắn liền
với giác quan... Tổng hợp này diễn ra giống như một ly thuỷ tinh trong suốt khó
nhìn thấy (mô thể) được đổ đầy chất sữa (chất thể) để lộ diện rõ rệt là một ly
sữa. Quả thật, chúng ta nhận ra, khi những ý niệm trừu tượng được đổ đầy bằng kinh nghiệm, bằng thực tại của cuộc sống
thật, chúng ta tìm thấy sự hiện diện phập phồng của sự sống, nhận ra được sức
sống đức tin trong cuộc đời mình. Có lẽ cần phải nhắc lại sự phân biệt giữa
“cái chân” và “cái thật”[4]:
cái “chân” hiểu là những chân lý khách quan có tính phổ quát; cái “thật” hiểu
là những xác tín “chủ quan”, như là những dữ kiện “đổ dầy” cho chân lý khách
quan. Một cách nào đó, cái “chân” là cái “chúng tôi tin”; cái “thật” là cái
“tôi tin”. Sự sống đức tin thể hiện trong một “hành trình đi về” giữa cái chân
và cái thật, giữa kiến thức của lý trí và kinh nghiệm sống động.
Nếu việc đào tạo đức Tin quá để ý đến
những yếu tố chân lý khách quan mà lại quên hướng dẫn người thụ huấn biết phân
tích kinh nghiệm, không để cho người thụ huấn có được thói quen tự quyết định,
từ những quyết định nhỏ đến những quyết định lớn, thì khó có thể nói rằng người
thụ huấn ấy thực sự có quyết định dấn thân trong đức Tin. Cũng như một thanh
niên không thể xây dựng gia đình chỉ dựa theo quyết định của cha/mẹ; cũng như
người chọn đời tu không thể đi tu do áp lực của gia đình, thì người kitô hữu
dấn thân vào hành trình đức Tin, đi vào cuộc gặp gỡ với Chúa cũng cần có khả
năng dám quyết định để có thể dám tin. Tin chắc chắn không phải là một thái độ
ấu trĩ, không phải là một thái độ hèn nhát, dựa dẫm, đoàn lũ. Đức tin là hồng
ân Chúa ban, gắn liền với hoa trái của một phẩm chất tinh thần, có khả năng mở
rộng chân trời trong hành trình đời người, để con người có thể thể hiện trọn
vẹn hơn phẩm chất nhân bản của mình. Tuy vậy, khả năng quyết định ấy không thể
trở thành một thứ ngựa chứng, mà cần có sự khiêm tốn, sự dễ dạy, hoặc nói cách
khác là cần có một “lương tri ngay thẳng” để tìm chân lý. Lương tri ngay thẳng
giúp cho những kinh nghiệm và xác tín cá nhân trở thành chất thể “đổ đầy” vào
những “mô thể” thuộc chân lý mạc khải.
Đức tin không phải chỉ là tri thức khách quan mà cũng không
phải chỉ là kinh nghiệm và xác tín chủ quan. Luôn có một sự so le giữa hai tiêu
điểm ấy, nhưng vận hành của sự sống đức tin chính là sức năng động đi-về giữa
tri thức và xác tín, giữ cái “chúng tôi tin” và cái “tôi tin”.
2.2 Lương tâm và lề luật
Trong vận hành tương tác giữa chân lý khách quan và kinh
nghiệm của mỗi cá nhân như một chủ thể, ta thấy xuất hiện yếu tố của một sự
trung thực. Kinh nghiệm đức Tin chỉ có thể đi đúng đường, chỉ có thể vươn tới
chân trời của những chân lý mạc khải khi người tín hữu có được một lương tâm
ngay chính. Thái độ dám nghĩ luôn là cần thiết, nhưng đó phải là thái độ dám
nghĩ trong sự trung thực, trung thực với chính mình và trung thực với lời mời
gọi của Chúa trong lòng mình. Quả thực, Thiên Chúa tôn trọng con người đến
cùng, nên đã để lại trong ý chí tự do của con người một “vị quan toà” của chính
mình, đó là lương tâm. Lương tâm là hạt ngọc phản ảnh sự hiện diện của Thiên
Chúa trong lòng mỗi người và là tâm điểm của việc đào tạo xứng tầm với phẩm giá
con người.
Trong đời sống Giáo hội, người ta đã thấy có một sự uý kỵ
đối với khái niệm tự do, lương tâm,…là những điều có hơi hướng của thứ chủ
nghĩa cá nhân. Linh mục Mai Văn Hùng nói:
Phải nhấn mạnh ngay
rằng trong giới Kitô hữu, người ta đã dừng lại ở một quan niệm suy thoái về tự
do, một quan niệm rất xa quan niệm thần học thánh Tôma đề ra. Có một sự khinh
dể ngàn đời của Giáo hội với tự do “bị” quan niệm một cách “tự phát” như là
đồng loã với sai lạc và tội lỗi, nghĩa là thu hẹp vào một thứ tự do thể lý
thuần tuý trong hoạt trường được qui luật luân lý nhường cho.[5]
Cùng trong mạch văn đó, linh mục Mai Văn Hùng viết :
Một dữ kiện
khác, cũng rất thiết yếu cho cách đặt vấn đề của chúng ta, đó là sự kiện đánh
giá cao các quyền của lương tâm. Giáo hội đã tỏ ra hờn dỗi, và thường thì chống
lại sự kiện này bởi vì Giáo hội nối kết sự thăng tiến các quyền lợi đó với ký
ức đau thương của phong trào chống giáo sĩ của Cách mạng Pháp. Sự từ khước dai
dẳng đó (mãi cho tới Vatican II), nhân danh một trật tự luân lý khách quan, là
một trong những khía cạnh chính tạo ra cuộc ly dị giữa thế giới thời mới và
Giáo hội, bởi Giáo hội đã đi quá đà, coi tự do lương tâm như là một thứ dịch,
một thứ hoang tưởng, một thứ thác loạn thật sự”. [6]
Sự uý kỵ đó lại càng lớn hơn nhiều trong đời sống đức Tin
của Giáo hội Việt Nam, cũng như trong việc đào luyện đức Tin tại các cộng đoàn
tu trì. Người tín hữu Việt Nam không cần tới lương tâm mà chỉ cần nhắm mắt tuân
theo lệnh truyền của các Đấng bậc. Người tu sĩ Việt Nam có lẽ là những người ít
được tạo điều kiện để thể hiện khả năng tự quyết định về bản thân mình… Ta có
thể thấy đó là một sự yếu kém trong “văn hoá đức tin” ???
Thật sự, với lương tâm, con người mới có thể đứng trước lề
luật của Chúa như một chủ thể. Nói cách khác, nếu con người vâng phục Thiên
Chúa, thì đó phải là một sự vâng phục xuất phát từ bên trong, trong sự chân
nhận của “con tim”, và trong thái độ tự nguyện qui phục, chứ không phải là bị
dí đầu dí cổ do một sức mạnh bên ngoài nào. Con người được kêu gọi vâng phục lề
luật khách quan, không phải như một “công công”, nhưng như một con người có đầy
đủ tư cách. Với lương tâm, con người tự nhận ra cái nghèo, nhận ra mình chỉ là
hư vô trước mặt Chúa, và con người tự nguyện quì gối xuống, nhưng với tư thế
“thẳng lưng”, chứ không phải như một kẻ gia nô khúm núm trước một áp lực bên
ngoài. Lương tâm bộc lộ phẩm giá tự do, tự chủ của con người được chính Chúa
tôn trọng. Chúa không bao giờ muốn chinh phục con người như kẻ nô lệ.
Cũng như trong lãnh vực tri thức và kinh nghiệm, ta cũng sẽ
luôn thấy có sự so le giữa lề luật và lương tâm, nhưng đó là sự so le cần thiết
trong qui chế sống của con người. Chính trong sự so le đó, đức tin tìm được ý
nghĩa chân chính trong vận hành đi-về giữa lề luật và lương tâm, biểu lộ sự
sống đích thực của đức tin.
2.3 Thế giới siêu nhiên và việc thực hành
trong đời thường
Sách thánh mặc khải cho chúng ta một thứ tôn giáo của tương
quan hiện sinh; không phải là một sự hoà đồng trong bản tính, đưa đến một sự
hoà tan vào nhau. Tương quan hiện sinh chân chính không do ngất trí, không do
xuất thần, không do sự bộc phát của tình cảm, nhưng được hình thành do quá
trình lịch sử, được đan bện do những sự kiện cụ thể. Kitô giáo và đạo Sách
thánh nói chung là đạo của những sự kiện, những sự kiện cụ thể đan bện lại
thành nên một bề dày nghĩa tình.
Đáng tiếc là chiều kích lịch sử ấy ít nhiều bị quên lãng.
Trong một thời gian khá dài, người kitô hữu đến với Chúa theo một thứ tu đức
học dựa theo cấp độ siêu thoát. Cho đến Vatican II, Giáo hội mới tìm lại được
chiều kích lịch sử, tìm lại một nền thần học lịch sử; và cũng từ đó, dần dần
Giáo hội tìm lại được phẩm chất đức tin như một tương quan hiện sinh.
Cuộc trở về này làm sáng lên hai khía cạnh quan trọng, một
là khía cạnh tín lý, trong đó, ý nghĩa Cánh chung trở thành trọng tâm của mọi
nền thần học; và khía cạnh khác là khía cạnh luân lý, trong đó chiều kích đức
Cậy trở thành nền tảng quan trọng.
Đức Cậy không còn chỉ được hiểu là đời sau được vào hưởng
nước Thiên đàng, nhưng còn là sống gắn bó với Chúa trong hành trình lịch sử đời
mình. Chiều kích đức Cậy làm cho đời sống đức Tin, nói chung, đặt chân xuống
đất, đặt nền tảng của tất cả đời sống đức Tin trên dòng đời trôi nổi của sự
sống thật, lộ diện những con người thật và cũng lộ diện một Thiên Chúa đến với
con người trong tương quan ngã vị sống động; lộ diện một đời sống tâm linh có
phẩm chất của một thứ “trọng lượng hữu thể” trên những sự kiện và diễn tiến của
một “nhiệm cục cứu độ”.
Nói một cách khái quát, sống đức Tin là sống cuộc đời mình
như một lịch sử ơn cứu độ; trong đó, bản thân của mỗi người tín hữu được trao
ban cho Chúa trong một quá trình lịch sử, và cũng đón nhận được chính bản thân
Chúa trong một quá trình. Thực sự con người chỉ là chính mình trong dòng lịch
sử, và Chúa cũng xuất hiện cho con người như thế, nghĩa là trong dòng lịch sử.
Như thế, tương quan ngã vị như là nét đặc trưng của Sách Thánh không thể thành
hình trên một sự ngẫu hứng hay một thứ “cú sét ái tình” mà là một hành trình
thực sự, đặt nền trên những sự kiện thực của đời sống con người.
Ở đây, chúng ta nhận ra yếu tố thực hành trong “cơ cấu” của
thái độ tin. Tin không phải chỉ là tác động thuộc về lý trí, cũng không phải
chỉ là tác động thuộc về ý chí, mà còn thiết yếu được thể hiện trong thực hành.
Trong “qui chế hiện hữu” của con người, sự sống thật và sống mạnh được thể hiện
trong khả năng thể “ý nghĩa nội tâm” trong “chất liệu” ít nhiều có tính vật
chất.
Ta thử xét một ví dụ: có ba người thanh niên cùng yêu một
cô gái. Người thứ nhất thì bộc lộ tình yêu bằng cách mỗi ngày phải gặp gỡ bằng
được cô gái mình yêu. Người thứ hai thì không có điều kiện gặp gỡ hằng ngày,
nhưng luôn tìm dịp để gửi những món quá tỏ lộ tình yêu với cô gái ấy. Người thứ
ba thì đi làm xa, nhưng tình yêu của anh ta với cô gái được thể hiện trong thái
độ quyết tâm làm ăn, gom góp tiền bạc, chuẩn
bị cho gia đình tương lai… Cả ba cùng yêu thương cô gái thật lòng. Nhưng người
thứ nhất thì nuôi dưỡng tình yêu bằng một “cự ly” gần nhất; người thứ hai thì
xa hơn một chút. Người thứ ba thì lại đóng ấn tình yêu thương trên những công
việc lao động vốn không dính dáng gì đến phẩm chất tình yêu. Ai là người có
tình yêu mạnh mẽ nhất ?
Ta cũng có thể nói tương tự như vậy về ba hành động khác
nhau: một vị linh mục dâng thánh lễ, một ma sơ dạy giáo lý, và người giáo dân
cày sâu cuốc bẫm vì ý thức trách nhiệm với Chúa. Xét bên ngoài, ta thấy hành
động của linh mục thánh thiêng nhất, rồi đến ma sơ, cuối cùng là người giáo
dân. Tuy nhiên, nếu nhìn vào bên trong, ta có thể thấy rõ chính người giáo dân
mới là người có đủ sức mạnh để cử hành dấu ấn đức tin trên những chất liệu trần
tục nhất.
Người nào yêu và thể hiện tình yêu trong thái độ chăm chỉ,
kiên nhẫn làm việc để nuôi gia đình, thì đó là người có sức mạnh của tình yêu
thật. Đời sống đức Tin cũng tương tự như vậy, đức tin cần được thực hành và
thực hành đức tin là biểu lộ sức sống chân thật nhất. Đức tin cần được thể hiện
trong khả năng “cử hành đức tin” trên chất liệu của đời thường.
Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo xác định nội dung căn bản
của đức Tin :
“Tin trước hết
là gắn bó bản thân con người với Thiên Chúa, đồng thời cũng là tự nguyện chấp
nhận tất cả chân lý Thiên Chúa đã mạc khải” (s. 150)
Dĩ nhiên, điều thứ nhất, gắn bó với Chúa, là yếu tố căn
bản, nếu không thì đức tin không còn là thái độ sống-với nữa. Thế nhưng điều
thứ nhất không bao giờ có thể loại bỏ hoặc làm giảm nhẹ điều thứ hai, “tự
nguyện chấp nhận tất cả chân lý Thiên Chúa đã mạc khải”. Sự sống đức tin chân
chính biểu lộ trong vận hành tương tác giữa “gắn bó với Chúa” và “chấp nhận mọi
điều Chúa dạy”.
Đức Giê-su đáp:
"Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha
Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ
lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha,
Đấng đã sai Thầy”. (Ga 14, 23-24; xc. 14,21)
Một lần nữa, chúng ta lại nói về một sự so le giữa thế giới
siêu nhiên và sự thực hành trong đời thường. Chính sự so le ấy mới cho thấy
chân trời đích thực của hành trình đức tin, chứ không phải dựa theo chuẩn mực
của cấp độ siêu thoát. Để có một đức tin vững mạnh, không thể chọn thái độ
“đóng cửa”, đóng cửa nghi lễ phụng vụ với những diễn biến thực của cuộc sống
hằng ngày; đóng cửa đời sống thánh hiến với những vui buồn rất thực của một đời
người; đóng cửa đời sống đều đặn của tu viện với máu và nước mắt trong cuộc
sống xã hội; đóng cửa đời tu với những tình nghĩa gia đình…
Tạm kết
Có một sự khác biệt căn bản giữa nền văn hoá Hy la mà Giáo
hội đón nhận và đường hướng nội tâm hoá, đồng thời là phổ quát hoá cho mọi
người, của Kitô giáo. Nền văn hoá Hy la giúp Giáo hội diễn tả chân lý mặc khải
dưới những hình thức thần học vững chắc của lý trí, nhưng điều đó không thể làm
mất đi một thứ “biện chứng của con tim” trong truyền thống các ngôn sứ và nhất
là trong Tin Mừng của đức Giêsu Kitô: “Những kẻ đạo đức giả kia, ngôn sứ
I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông rằng: 'Dân này tôn kính Ta
bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta (Mt 15,7-8).
Có lẽ chính “yếu tố” Thánh Thần làm nên sự khác biệt căn
bản ấy.
Nhưng nếu đặt câu hỏi: nơi đâu ít Thánh Thần nhất ? thì ta
có thể trả lời: đó là nơi có hiện tượng “bị xỏ mũi” nhiều nhất! Bản chất đức
tin được thể hiện trong bầu khí sống-với, nơi đây không có sự ăn chắc, sự an
toàn cho bản thân mà là một quyết định đi vào cuộc phiêu lưu với Ai khác. Ai sợ
phiêu lưu thì sẽ không thể sống-với, người ấy tự xỏ mũi mình bằng một sự cúi
đầu, còng lưng trước Chúa.
Cũng thế, sự sống đức tin luôn là một vận hành “đi-về”, đi
về giữa cái chân và cái thực, giữa lương tâm và lề luật, giữa siêu nhiên và đời
thường. Ai muốn xỏ mũi người khác thì sẽ luôn muốn đắp ụ ngăn cản những nẻo
đường đi về ấy.
[1] Xc. Dermot Lane, Kinh Nghiệm Về Thiên Chúa, Nguyễn Luật
Khoa, OFM dịch, Nxb Phương Đông, lời tựa.
[2] Xc. Nguyễn Trọng Viễn,
“Sự sống đức Tin như một dòng chứng tá”, báo Chia Sẻ, số 69.
[3] Xc. Les grands thèmes de la foi, Dictionaire de Théologie chrétienne,
dirigée par Joseph Doré, Desclée, mục « Foi ».
[4] Xc. Nguyễn Trọng Viễn, «Cái
Chân và Cái Thật », Chia Sẻ, số
68.
[5] Mai Văn Hùng, OP, Làm Muối Cho Đời, Thần học Luân lý cơ
bản, lưu hành nội bộ, 1994-1995, trang 95.
Đăng nhận xét