....
Thế bác ái Kitô giáo là bác ái gì
nếu chẳng phải là bác ái của Tin Mừng:
đại đồng, vị tha và quảng đại.
Đức ái được diễn tả như nền tảng của Kitô Giáo
khi Thiên Chúa được Thánh Gioan phát hiện ra
bản chất Tình Yêu của Ngài “ Thiên Chúa là Tình Yêu”
( 1 Ga 4,8).
đại đồng, vị tha và quảng đại.
Đức ái được diễn tả như nền tảng của Kitô Giáo
khi Thiên Chúa được Thánh Gioan phát hiện ra
bản chất Tình Yêu của Ngài “ Thiên Chúa là Tình Yêu”
( 1 Ga 4,8).
Mary Nguyễn Hòa – MTG Qui Nhơn
Dẫn nhập
C ó lẽ từ rất xa xưa và cho đến
ngày nay, tình tương thân tương ái, tình đồng loại đã là một đặc nét của con
người: buồn vui có nhau “chia củ sắn lùi,
có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu”, hay gian nan thì tận tình giúp đỡ
nhau vượt qua khốn khó, thử thách. Đó là những tình cảm đạo đức nảy sinh trên
những cơ sở, điều kiện môi trường xã hội, hoàn cảnh lịch sử. Nhìn vào dân tộc
Việt Nam, tinh thần tương thân tương ái này có nguồn gốc sâu xa từ trong xã hội
nông thôn thời nguyên thủy, buổi đầu dựng nước, với một dân tộc có lịch sử
nhiều ngàn năm văn hiến, vừa chống chọi với giặc ngoại xâm, vừa đối diện với sức tàn phá của thiên tai lũ
lụt, tinh thần này càng được phát huy và triển nở rộng rãi hơn như chúng ta đã
từng thấy trong các vụ tai nạn, bão lụt, động đất..., con người bằng mọi cách
thức và phương thế luôn mong muốn và gắng sức làm sao để giúp người, cứu người
hết sức có thể. Theo giòng thời gian, những tình cảm thiêng liêng và quý giá
này càng được thể hiện rất rõ hơn qua nghệ thuật, qua dòng thơ văn, ca dao dễ
đi vào lòng người:
“Nhiễu
điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.” hay
Người trong một nước phải thương nhau cùng.” hay
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Thêm vào đó, với Dân Việt, truyền
thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ sinh trăm con cũng hàm ý cho thấy rằng, người Việt
Nam từng được cưu mang trong một bào thai, họ xem nhau là “đồng bào”, như một hình ảnh thật gần gũi,
thân thương nhắc nhớ con dân Việt khi nhớ về cội nguồn của mình thì không thể
không thực thi tinh thần tương thân tương ái. Những giá trị tinh tế này phải
chăng là nền tảng cho lòng nhân ái vốn được triển nở trong nền văn hóa tâm linh
của “Chữ Nhân” trong Nho Giáo, “Từ Bi” trong Phật Giáo và “Bác ái” trong Kitô
Giáo. Những giá trị nhân sinh này ảnh hưởng và chi phối không nhỏ đến đời sống
con người, nên cần có sự nhìn nhận đúng đắn và hiểu rõ để việc thực hành nhân
ái giữa người với người không dừng lại ở những tình cảm vật chất, nhưng giúp
con người vươn tới tình yêu tuyệt đối siêu việt theo mẫu gương Thầy Chí Thánh
Giêsu.
I.
Một cái nhìn về chữ “ Nhân”
trong Nho Giáo, “ Từ Bi” trong Phật Giáo và “ Bác ái” trong Kitô Giáo.
1.
“Nhân” trong Nho Giáo :
Quan niệm “ Nhân” là nội dung cơ bản,
tư tưởng chủ đạo của Khổng Tử. Đức Nhân là đức cao quý nhất trong Nho Giáo và
là công lao của Khổng Tử. Đức Khổng đề cao và triển khai các góc độ của Đức
Nhân qua sách Luận Ngữ. Nhân có nhiều tình cảm rất hậu nên bao hàm Ái, đó là
đức Nhân Ái. Trong Luận Ngữ, ta lại bắt gặp chữ “nhân ái” khá nhiều[1] và đức nhân trở thành điều
cao quý nhất, thành “nhân sinh chi đạo”.
“Nhân” được coi là cái quy định bản tính con người thông qua “ lễ”, “nghĩa”,
qui định quan hệ giữa người và người từ trong gia tộc đến ngoài xã hội. Nếu coi
các phạm trù đạo đức trong triết học Khổng Tử như những vòng tròn đồng tâm thì
“ Nhân” là tâm điểm, bởi nó đã chỉ ra bản chất trong bản tính con người. “Nhân”
trong quan niệm của Khổng Tử là “yêu
người” (Luận ngữ, Nhan Uyên 21). Coi Nhân là yêu người trong Luận ngữ,
Khổng Tử đã dành không ít lời để nói về Đạo làm người. “Nhân là nhân giả, ái
nhân”, nghĩa là thương người (Khổng Tử trả lời Phàn Trì), “Nhân” là coi người
như mình, cái gì không muốn thì đừng làm cho người khác “kỷ sở bất dục vật thi
ư nhân”, Khi Nhan Uyên hỏi Khổng Tử về “Nhân”, Khổng Tử đã nói : “Sửa mình theo
lễ là nhân. Ngày nào cũng khắc kỷ phục lễ, ngày đó mọi người trong thiên hạ tự
nhiên cảm hóa mà theo về đức nhân. Vậy nhân là do mình, chớ há do người sao?” (Luận ngữ,
Nhan Uyên, 1).
Nhân còn được nói đến là “Hiếu”, là
nuôi nấng, chăm sóc cha mẹ đồng thời tỏ lòng kính trọng, yêu thương cha mẹ hết
mực. Nhân còn được đề cập là lòng cảm thông với mọi người, không phân biệt
chủng tộc, giống nòi, ngôn ngữ, quốc gia. Đạo nhân phải vượt qua biên giới, kỳ
thị, ngăn cách để trở thành: Tứ hải giai huynh đệ. Nhân ái là thương mọi người,
không loại trừ một ai. Nhân là gốc rễ dẫn đầu các đức khác, đặc biệt trong Ngũ
Thường: Nhân , Lễ, Nghĩa, Trí, Tín vẫn luôn luôn được đề cao và vẫn có giá trị
cải thiện nhân sinh và thăng tiến phẩm giá con người.
2. “Từ bi” của Phật Giáo
“Dẫu xây chín đợt phù đồ
Không bằng làm phúc cứu cho một người”
Không bằng làm phúc cứu cho một người”
“Từ Bi” của Phật Giáo thực chất là lòng thương người rộng
lớn, vị tha, vì người khác, không kể đó là ai. Lòng yêu thương nói trên không
thuộc lãnh vực đam mê, bởi đam mê là ham muốn, mà Phật Giáo chống lại ham muốn.
Lòng từ bi này không hướng về một số người giới hạn nhưng mở rộng đến mọi
người, ngay cả đến mọi sinh linh trên cõi thế. Người có lòng từ bi đối với
chúng sanh không phân biệt kẻ oán người thân, phải đến với họ bằng tâm từ bi,
tâm thương yêu chân thành và tâm thông cảm. Từ bi nói trên cũng đặt trên nguyên
tắc bất di bất dịch của Phật Giáo là tôn trọng,
bình đẳng giữa mọi tạo vật, coi mọi chúng sinh như nhau, không phân biệt
bạn- thù hay thân-sơ, giai cấp, địa vị, tính tình… Điều quan trọng là làm thế
nào“ giải thoát chúng sinh” ra khỏi vòng luân hồi bất tận của Phật Giáo. Đức
Phật nói: “Tiếng kêu đau thương của thế
giới xé rách màng tai, lòng Từ Bi của ta chỉ muốn xóa bỏ những cảnh khổ đau của
nhân loại”. Đây cũng là một lối đi riêng nhưng vẫn dẫn vào khu vườn chung
của nhân loại, khu vườn mà tiếng khóc nhiều khi lấn át tiếng cười “ Nước mắt chúng sinh trong ba ngàn thế giới
góp lại còn nhiều hơn nước đại dương” ( Lời Phật). Hòa thượng Thích Thiện
Hoa định nghĩa: “Từ nghĩa là thương yêu,
là làm vui cho người và vật; Bi là thương xót người hay vật, khi thấy họ đau
khổ gặp hoạn nạn, và cố cứu họ ra khỏi hoàn cảnh ấy. Từ thuộc phạm vi tích cực
(làm thêm vui); Bi thuộc phạm vi tiêu cực (trừ cái khổ)” [2]
Từ bi là bất chấp ngã, không bám víu
vào cái “ngã” mà hướng về cái “tha”, biểu hiện bằng sự hy sinh cứu vớt. Đại
thừa chủ trương từ bi vô lượng, không giới hạn số sinh linh như đối tượng, cũng
như không giới hạn hy sinh về phía mình: người lành thánh hay bồ tát không thể
không làm hết cách để cứu chúng sinh khỏi luân hồi nghiệp quả. Lại không chỉ
cứu vớt thiêng liêng thôi, mà cứu vớt thể xác nữa: cho kẻ đói ăn, nâng đỡ và
cứu vớt kẻ bất hạnh. Cứu vớt dù cho vì thế phải hy sinh. Quả thật, Phật Giáo
quen nói đến tứ vô lượng tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả. Từ bi đi đôi với Hỷ xả. Hỷ nhắm
đến sự an định và an lạc sâu xa, vui với hạnh phúc của tha nhân. Xả: bỏ đi,
không quyến luyến, vấn vương[3].
Trong sách Cốt Tủy của Tâm kinh Dalai
Lama có viết:
“Theo quan điểm Phật Giáo, từ bi là nguyện vọng, trạng thái của tâm thức
muốn người khác thoát khỏi khổ đau. Nó không tiêu cực, không là sự đồng cảm cô
đơn, hơn là hành động cảm thông vị tha, hành động phấn đấu nhằm giải thoát khổ
đau cho người khác. Từ bi thật sự phải hội đủ hai yếu tố: trí tuệ và tình
thương. Điều này muốn nói rằng: người hiểu biết về bản chất khổ đau mới có ước
muốn giúp người khác thoát khổ, đây là trí tuệ, phải có kinh nghiệm sâu sắc về
khổ đau mới thật sự cảm thông với tha nhân, đây là tình thương”.
Như thế, từ bi không còn thuộc lãnh vực của Luật nữa mà
là Pháp (nền tảng hay nguyên tắc, giáo lý căn bản) mà mỗi một người Phật tử cần
phải thực thi trong cuộc đời của mình.
3. “Bác ái”
trong Kitô Giáo
Nếu Nho Giáo nhấn đến “Nhân” là gốc rễ cho những giá trị
nhân sinh của con người, Phật Giáo Đại Thừa nhấn vào “Từ Bi” như nền tảng căn
bản Phật Pháp, thì Kitô Giáo nhấn vào “Đức Ái”. Tâm lý triết học chia bác ái ra
làm nhiều loại: bác ái đối chác, theo nghĩa “bánh ít đi, bánh qui lại”; bác ái
ngân hàng là bác ái kiểu cho vay lấy lãi một cách sòng phẳng; bác ái vị tha là
bác ái hoàn toàn cho đi vô vị lợi, bác ái quảng đại tức là biết sẵn sàng trao
ban hơn cả những gì mà đối tượng chờ đợi.... Thế bác ái Kitô Giáo là bác ái gì
nếu chẳng phải là bác ái của Tin Mừng: đại đồng, vị tha và quảng đại. Đức ái
được diễn tả như nền tảng của nhân bản Kitô Giáo khi Thiên Chúa được Thánh
Gioan phát hiện ra bản chất Tình Yêu của Ngài “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4, 8). Không phải Ngài chỉ yêu và yêu
đến vô tận, một cách dị thường, mà Ngài là chính sự yêu thương, bản chất là yêu
thương. Có thể nói rằng, Tin Mừng Đức Giêsu mang đến để dạy cho muôn dân được
cứu rỗi và được sống muôn đời được thâu tóm trong 2 điều quan trọng là mến Chúa
yêu người. Bản chất của bác ái là Đức Mến, một trong ba nhân đức đối thần. Khi
người Kitô hữu thực thi bác ái thì chính là thể hiện đức mến trong đời sống
mình.
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo dạy: “Đức mến là một nhân đức đối thần làm cho ta
yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và vì bản thân Ngài, và yêu thương tha nhân
như bản thân ta vì lòng mến Thiên Chúa” ( GLCG số 1822). Thật vậy, “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba
đều tồn tại nhưng cao trọng hơn cả là đức mến”. ( 1Cr 13,13). Vì cội nguồn
tuyệt đối của đức yêu thương là chính bản chất của Thiên Chúa tối cao, con
người là đối tượng của Tình Yêu phát sinh từ Thiên Chúa, Đức Giêsu đã “nhập thể và nhập thế” vì Tình Yêu, sống
vì Tình yêu và chết cũng vì tình yêu.; Đấng vì yêu nhân loại vô vị lợi, tạo
dựng và cứu chuộc con người bằng việc tự hiến thân mình làm hy tế dâng lên Chúa
Cha đền thay nhân loại. Để có được tình yêu vị tha hoàn toàn đó, con người phải
được cải biến từ gốc đến ngọn, đón nhận ân
sủng đến với mình để kêu lên “Abba, Cha ơi” (Rm 8, 15). Nơi Đức Kitô, con người
trở thành con Cha cũng là nơi tiếp nhận Tình Yêu Đức Kitô để yêu Cha và yêu anh
em mình trong Cha: không có yêu Chúa nếu không yêu anh em.
Vì Thiên Chúa là tình thương
tuyệt đối, nên yêu thương, bác ái là tiêu chuẩn, thước đo Thiên Chúa dùng để
phán đoán con người. Đức ái không dừng lại chỉ ở việc yêu thương những người có
thiện cảm, những người mình yêu thương nhưng là yêu thương và cầu nguyện cho cả
những người nằm trong đối tượng là kẻ thù, như thế mới xứng đáng là “con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời,
vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và
cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính.” ( Mt 5, 45).
Phải chăng theo quan niệm như
người Do thái? Anh em tôi là người thân, là người đồng bào, là người đồng
hương. Với Chúa, anh em tôi là tất cả mọi người: là người ngoại bang Samaria,
là người đàn bà ngoại tình, là người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp, là những người đất Canaan, là tất cả mọi người… Vì
Thiên Chúa là Đấng tha thứ mãi mãi, Đấng không bao giờ nhớ hoài sự lỗi của con
người, nên tuyệt đối không có sự hận thù, ghen ghét, mà phải là lòng khoan
dung, tha thứ vô điều kiện và giới hạn “Thầy
không bảo là tha đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” ( Mt 18,
21-22). Chính Chúa Giêsu đã nên gương mẫu đức ái khi Ngài yêu thương và cầu
nguyện cho cả kẻ sỉ nhục và đóng đinh Ngài “Lạy
Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm” ( Lc 23, 34).
Đức ái cũng mời gọi không lên án, xét đoán tha nhân.
“Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa
xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán
như vậy; và anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy chi anh em.
Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt
của mình thì lại không để ý tới?”( Mt 7, 1-3).
II. Linh đạo Bác ái Kitô Giáo
1.
Nền tảng bác ái Kitô Giáo
“Thiên Chúa là Tình Yêu”( 1Ga 4, 16), nguồn mạch phát sinh tình yêu thương và lòng bác ái
Kitô Giáo. Nền tảng Tình Yêu này được xây dựng trên một gương mẫu sống động và
cụ thể đó là Đức Giêsu. Ngài không chỉ là 1 bậc thầy tư tưởng, 1 guru, một kinh
sư hay một tiên tri. Ngài hội đủ những tư cách ấy và còn hơn thế nữa. Ngài hành
xử khác hẳn những bậc thầy tâm linh trước hoặc sau Ngài. Ngài không những
thuyết giáo về Tình Yêu Thiên Chúa, mà Ngài còn là chính Tình Yêu. Ngài đến
khai mở bộ luật: luật yêu thương của Kitô Giáo với chuẩn mực độc đáo và siêu
vượt chưa từng có đến nay. “ Ngươi phải
yêu người thân cận như chính mình” ( Mt 22, 39); “ anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,
34). Một khi đã được bắt nguồn từ Thiên Chúa, mọi cái phát xuất từ Thiên Chúa
dĩ nhiên mang tính chất hoàn hảo. Trong Đức Kitô, đức bác ái Kitô Giáo có tính
chất toàn diện vì tóm gọn hết mọi lề luật khác, con người không còn sống theo
luật lệ hình thức bên ngoài, hay những điều trói buộc tự do, ý chí và làm chết
nghẹt sự phát triển nhân cách con người, nhưng giờ chỉ còn một điều luật độc
nhất là yêu mến Thiên Chúa và thương yêu tha nhân như chính bản thân mình.
Bác ái là yêu giống như Chúa
yêu. Thiên Chúa là “ lòng mến”, Thiên Chúa là “ Tình Yêu”. Ai yêu thương thì
sinh bởi Thiên Chúa và biết Thiên Chúa. Nếu chúng ta không yêu thương, thì
chúng ta không biết Thiên Chúa và không có sự sống đời đời. Khởi đi từ cuộc gặp
gỡ Đức Kitô, con người có thể trao ban tình yêu này cho anh chị em đồng loại
qua việc bác ái vì “ tình yêu Đức Kitô thúc
bách tôi”( 2 Cr 5, 14). Vì thế cách nhìn của người môn đệ Đức Kitô về người
khác không chỉ xuất phát từ tình cảm tự nhiên, nhưng giúp họ khám phá ra hình
ảnh Thiên Chúa nơi những người mình phục vụ, mỗi nhân vị là hình ảnh Thiên Chúa
tốt đẹp và sống động “ chỉ có việc phục
vụ tha nhân mới mở mắt cho tôi thấy điều Thiên Chúa làm cho tôi và Người đã yêu
tôi như thế nào”.[4] Mọi hoạt động bác ái của con
người cũng bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa và quy hướng về Thiên Chúa. Như
thế, hoạt động bác ái mới có giá trị thật sự và tồn tại muôn đời. [5]
2.
Những mẫu gương đã sống theo Linh đạo
Kitô Giáo
Trong
lịch sử Giáo Hội Công giáo, ngoài con đường của Đức Kitô, nhiều vị Thánh Nhân
đã đi theo con đường của Chúa để sống đức ái với tha nhân: một thánh Martinô đã
chia áo choàng của mình cho một người nghèo hay việc phục vụ bác ái đối với tha
nhân, Phanxicô Assisi, Inhaxio Loyola, Gioan Thiên Chúa, Vinh Sơn Phaolô, và
một vị nổi tiếng trong thời đại ngày nay là Mẹ Têrêsa Calcutta, là những mẫu
gương danh tiếng về bác ái xã hội cho mọi người thiện chí. Chính đời sống của
các ngài là những dấu chứng hùng hồn của một con người vui với người vui, khóc
với người khóc, cảm thông, chia sẻ cho những ai cần đến mình, nâng đỡ cho những
anh em bần cùng, đói khổ, những người bị bỏ rơi, những người bị gạt ra bên lề
xã hội, những người thấp bé đang bị các thế lực bạo tàn, cường quyền áp đặt.
Các thánh nhân là những người đích thực mang ánh sáng của lịch sử, là những con
người của đức tin, hy vọng và tình yêu phản chiếu khuôn mặt yêu thương của Đức
Kitô với con người.
1.
Đức ái trong cộng đoàn
Yêu thương là hành vi của trái tim, nên cần khởi sự trong
tâm tình. Chưa có tâm tình yêu thương thì đừng nói gì đến đời sống bác ái.
Trong đó, mức độ tối thiểu để có tâm tình yêu thương là chấp nhận con người tha
nhân. Đời tu sẽ không phát triển đầy đủ
nếu mỗi người không thực thi đức ái. Trong đời Dâng Hiến, cộng đoàn là nơi đức
ái được biểu lộ cách rõ nhất. Bước vào đời sống cộng đoàn, chúng ta sẽ gặp
không ít khó khăn như tính cách, sở thích mỗi người khác nhau, không hợp nhau,
cần có một đời sống khiêm nhường, bác ái, chấp nhận và chịu đựng lẫn nhau, giúp
nhau vượt qua những khó khăn, thử thách, chia ngọt, sẻ bùi cho nhau để vượt lên
chính mình, nếu không mỗi cá nhân sẽ sống khép kín trong vỏ bọc của mình, khó
hòa nhập với cuộc sống chung. Thử có một cái
nhìn vào cộng đoàn các Tông Đồ do chính Chúa Giêsu gọi và chọn, trước khi làm
công việc chọn gọi này Chúa cũng trải qua thời gian cầu nguyện, nhưng đâu có ai
là hoàn hảo hết, vẫn còn đấy những khiếm khuyết, bất toàn, kể cả Phêrô. Cái
nhìn này giúp ta thoát khỏi những ảo tưởng về một cộng đoàn hoàn hảo, những con
người lành thánh để không cảm thấy hụt hẫng và giảm sút nhiệt huyết, tinh thần
tu trì của ngày nào. Phải chân nhận mà nói để nhận diện được đức bác ái và thực
thi cho trọn hảo quả không đơn giản.
Bác ái
là “đừng tỏ ra là người xa lạ với nhau,
đừng dửng dưng về số phận của anh chị em mình”, nhưng cần có thái độ quan
tâm đến anh chị em bằng mở rộng đôi mắt trước nhu cầu của tha nhân: nhạy bén để
nhận ra ước muốn của họ về thể lý, luân lý và tinh thần “điều thiện là điều khơi dậy, bảo vệ và thăng tiến sự sống, tình huynh
đệ và sự hiệp thông”[6]. Làm thế nào để mỗi thành viên trong cộng đoàn cảm nhận
được nơi đây là gia đình đích thực, được nâng đỡ và yêu thương, thấy được sự
hiện diện của Chúa ở giữa cộng đoàn, đặc biệt nhận ra Chúa qua lối sống và lối
cư xử với nhau. Thế nhưng, lắm lúc những thái độ đó lại được chúng ta sử dụng
cách tinh vi bằng những lời biện hộ hay che đậy bằng vẻ tôn trọng “ đời tư” của
người khác để cho phép mình dửng dưng, lạnh nhạt với tha nhân. Một điều luôn
làm thao thức biết bao người có trách nhiệm khi càng ngày càng thấy con người
đang dần dần thiếu mất cái nhìn nhân đạo và yêu thương. Phải chăng sự giàu có
vật chất cũng như khuynh hướng đặt lợi ích và các vấn đề của mình lên mọi thứ
khác đang chiếm nhiều ưu thế và nhiều thời gian khiến con người không còn thời
giờ dành cho nhau.
Một vấn đề cũng liên quan đến đức ái
trong cộng đoàn là sửa lỗi cho nhau. Quả thật, đây là vấn đề khá tế nhị, Đức
Thánh Cha Benedicto XVI trong sứ điệp Mùa chay 2012 cũng đã nhắn nhủ: “Trong thế giới chúng ta bị thấm nhiễm xu
hướng cá nhân chủ nghĩa, cần phải tái khám phá tầm quan trọng của sự sửa lỗi
huynh đệ, để cùng nhau tiến bước về sự thánh thiện”. Ngài nhắc nhở người
sửa lỗi cũng như kẻ được sửa lỗi : “Tất
cả chúng ta đều yếu đuối và bất toàn (x. 1 Ga 1, 8), nên thật là một việc hữu ích khi chúng ta giúp đỡ kẻ khác và để kẻ
khác giúp đỡ ta, để mọi người chúng ta có thể thấy rõ tất cả sự thật về bản
thân, cải tiến đời sống mình và tiến bước ngay thẳng trên con đường của Chúa.”
Thực chất đời sống người môn đệ là
cuộc hoán cải không ngừng để trở nên hoàn thiện, có ai dám cho rằng mình sinh
ra đã thành thánh, không cần nỗ lực sửa đổi và tập luyện để ngày nên hoàn thiện
như Cha trên trời mời gọi“Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.” ( Mt 5, 48). Việc sửa lỗi bác ái và
chân thành không phải là khiển trách hay lên án kết tội “Ta không lên án chị đâu! Chị hãy về bình an, và đừng phạm tội nữa!"
(Lc 6,11), cũng không ém nhẹm hay che giấu những lỗi lầm công khai hay kín đáo
của anh chị em trong cộng đoàn nhưng một cách nào đó gặp gỡ, góp ý, sửa sai với
tình yêu thương và ước muốn người anh em hoán cải thật sự và được biến đổi chứ
không ngoài ý tưởng đen tối nào khác. Qua đó, chúng ta xác tín rằng tâm tư của
Đức Kitô không như người thế gian luôn khép kín, xét đoán...để rồi gạt bỏ đức
ái bên lề đường cuộc sống. Điều này thật đáng cho chúng ta phải suy tư và phải
xét lại khi chúng ta có những cái nhìn về người khác.
Mặt khác, việc hoàn thiện cá nhân hay
tập thể cũng không loại trừ khỏi đặc tính liên đới, bởi sự thăng tiến đời sống
thánh thiện của từng cá nhân trong cộng đoàn cũng cần có sự cộng tác và trách
nhiệm của mọi người trong cộng đoàn. Mỗi thành viên có trách nhiệm, quyền lợi
và nghĩa vụ trong cộng đoàn, cộng đoàn thăng tiến thì hành trình ơn gọi mỗi
người sẽ tiến triển trong sự thánh thiện. Bên cạnh đó, Đức ái chỉ được lớn lên
khi chúng ta sống trong sự thật. Cộng đoàn là nơi sự thật ngự trị. Đức ái và sự thật luôn
luôn gắn liền với nhau. Không có yêu thương thật sự, chúng ta sẽ sống giả dối,
dùng những vỏ bọc để sống với nhau. Thánh Phaolô nói: “Lòng bác ái không
được giả hình giả bộ, anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành,
thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình, nhiệt thành
không trễ nải.” ( Rm 12, 9-10)
Cộng đoàn là nơi Thiên Chúa hiện diện: “Hai hay ba
người trong anh em hợp lại cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy Đấng ngự trên
trời sẽ ban cho.” ( Mt 18, 19), cộng đoàn này phải là nơi diễn tả sự hiệp nhất của Cộng đồng Ba
Ngôi, cộng đoàn này phải là nơi an ủi, vồ về cho chị em khi gặp buồn phiền,
chán nản hay những thất vọng trong đời Dâng Hiến và công tác mục vụ, cộng đoàn
này phải là nơi bênh vực sự thật, bênh vực nhân phẩm con người, nơi tha nhân
cảm thấy được chữa lành cả xác và hồn, nơi mà con người cảm thấy được yêu
thương, quan tâm, lo lắng, thấy được tôn trọng, được chấp nhận, được kính
trọng, được khích lệ để vươn lên trong cuộc sống, là nơi tha nhân tìm thấy được
sự giúp đỡ về vật chất cũng như tinh thần. Đặc biệt, việc tìm kiếm vẻ kiều diễm
của Thiên Chúa thúc giục những người thánh hiến lưu tâm đến dung nhan của Chúa
Kitô bị biến dạng trên gương mặt của anh chị em mình, những gương mặt tiều tụy
vì đói khát, những gương mặt thất vọng vì những lời hứa chính trị, những gương
mặt tủi hổ của kẻ nhìn thấy nền văn hóa của mình bị khinh miệt, những gương mặt
kinh hoàng vì bạo lực mù quáng, những gương mặt trẻ thơ bị hành hạ, những gương
mặt phụ nữ bị xúc phạm và bị lăng nhục, những gương mặt mệt mỏi của các người
di cư không được ân cần tiếp đón… Như vậy,
đời thánh hiến, nhờ ngôn ngữ của các việc làm, chứng tỏ rằng tình yêu Thiên
Chúa là nền tảng và là động lực của tình yêu nhưng không và tận tụy.[7]
Nhận định
Sau khi đã thử có cái nhìn về lòng nhân ái trong “Nhân”
của Nho Giáo, “Từ Bi” của Phật Giáo, “ Bác ái” của Kitô Giáo, đã cho chúng ta
nhận thấy những tư tưởng này được đặt trong mối tương quan với nhau, tất cả đều
hướng con người đến lòng nhân ái, cảm thông và yêu thương con người trong mọi
hoàn cảnh. Tuy nhiên, cũng vẫn là việc yêu thương còn quy về con người “quy
nhân”, mà trong Đức ái Kitô giáo sẽ có những nét dị biệt với các tôn giáo khác
trong việc thực thi bác ái. Dù không dám làm cuộc so sánh nhưng cũng có thể
nhận ra được rằng Đức ái Kitô Giáo không dừng lại ở việc thương người theo
những tình cảm đạo đức bình thường nhưng đưa con người vươn đến sự hiệp thông
thần linh với tình yêu Thiên Chúa, chắc chắn các hành vi nhân nghĩa này được
nâng lên bằng thái độ hướng Thượng, “quy Kitô”, đưa anh em mình lên giá trị
nhân sinh cao hơn, hoàn thiện hơn. Có thể nói,
chỉ có nơi Đức Giêsu, lòng nhân ái hay lòng yêu thương con người mới được trọn
vẹn và đồng hóa với Tình Yêu Thiên Chúa.
[1] Luận Ngữ có khoảng 58 chỗ đề cập quan niệm về nhân
và có tất cả 109 chữ nhân.
[2] Tám quyển
sách quý – NXB T.p HCM, 2000, tr.530
[3] x. Thích Minh Châu, Từ điển Phật Học Việt Nam.
[6] Sứ điệp Mùa Chay năm
2012 của ĐTC Benedicto XVI
[7] ĐTC Gioan Phaolô II, Tông Huấn Đời sống Thánh Hiến, tr. 155.
Đăng nhận xét