Đức Nhân
trong Nho Giáo
được người xưa quan niệm với một chiều kích cao rộng,
có tầm mức từ thấp lên cao, từ gần ra xa.
Tuần tự phát triển đức Nhân,
người ta có thể từ bỏ con người tiểu nhân
tiến lên bậc quân tử, thánh hiền, thậm chí “phối Thiên”.
có tầm mức từ thấp lên cao, từ gần ra xa.
Tuần tự phát triển đức Nhân,
người ta có thể từ bỏ con người tiểu nhân
tiến lên bậc quân tử, thánh hiền, thậm chí “phối Thiên”.
Lý Minh Tuấn
Nho
giáo là cột trụ của nền đạo lý Viễn Đông bao gồm các quốc gia: Trung Hoa, Việt
Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Nền đạo lý này, có nguồn gốc từ trước Đức Khổng, chi
phối tất cả mọi sinh hoạt của con người trước Công Nguyên cả ngàn năm cho đến
ngày nay. Trong Nho giáo có 5 đức căn bản để duy trì sự ổn định thường xuyên
cho gia đình, xã hội, gọi là Ngũ Thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Đứng đầu
Ngũ Thường là đức Nhân. Đức Nhân quan trọng đến nỗi Nho Giáo khẳng định: Phải
có đức Nhân, người ta mới được gọi là con người đúng nghĩa. Sách Trung Dung
viết: “Nhân giả nhân dã: Kẻ có đức Nhân là con người vậy”. Bốn đức kế tiếp
(Nghĩa, Lễ, Trí, Tín) cũng thoát thai từ đức Nhân mà ra.
Vì vậy,
không bao giờ người sống trong Nho giáo có thể bỏ đức Nhân. Mặc dầu, chủ trương
hành động tùy thời, tùy cảnh, Đức Khổng không chấp nhận bỏ đức Nhân trong bất
cứ trường hợp nào: “Quân tử vô trung thực chi gian vi nhân, tháo thứ tất ư
thị, điên bái tất ư thị: Người quân tử trong khoảng bữa ăn không được
trái đức Nhân, vội vàng cũng phải như thế, hoạn nạn cũng phải như thế.”
(Luận Ngữ: Lý Nhân 5). Người quyết tâm giữ đạo lý phải giữ đức Nhân mà không có
luật trừ, nếu cần phải chấp nhận cái chết để thành tựu đức Nhân: “Chí sĩ
nhân nhân, vô cầu sinh dĩ hại nhân, hữu sát thân dĩ thành nhân: Người có
chí hướng về đức nhân, không cầu được sống mà hại đức nhân, có khi chịu chết để
thành tựu đức nhân.” (Luận Ngữ: Vệ Linh Công 8).
Tuy đức Nhân quan trọng và cần
thiết như thế, nhưng chính bậc thầy giảng dạy đức Nhân cho các đệ tử là Đức
Khổng lại chưa thành tựu được hoàn toàn. Ngài nói với các đệ tử: “Nhược
thánh dữ nhân tắc ngô khởi cảm!: Ví bằng bậc thánh và bậc nhân thì sao
ta dám!” (Luận Ngữ: Thuật Nhi 33). Thế thì đức Nhân rộng rãi, cao xa đến
mức nào?
I.
Đường lối
giáo dục đức Nhân trong Cửa Khổng:
Vì rộng
rãi, cao xa, đức Nhân không có một định nghĩa rõ rệt. Đức Khổng giảng dạy đức
Nhân cho các đệ tử không theo một giáo trình định sẵn; Ngài chỉ tùy theo trình
độ, khuynh hướng của mỗi đệ tử, mỗi tình huống, mỗi hoàn cảnh mà dạy về đức
Nhân cho thích hợp.
1.
Đức Nhân ở
trình độ phổ thông:
Phàn Trì
là một đệ tử có trình độ bình thường, hay đánh xe cho thầy trong mỗi chuyến đi.
Khi Phàn Trì hỏi về đức Nhân, Đức Khổng đáp vắn tắt: “Ái nhân: Yêu
người” (Luận Ngữ: Nhan Uyên 21).
Đây là
định nghĩa ngắn nhất, có thể dùng chung cho mọi người, mọi nơi. Đối với cao đệ
Tử Cống, Đức Khổng nói: “Phù nhân giả, kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt
nhi đạt nhân: Phàm, người nhân là mình muốn nên thì nên cho người, mình
muốn thành tựu thì thành tựu cho người.” (Luận Ngữ: Ung Dã 28). Nhân là đức
hạnh nền tảng trong đạo làm người. Đó là yêu thương, giúp đỡ, cứu vớt mọi
người. Đức Nhân được thi hành trọn vẹn thì nên bậc thánh. Bậc nhân lý tưởng là
người coi mọi người chung quanh như mình, yêu mọi người như yêu mình; mình muốn
điều gì tốt thì thi hành cho mọi người như thế; không có sự phân biệt giữa ta
và người. Lấy đó làm ví dụ gần gũi, người ta sẽ biết phương cách thực hành đức
Nhân. Cứ thực hành liên tục như thế không mệt mỏi, không thay đổi thì trở nên
bậc thánh.
Trọng
Cung, một đệ tử đã từng được Đức Khổng khen là người có khả năng làm vua, hỏi
về đức Nhân. Câu trả lời của Đức Khổng có ý hướng về việc chính trị để dạy cho
ông cách vận dụng đức Nhân trong tư cách một nhà cai trị: “Xuất môn như kiến
đại tân; sử dân như thừa đại tế; kỷ sở bất dục vật thi ư nhân. Tại bang vô oán,
tại gia vô oán: Ra cửa như thấy khách lớn; sai khiến dân như đảm đương
lễ lớn; điều gì mình không muốn chớ đem cho người. Trong nước không có điều gì
oán giận, trong nhà không có điều oán giận.” (Luận Ngữ: Nhan Uyên 2). Khi
ra cửa, người nhân phải có dáng nghiêm trang kính cẩn như đón tiếp quan khách ở
cương vị lãnh đạo. Khi sai khiến dân làm việc gì, người nhân phải thận trọng
như đang đảm đương lễ tế lớn, không được coi thường, khinh rẻ dân. Những điều
gì mình không muốn, chớ đem làm cho dân. Ví như mình không muốn bị đàn áp, bóc
lột thì đừng đàn áp, bóc lột dân. Nếu biết tôn trọng dân như vậy, ắt trong nước
sẽ không có điều oán giận. Với cách cư xử ấy, đối với vợ con trong gia đình
cũng không có điều oán giận. Con người làm cho cả trong nhà, ngoài nước được an
vui, cởi mở, không có điều oán giận, ắt phải là bậc đại nhân rồi.
Tư Mã
Ngưu hỏi về đức Nhân. Đức Khổng nói: “Người Nhân, nói năng phải thận trọng”.
Lại hỏi: “Nói năng phải thận trọng, như thế gọi là nhân được chăng?” Đức
Khổng nói: “Làm thì khó, vậy chứ nói năng mà không nên thận trọng sao?” Tư Mã Ngưu vấn Nhân. Tử viết: “Nhân giả,
kỳ ngôn dã nhẫn.” Viết: “Kỳ ngôn dã nhẫn, tư vị chi nhân hĩ hồ?” Tử viết: “Vi chi nan, ngôn chi đắc vô nhẫn hồ?” (Luận Ngữ: Nhan Uyên 3).
Có lẽ Tư
Mã Ngưu là đệ tử hay bồng bột, nóng nảy trong lời nói; cho nên Đức Khổng dạy: “Người
Nhân, nói năng phải thận trong.” Nói năng thận trọng nghĩa là trước khi nói
phải nghĩ ngợi đắn đo thấu đáo. Có thì nói có; không thì nói không. Và cũng có
những điều không nên nói ra, hay không nên nói hết. Lại có những điều nói được
ở nơi này, lúc này mà không nên nói ở nơi kia, lúc kia. Biết thận trọng trong
lời nói là biết căn nhắc xem lời nói của mình có đem ơn ích cho người nghe không,
có làm phật lòng người nghe không, có gây những hậu quả tai hại không. Một
người biết cân nhắc lời nói như vậy hẳn là người nhân, tức là người có những
đức tính tốt ở trong lòng, lại thêm có kinh nghiệm xử thế.
Chưa
hiểu hết ý của thầy, Tư Mã Ngưu nghi ngờ, hỏi lại. Đức Khổng mới giải thêm: Làm
thì khó. Người thiếu nhân không lường được cái khó trong việc làm, cho nên mở
miệng ra là nói cho thỏa thích, không nghĩ rằng sau này mình có làm được như
lời đã nói không. Vì thế, tập làm người nhân, trước hết là phải thận trọng
(nhẫn nhịn) lời nói của mình, liệu mình có làm được hãy nói.
Tử
Trương là một đệ tử có ý hướng ra làm quan cai trị để hưởng lộc nước. Khi ông
hỏi về đức Nhân, Đức Khổng đáp: “Năng hành ngũ giả ư thiên hạ, vi nhân hĩ.”
“Thỉnh vấn chi”. Viết: “Cung, Khoan, Tín, Mẫn, Huệ. Cung tắc bất vũ; Khoan
tắc đắc chúng; Tín tắc nhân nhậm yên; Mẫn tắc hữu công; Huệ tắc túc dĩ sử nhân:
Hay thi hành năm điều đối với thiên hạ là nhân vậy.” Xin hỏi những điều ấy.
Trả lời: “Cung (cung kính), Khoan (tha thứ), Tín (giữ lới hứa), Mẫn (siêng
năng), Huệ (ban ơn). Cung kính thì không bị khinh nhờn; tha thứ thì được lòng
mọi người; giữ lời hứa thì được người tín nhiệm; siêng năng thì thành công; ban
ơn thì đủ để sai khiến được người.” (Luận Ngữ: Dương Hóa 6).
Quả thực,
năm điều trên đã triển khai đầy đủ đức Nhân dành cho một viên quan cai trị:
-
Làm quan mà có thái độ
cung kính nghiêm trang trong khi giao tiếp với dân thì không bị dân khinh nhờn;
đồng thời cũng ít bị cấp trên lấn áp vì không luồn cúi, nịnh bợ.
-
Có sự rộng lượng tha
thứ thì được mọi người yêu mến, tòng phục.
-
Nói ra điều gì thì giữ
lời hứa trước sau như một ắt được mọi người tín nhiệm, sẵn sàng tuân giữ và tin
theo.
-
Siêng năng gắng gỏi
trong công việc thì dễ thành công vì được nhiều người giúp đỡ.
-
Hay ban ơn cho người
dưới thì được người nhớ ơn, cho nên dễ sai khiến người làm công kia việc nọ.
2.
Đức Nhân
dành cho bậc thánh hiền
Đối với những người có khuynh hướng trở nên bậc thánh hiền,
không tha thiết với những thành công thế tục, muốn trở nên con người lý tưởng
luôn an vui trong thiên đạo, Đức Khổng có lời dạy cao hơn. Đó là trường hợp
dành cho Nhan Uyên.
Tử viết: “Khắc kỷ, phục lễ vi nhân. Nhất nhật khắc kỷ, phục lễ,
thiên hạ qui nhân yên. Vi nhân do kỷ, nhi do nhân hồ tai?” Nhan Uyên
viết: “Thỉnh vấn kỳ mục.” Tử viết: “Phi lễ vật thị, phi lễ
vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động”: Khắc chế lấy mình, trở lại
theo khuôn phép là làm điều nhân. Một ngày khắc chế lấy mình, trở lại theo
khuôn phép, mọi người sẽ trở về điều nhân. Làm điều nhân do mình, chứ do người
ư?
Nhan
Uyên nói: “Xin hỏi về điều mục.” Đức Khổng nói: “Chẳng hợp khuôn phép chớ nhìn,
chẳng hợp khuôn phép chớ nghe, chẳng hợp khuôn phép chớ nói, chẳng hợp khuôn
phép chớ hành động.” (Luận Ngữ: Nhan Uyên
1).
Đa số
người đời thường cho rằng đức Nhân là đạo lý hướng về người khác như: yêu
thương, tha thứ, nâng đỡ… Tuy nhiên, trước hết Nhân phải hướng về chính mình;
mình có Nhân tức là có trở nên tốt mới đem cái tốt đến cho người khác được. Vì
thế, đối với Nhan Uyên là đệ tử có thiện chí, Đức Khổng dạy về cách làm điều
Nhân nơi chính mình.
Làm điều
Nhân là: khắc chế những tật xấu, thói hư của mình, đánh đổ những dục vọng riêng
tư của mình. “Khắc kỷ” còn có nghĩa là chinh phục lấy mình; đó là tìm
lại bản tính thuần nhiên mà Trời đã trao cho con người vào thuở ban sơ, không
buông thả mình theo những nhu cầu tầm thường thế tục, không thượng tôn vật chất
mà đánh mất Thiên mệnh.
Song
song với việc khắc chế, đánh đổ, chinh phục, chính mình lại trở về với những
khuôn phép tốt đẹp (phục lễ) của các thánh hiền xưa để lại mà cha mẹ, họ hàng,
thầy giáo… đã dạy bảo mình. “Phục lễ” ở đây không phải là tuân theo
những hình thức lễ nghi gò bó do xã hội áp đặt một cách nhân tạo. Lễ theo nghĩa
cao cả là những tiết điệu uyên nguyên tốt đẹp làm nên sinh mệnh con người lý
tưởng. Có tuân theo những tiết điệu uyên nguyên tốt đẹp thì con người mới có
thể phát triển “Minh đức” (năng lực sáng láng) sẵn có của mình. Thực
hiện đức Nhân ở mức độ này là đem con người ra khỏi sự lệ thuộc vào thế tục,
cho con người được thở bầu khí tự do siêu nhiên thanh thoát. Như vậy, làm điều
Nhân là hoàn thiện chính mình, khiến cho mình trở nên một bậc thánh hiền.
Trong
phạm vi thuộc về ảnh hưởng của mình – chữ “thiên hạ” trong câu nói của
Đức Khổng chỉ thị mọi người nằm trong ảnh hưởng của mình –, nếu một ngày khắc
chế lấy mình, trở lại khuôn phép, thì mọi người thuộc phạm vi của mình sẽ bắt
chước mình về điều nhân (Thiên hạ qui nhân yên).
Trong
gia đình, người cha làm điều nhân sẽ khiến vợ con bắt chước theo. Trong một
tỉnh, vị quan cai trị làm điều nhân sẽ khiến cho dân trong tỉnh bắt chước theo.
Trong một nước, ông vua làm điều nhân sẽ khiến cho các quan và toàn dân bắt
chước. Đức nhân là điều tốt đẹp nhất của con người cho nên có sức cuốn hút mãnh
liệt như vậy.
Làm điều
nhân chủ ở nỗ lực tự giác của chính mình, chẳng ai có thể khiến mình làm điều
nhân được. Chính mình không khắc chế tật xấu, không trở lại khuôn phép, ai có
thể giúp mình được? Người ta có thể giúp mình cơm áo, tiền bạc, nhưng không thể
giúp mình hoàn thiện nếu chính mình không muốn. Đó là yếu chỉ về đức Nhân. Còn
các chi tiết (điều mục) để thực hành là:
-
Điều gì chẳng hợp
khuôn phép chớ nhìn.
-
Điều gì chẳng hợp
khuôn phép chớ nghe.
-
Điều gì chẳng hợp khuôn
phép chớ nói.
-
Điều gì chẳng hợp
khuôn phép chớ hành động.
Người ta phải biết tránh né những điều trái lễ, những điều
xấu như tránh một con thú dữ (tránh voi chẳng hổ mặt nào!). Nếu nhìn, nghe,
nói, hành động những điều chẳng hợp khuôn phép, tâm ta sẽ vọng động, cả con
người ta sẽ đi theo đường trái, làm những điều xấu xa, tai hại ngay. Tâm ta đã
hướng về đường trái thì chẳng khác gì con trâu hung dữ phá phách trong đồng
hoang, khó kềm giữ lại được.
II. Nền tảng của đức Nhân:
Trong
Kinh Dịch, cuốn cổ thư nói về cả thiên đạo lẫn nhân đạo, phần Văn Ngôn quẻ Càn,
tương truyền do Đức Khổng viết, có đoạn mở đầu như sau:
“Nguyên
giả, thiện chi trưởng dã; Hanh giả, gia chi hội dã; Lợi giả, nghĩa chi hòa dã;
Trinh giả, sự chi cán dã. Quân tử thể nhân túc dĩ trưởng nhân; gia hội túc dĩ
hợp lễ; lợi vật túc dĩ hòa nghĩa; trinh cố túc dĩ cán sự. Quân tử hành thử tứ
đức giả, cố viết: Càn, Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh: Nguyên là đầu mối điều
thiện; Hanh là hội tụ mọi điều tốt lành; Lợi là hòa hợp các điều nghĩa; Trinh
là gốc các việc. Bậc quân tử lấy đức Nhân làm bản thể đủ để làm cho con người
được trưởng thành, gom góp mọi điều tốt lành đủ để hợp với lễ nghi, phép tắc;
làm ích lợi cho mọi vật đủ để điều hòa các điều nghĩa; bền vững chắc chắn đủ để
làm gốc các việc. Bậc quân tử thi hành bốn thứ đức ấy, cho nên nói rằng: Càn,
Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.” (Quẻ Bát Thuần Càn, Văn Ngôn).
Thế thì,
theo Nho Giáo, đức Nhân có nền tảng là đức Nguyên trong thiên đạo. Đức Nguyên
là năng lực tốt lành của Trời, là đầu mối các điều thiện, thì đức Nhân là năng
lực tốt lành của con người. Con người do Trời sinh ra thì đức Nhân của con
người cũng thoát thai từ đức Nguyên của Trời. Vì vậy, muốn làm cho con người
được trưởng thành ắt phải lấy đức Nhân làm bản thể.
Trong
gia đình, năng lực tốt lành của con người hướng về cha mẹ, anh em gọi là nết
hiếu, nết đễ. Do đó, Hữu Tử, một môn đệ của Đức Khổng nói: “Quân tử vụ bản;
bản lập nhi đạo sinh. Hiếu đễ dã giả, kỳ vi nhân chi bản dư?: Người quân
tử chuyên chú vào gốc; gốc lập thì đạo sinh. Nết hiếu đễ phải chăng là gốc của
đức Nhân.” (Luận Ngữ: Học Nhi 2).
III.
Đức Nhân:
nền tảng của mọi sinh hoạt tốt đẹp.
Vì đức
Nhân có nền tảng là đức Nguyên, đầu mối các điều thiện, cho nên tất cả mọi sinh
hoạt tốt đẹp của con người, từ các thuần phong mỹ tục cho đến các hành vi văn
hóa như lễ nhạc đều có nền tảng là đức Nhân. Do đó, Đức Khổng khuyên người ta
hãy chọn xóm có đức Nhân mà ở. Ngài nói: “Lý nhân vi mỹ, trạch bất xử nhân,
yên đắc trí?: Xóm có đức Nhân thì tốt đẹp, chọn lựa mà không ở nơi có
nhân, sao được gọi là sáng suốt?” (Luận Ngữ: Lý Nhân 1).
Xóm có
đức Nhân là nơi có nhiều người nhân hậu cư trú. Ở đó, thường có các thuần phong
mỹ tục, có sự yên ổn, không trộm cắp; mọi người sinh hoạt lành mạnh theo đạo lý
và cư xử tốt đẹp với nhau. Là người sáng suốt, khôn ngoan thì phải biết chọn
lựa nơi cư trú cho mình được sống yên ổn, thảnh thơi, có cơ hội học tập đức
Nhân và nhất là cho con cháu mình có một môi trường tốt đẹp, thuận lợi để thăng
tiến. Nếu người nào đó không quan tâm đến nơi ở có đức Nhân mà chỉ chọn lựa nơi
thuận tiện cho công việc làm ăn, dễ phát triển lợi lộc, đến nỗi sau này gia
đình sinh ra hư hốt, thoái hóa, sao có thể gọi là người sáng suốt được?
Về vấn
đề hành lễ và tấu nhạc là những hành vi văn hóa trong sinh hoạt của con người,
Đức Khổng cho rằng cũng cần có đức Nhân làm nền tảng. Ngài nói: “Nhân nhi
bất nhân, như lễ hà? Nhân nhi bất nhân, như nhạc hà?: Người mà không có
lòng nhân, hành lễ được sao? Người mà không có lòng nhân, tấu nhạc được sao?”
(Luận Ngữ: Bát Dật 3).
Theo
quan niệm của Nho Giáo, Lễ không phải chỉ là hình thức lễ nghi bên ngoài; căn
bản của Lễ là sự tôn kính, sự từ nhượng ở trong lòng. Cũng vậy, Nhạc không phải
là những giai điệu tiết tấu của âm thanh phát ra từ các nhạc khí. Nhạc là sự
hòa mục trong lòng, sự hòa mục với tha nhân, với thiên nhiên vạn vật.
Với quan
niệm lý tưởng như vậy về Lễ Nhạc, thì Lễ Nhạc là sự phát tiết của tâm tình tôn
kính, từ nhượng, hòa mục ra bên ngoài, biểu hiện trên hình thức tương giao và
trên cung bậc âm thanh. Thế mà tâm tình tôn kính, từ nhượng, hòa mục chỉ ở con
người có đức Nhân. Còn ở người bất nhân chẳng có những tâm tình ấy. Vì vậy,
người bất nhân không thể hành lễ đúng nghĩa được, không thể tấu nhạc cho nên
được. Người bất nhân dù có hành lễ, đó chỉ là lễ giả dối với những chi tiết
rườm rà, nhưng y phục lòe loẹt, những dáng điệu gượng gạo, chứ không phải thực
lễ. Người bất nhân dù có tấu nhạc, đó chỉ là sự kết hợp của các nhạc khí; giai
điệu âm nhạc chỉ là sự pha trộn các cung bậc bổng trầm một cách rối loạn, chứ
không phải thực nhạc. Thực lễ tạo nên niềm tin, tạo nên sự hòa ái sâu xa. Thực
nhạc tạo nên niềm an vui, giao cảm tốt lành. Còn lễ nhạc giả dối thiếu đức Nhân
làm nền, gây nên sự khó chịu, sự chia rẽ, bất bình, sự khắc khoải, bất an.
Bởi vì
đức Nhân là nền tảng của mọi sinh hoạt tốt đẹp, vốn tiềm tại trong lòng mỗi
người, cho nên đức Nhân đâu có ở xa xôi gì! Nếu ta muốn Nhân thì Nhân ắt đến
lập tức. Trong ý nghĩa này, Đức Khổng nói:
“Nhân
viễn hồ tai? Ngã dục nhân, tư nhân chí hĩ: Đức Nhân có ở xa chăng? Ta
muốn Nhân thì Nhân đến vậy.” (Luận Ngữ: Thuật Nhi 29). Muốn đức Nhân xuất
hiện, chỉ cần xoay hướng lòng muốn. Nếu lòng muốn hướng về ngoại vật, chạy đuổi
theo những tham vọng thế tục như: tiền tài, sản nghiệp, danh vọng, địa vị,
quyền bính, sắc đẹp, tiện nghi vật chất… ắt đức Nhân dần dần bị chôn vùi mất.
Phát triển lòng muốn hướng ra ngoại vật, ấy là khuếch đại lòng Tham. Lòng Tham
sẽ kéo theo sự sân hận khi lòng Tham không được như ý. Tham và Sân cấu kết
khiến cho lòng Si (mê muội) bao trùm tất cả tâm thức con người. Bấy giờ, đức
Nhân như nàng Tiên trong huyền thoại ngủ thiếp trong rừng rậm, không thể tỉnh
dậy được. Bây giờ, muốn Nhân, người ta chỉ việc giải trừ dần dần những dục vọng
hướng ngoại như chặt bỏ những tàn cây rậm rạp trong rừng. Lúc ấy, đức Nhân sẽ
tự hồi tỉnh như nàng Tiên được giải mê. Đức Nhân không phải từ đâu đến mà chỉ
xuất hiện tại tâm con người. Khi đức Nhân hiển hiện thì Chân lý sẽ tỏa sáng
trong người ấy, khiến cho người ấy được an vui và làm bất cứ điều gì cũng trúng
đạo.
IV.
Đức Nhân với
triết thuyết Tam Tài:
Trong Nho giáo, chữ Nhân là đức Nhân được viết thế này:
Chữ Nhân được lập thành bởi bộ Nhân ( ) và chữ Nhị
( ). Bộ Nhân chỉ thị con người đứng trong không-thời-gian. Chữ Nhị chỉ thị hai tầng ý nghĩa:
( ). Bộ Nhân chỉ thị con người đứng trong không-thời-gian. Chữ Nhị chỉ thị hai tầng ý nghĩa:
*
Ý nghĩa xã hội:
Con
người đích thực phải giao hòa tốt đẹp với tha nhân (chữ nhị chỉ thị ta và tha
nhân). Giao hòa với tha nhân tức là thân yêu mọi người (thân dân). “Thân dân”
là hiện thực cương lĩnh thứ hai trong ba cương lĩnh của sách Đại Học: “Đại
học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện: Đường
lối của bậc đại học ở tại làm sáng lên năng lực sáng láng, ở tại thân yêu mọi
người, ở tại nhắm tới trọn lành.” (Đại Học: chương Kinh). Ở phần trên,
chúng ta đã nói đức Nhân có nền tảng là đức Nguyên theo Kinh Dịch; thế mà đức
Nguyên là đầu mối điều thiện, cho nên sống trong đức Nhân chẳng những hiện thực
“thân dân” mà còn “chỉ ư chí thiện” nữa.
*
Ý nghĩa siêu
hình nền tảng:
Con
người đích thực là nơi hội thông nối kết cả hai năng lực: trời và đất (chữ Nhị
chỉ thị thiên địa). Để trở nên con người lý tưởng đích thực, ngoài việc thân
yêu mọi người, ta còn phải sống thích hợp với qui luật thiên nhiên, ứng hợp với
hai năng lực thiên địa, điều phối tốt đẹp hai năng lực thiên địa để xứng đáng
trở nên Tài Nhân trong triết thuyết Tam Tài.
Tam Tài là ba tài năng: Thiên Địa Nhân (Trời, Đất,
Người).
Tài năng
Trời là: năng lực của ánh sáng và dưỡng khí.
Tài năng
Đất là: năng lực sinh dưỡng vạn vật (bao gồm đất và nước).
Tài năng
Người là: khả năng điều phối tài năng Trời và tài năng Đất để làm cho mọi người,
mọi vật được phát triển phong phú, tốt đẹp.
Con
người muốn thực hiện được chức năng Tài Nhân phải có tấm lòng bao la yêu thương
mọi người, mọi vật với ý hướng tốt đẹp là biến đổi cả xã hội và thiên nhiên trở
nên một môi trường thiện hảo. Với cứu cánh lý tưởng hoàn mỹ như thế, con người
tồn dưỡng đức Nhân mới trở nên bậc Vương. Bấy giờ chữ Nhân biến thành chữ Vương
(bộ Nhân di chuyển vào giữa chữ Nhị biến thành chữ thập nối kết hai nét thiên
địa thành chữ Vương).
Vương là ông vua, là con người đích thực, tồn dưỡng đức
Nhân, hiện thực chức năng Vương đế, thành tựu sứ mạng Con Trời (con Thiên
Chúa).
Như thế,
đức Nhân có liên hệ mật thiết với triết thuyết Tam Tài. Muốn trở thành Tài Nhân
để sánh với Tài Thiên và Tài Địa, con người phải dồi dào đức Nhân, phát huy đức
Nhân tối đa.
V. Nhà Minh Đường: Thể chế minh triết để thành tựu đức Nhân
cao cả
Đức Nhân
cao cả đưa con người tiến lên bậc thánh nhân. Đó là điều rất khó khăn; tuy
nhiên các tiên vương ngày xưa đã cố gắng tạo nên một thể chế để khuyến khích
người ta, nhất là bậc vua quan ở cương vị trị nước, bằng cách minh họa những
bước thăng tiến trong việc hiện thực đức Nhân ở mức cao cả. Thể chế đó là xây
dựng một ngôi nhà đặc biệt mang ý nghĩa biểu trưng: nhà Minh Đường.
Ý nghĩa
và hình thức của ngôi nhà này đã có từ lâu, khoảng trên 2.000 năm trước Công
Nguyên. Đời Nghiêu Thuấn gọi nhà đó là Ngũ phủ. Đời nhà Hạ gọi là Thế Thất. Đời
nhà Ân gọi là Trùng Ốc. Đời nhà Chu gọi là Minh Đường (ngôi nhà sáng láng);
được xây tại chân núi Thái Sơn. Minh Đường gồm có năm căn:
Minh Đường
|
||
Thanh Dương
|
Thái Thất
|
Tổng Chương
|
Huyền Đường
|
- Căn Bắc: Huyền Đường.
- Căn Nam: Minh Đường.
- Căn Đông: Thanh Dương.
- Căn Tây: Tổng Chương.
- Căn Trung Ương: Thái Thất.
Ngôi nhà
này được bố trí theo mô thức Lạc Thư nhưng đồng thời thể hiện khuôn mẫu Ngũ
hành (Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ). Ngôi nhà biểu tượng cho sự thăng tiến tâm thức
con người trong đức Nhân, chỉ thị bằng ba bước, tương ứng với ba căn phòng ở
giữa: Huyền Đường, Minh Đường, Thái Thất.
Ba căn ở giữa thể hiện triết thuyết Tam Tài: Thiên Địa
Nhân.
Huyền
Đường: Chỉ thị tâm thức con người bắt
đầu bước vào cõi đạo, phát triển đức Nhân, dần dần trút bỏ những tư ý, tư dục của cá nhân, xóa bỏ sự xa cách giữa
người với người (ta và tha nhân), tập luyện nhân đức trở nên người quân tử.
Theo
sách Luận Ngữ, đây là trình độ của thầy Tử Lộ. Đức Khổng nói: “Do dã thăng
đường hĩ; vị nhập ư thất dã: Trò Do
(Tử Lộ) đã bước lên nhà (Huyền Đường) rồi; nhưng chưa vào được căn phòng Thái
Thất.” (Luận Ngữ: Tiên Tiến 14).
Minh
Đường: Chỉ thị tâm thức con người đã
sáng tỏ, tiến xa trong đức Nhân, trở nên bậc hiền nhân (trình độ của thầy Nhan
Hồi: Nhan Uyên), xứng đáng làm mẫu mực cho thiên hạ, xứng đáng ở chức vụ cai
trị đất nước. Bậc này không còn bị thoái chuyển trở lại con người phàm tục nữa.
Trong
sách Luận Ngữ, Đức Khổng đã nhận xét về Nhan Hồi bằng những câu sau:
- “Hồi
dã, kỳ tâm tam nguyệt bất vi nhân: Trò Hồi, ba tháng lòng không lìa đức
Nhân.” (Luận Ngữ: Ung Dã 5).
- “Hiền
tai Hồi dã, nhất đan dự, nhất biều ẩm, tại lậu hạng. Nhân bất kham kỳ ưu; Hồi
dã, bất cải kỳ lạc. Hiền tai Hồi dã: Đức hạnh thay trò Hồi, một
giỏ cơm, một bầu nước, ở ngõ hẹp. Người ta không chịu đựng được lo buồn; trò
Hồi thì không đổi niềm vui. Đức hạnh thay trò Hồi.” (Luận Ngữ: Ung Dã 9).
Thái
Thất: Chỉ thị con người đã trở nên bậc
thánh nhân, tâm thức huyền đồng với Trời (Thượng Đế), trở nên Tài Nhân trong
Tam Tài. Con người ở trong căn phòng này là con người đúng nghĩa, con người lý
tưởng, có tâm thức siêu việt, đạt tới trình độ phi không–thời–gian. Vào căn
phòng này được gọi là “Nhập thất” (vào nhà Thái Thất); người ấy đã đến
mức cuối cùng trong chặng đường tiến hóa. Nói theo quan niệm của L.M. Teilhard
de Chardin, người ấy đã đạt tới đích điểm Oméga.
Để đạt
tới mức này, tâm thức cần đi qua hai căn hỗ trợ là Thanh Dương và Tổng Chương.
Thanh
Dương: Thanh lọc tinh luyện tâm hồn.
Tổng
Chương: Thấu tỏ vạn vật.
Qua lại
hai căn Thanh Dương và Tổng Chương là điều kiện thiết yếu để đạt tới chỗ hội
thông “Trời Đất Người” (thiên nhiên và con người).
Các vua
nhà Chu thiết kế nhà Minh Đường tại chân núi Thái Sơn với thâm ý rằng nền chính
trị phải được đặt nền trên đức Nhân vững vàng như núi. Hiểu được ý nghĩa đó,
cho nên Đức Khổng mới nói: “Nhân giả nhạo sơn: Người nhân vui ngắm
núi.” (Luận Ngữ: Ung Dã).
* * *
Đức Nhân
trong Nho Giáo được người xưa quan niệm với một chiều kích cao rộng, có tầm mức
từ thấp lên cao, từ gần ra xa. Tuần tự phát triển đức Nhân, người ta có thể từ
bỏ con người tiểu nhân tiến lên bậc quân tử, thánh hiền, thậm chí “phối
Thiên”. Đức Nhân có thể khiến cho gia đình an vui, xã hội ổn định và nhân
loại thái hòa. Với nghĩa phổ thông: “Nhân là yêu người” thì người tầm
thường ít học nhất cũng có thể thực hành được; nhưng đạt đến mức cao cả, thì
đến Đức Khổng là bậc thầy trong Nho Giáo cũng chưa hiện thực nổi. Tuy nhiên,
Kinh Dịch của Nho Giáo có nói tới “Thiên hựu” (ơn Trời). Nhờ Thiên hựu
và sự quyết tâm, nhiệt thành của những con người thiện chí, đức Nhân có thể
thành tựu trong cõi đời ./.
Đăng nhận xét