Canh Tân Đời Sống Tâm Linh
Khởi Đi Từ Ngôi Lời Nhập Thể
& kinh nghiệm tâm linh nguyên khởi
Khởi Đi Từ Ngôi Lời Nhập Thể
& kinh nghiệm tâm linh nguyên khởi
Đời sống thánh hiến hôm nay
cần đến một sự tái sinh thiêng liêng,
bằng cách “buông theo Thần Khí”
và sống sự phong nhiêu của đời thánh hiến
trên nền tảng Tin mừng và phép Thánh tẩy
cùng với sự thánh hiến mới mẻ và đặc biệt
của việc bước theo Chúa Kitô.
cần đến một sự tái sinh thiêng liêng,
bằng cách “buông theo Thần Khí”
và sống sự phong nhiêu của đời thánh hiến
trên nền tảng Tin mừng và phép Thánh tẩy
cùng với sự thánh hiến mới mẻ và đặc biệt
của việc bước theo Chúa Kitô.
(Huấn Thị Tái Khởi
Hành Từ Đức Kitô, số 8.)
Quốc Văn, OP.
Thiên Chúa đích thân đến gặp gỡ con người qua mầu nhiệm
nhập thể, và Người cũng trở nên con đường để qua đó nhân loại có thể đến được
với Chúa Cha. Hạnh phúc đích thực của con người là được nhận biết và gặp gỡ
Thiên Chúa. Không có sự gặp gỡ, thì hành trình tâm linh của con người mãi mãi
là vô định, cằn cỗi.
Nhưng làm sao để có thể gặp gỡ được Thiên Chúa ? Đây chẳng phải là thách đố
cho mỗi người chúng ta hay sao? Việc gặp gỡ Thiên Chúa phải khởi đi từ một khát
vọng tìm kiếm. Thiên Chúa đã đặt để nơi sâu thẳm
tâm hồn mỗi con người lòng khao khát, để con người liên lỷ khát khao tìm kiếm
Người. Chỉ có con người mới có khả năng hướng về Thiên Chúa, Giáo lý Hội thánh
Công giáo diễn tả điều này: “Homo capax
Dei”. Một trong những danh từ có thể
dùng gọi tên nỗi khát khao ấy: “Đời sống tâm linh”. Tuy nhiên, “đời sống tâm
linh” lại không chỉ là nỗi “khát khao” hay “nhớ nhung” Thiên Chúa, mà là trọn
vẹn cuộc sống được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, và được nhìn dưới nhiều khía
cạnh: văn hóa, giáo dục, tâm lý, xã hội, giới tính, tuổi tác, kinh nghiệm, bậc
sống, v.v. Hơn nữa, mỗi người đều được Chúa Thánh Thần
hướng dẫn theo một nẻo đường riêng biệt.
Để canh tâm đời sống tâm linh, thiết tưởng chúng ta cần xác định xem đời sống tâm linh là gì?, và đâu là yếu tố căn bản để canh tân đời sống
tâm linh? đặc biệt là việc canh tân đời sống tâm linh cho những người sống
đời thánh hiến.
1. Khái niệm về đời sống tâm linh
Hạn từ “đời sống tâm linh”: Spirituality được dịch ra từ Pháp ngữ: spiritualité,
từ này có nguồn gốc từ tiếng Latinh: spiritualitas. Qua các thời
kỳ, hạn từ spiritualitas
được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:
- Thời Giáo phụ: hạn từ này được hiểu là “sống theo Chúa Thánh Thần”.
- Thời Trung cổ: hạn từ này được hiểu là đời sống tinh thần, đời sống ân
sủng, đời sống đan tu…
- Trong ngôn ngữ hiện đại: hiểu là “tương quan của mỗi cá nhân với Thiên
Chúa”.
- Trong giáo huấn hiện nay của Giáo hội: hạn từ này hiểu là “đời sống tâm
linh”, hay “đời sống trong Chúa Thánh Thần”. Bên cạnh đó, trong ngôn ngữ thần
học, từ này còn được dùng như: đời sống tôn giáo, đời sống Kitô, đời sống siêu
nhiên, đời sống nội tâm, sự hoàn thiện…
Mỗi tên gọi diễn tả một khía cạnh của đời sống Kitô hữu. Tuy nhiên chúng ta
cần lưu ý rằng đời sống tâm linh được
hiểu là một đời sống toàn bộ, trọn vẹn, chứ không phải là một mảng rời
rạc xếp bên cạnh những mảng khác của đời sống con người.
Hơn nữa, cần phải xác định rằng Spirituality là đối tượng của nhiều ngành học gọi là “khoa học tâm linh” (khoa học tâm
linh đối lại với khoa học tự nhiên). Khoa học tâm linh đồng nghĩa với các môn
học về tôn giáo, tìm hiểu về mối liên hệ của con người với Thần Linh (Thần Linh
có thể có nhiều tên gọi khác nhau: Thiên Chúa, Đấng Siêu Việt, Đấng Tuyệt Đối...)
Trong việc nghiên cứu về các “hiện tượng tôn giáo”,
một số lối tiếp cận đã dùng các hạn từ như: “tâm lý tôn giáo’’ (nghiên cứu về những kinh nghiệm tôn giáo),
“hiện tượng tôn giáo” (các cách diễn
tả tôn giáo qua thần thoại, tín điều, nghi lễ, đình chùa…), “xã hội tôn giáo”
(nghiên cứu mối tương quan của tôn giáo với xã hội, văn hóa ...).
Đặc biệt, khi nói về đời sống tâm linh, ta không
thể không nói về đối tượng của đời sống này. Ngoài những yếu tố chung như những
ngành thần học khác, kinh nhiệm chính là đối tượng đặc thù đời sống tâm linh.
Không thể canh tân đời sống tâm linh khi ta không biết gì về những kinh nghiệm
này.
Từ những khái niệm căn bản trên, chúng ta bàn về việc canh tân đời sống
tâm linh của những người sống đời thánh hiến; trước hết theo Huấn thị Tái
Khởi Hành Từ Ðức Kitô và
sau đó là Canh tân đời sống tâm linh bằng việc trở về nguồn: trở về kinh nghiệm tâm linh nguyên khởi.
2. Canh tân đời sống tâm linh theo Huấn thị “Tái Khởi Hành Từ Ðức Kitô”
Canh tân đời sống tâm
linh là điều cốt yếu cho mọi Kitô hữu, cách riêng cho những người sống đời
thánh hiến. Huấn thị Tái
Khởi Hành từ Đức Kitô ban hành ngày 14.06.2002, là bản đúc kết Hội nghị
khoáng đại của Bộ Đời sống Thánh hiến và Hiệp hội Tông đồ được nhóm họp từ ngày
25 đến ngày 28 tháng 9 năm 2001. Huấn thị này nhằm duyệt xét lại thành quả cuộc
canh tân đời sống thánh hiến mà Tông huấn Đời sống Thánh hiến đề xuất
năm 1994. Huấn thị thúc giục phải thực
hiện việc canh tân đời sống thiêng liêng cho những người sống đời thánh hiến;
việc canh tân này được cụ thể hóa bằng việc:
Trước hết, chúng ta cùng chiêm ngưỡng vẻ rạng ngời trên khuôn mặt Đức Kitô, Ngôi Lời nhập thể, nhờ
đó các người sống đời thánh
hiến được Thánh Thần mời gọi hoán cải không ngừng để chiều kích
ngôn sứ của ơn gọi mang lấy một sinh lực mới (xc. Huấn Thị, 1).
Việc hoán cải này thúc đẩy những người sống đời
thánh hiến bước theo vết chân Đức Kitô. Hành
trình này luôn cam go và đối diện với nhiều thử thách; nhiều khi chúng ta
thấy mất phương hướng, thấy chùn chân mỏi gối. Tuy nhiên, như các môn đệ trên
đường về làng Emmaus, chúng ta luôn có Chúa
làm bạn đồng hành, và chỉ mình Người mới có thể làm cho lòng chúng ta
bừng cháy lên và can đảm bước theo dấu chân Người (xc. Huấn Thị, 1).
Việc xuất phát lại từ Đức Kitô sẽ thổi vào đời
sống chúng ta niềm hy vọng sống động, hầu có thể vượt qua những thách đố và
tích cực dấn thân với tinh thần mới mẻ trong đời sống tâm linh của mình (xc. Huấn Thị, 4).
Chính tinh thần dấn thân mới mẻ ấy của người sống
đời thánh hiến thể hiện chứng tá hùng hồn về một tình yêu tha thiết dành cho
Đức Kitô; họ trở nên ký ức sống động về lối sống và hành động của Đức Giêsu,
trong tương quan với Chúa Cha và với anh chị em mình (xc. Huấn Thị, 5).
Huấn Thị cũng mời gọi chúng ta không chạy trốn,
nhưng can đảm đối diện với những thách đố để khám phá lại ý nghĩa và phẩm tính
đời sống thánh hiến của mình. Với ánh nhìn lạc quan khi chiêm ngắm gương mặt
Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy rằng, những khó khăn và vấn nạn mà đời sống tu
trì trải qua hôm nay có thể làm nảy sinh một kairos (καιρός)
mới, một thời gian ân sủng. Đằng sau các thách đố ấy, ẩn dấu một tiếng gọi đích
thật của Chúa Thánh Thần mời gọi khám phá lại sự phong phú và các tiềm năng của
lối sống này (xc. Huấn Thị, 13).
Muốn canh tân đời sống tâm linh, người
sống đời thánh hiến phải biết đặt đời sống ấy lên hàng đầu. Đây là một đời sống
luôn năng động theo hướng dẫn của Thần Khí; và thánh Phaolô khuyên chúng ta
phải không ngừng canh tân chính mình trong việc tăng trưởng cho đến tầm vóc
viên mãn của Thân thể Đức Kitô (x. Ep 4,13). Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II
dạy rằng: “Đời sống thiêng liêng phải
được đặt lên hàng đầu trong chương trình của mọi gia đình đời sống tận hiến,
ngõ hầu mọi tu hội và mọi cộng đoàn trở thành những trường học về linh đạo Phúc
âm chân chính.” (VC, 93)
Mở lòng và ngoan ngoãn theo sự hướng
dẫn của Thần Khí, các vị sáng lập đã làm phát sinh nhiều đoàn sủng đáng ngưỡng mộ khác nhau; và cũng
cùng một Thánh Thần tác động, chúng ta được mời gọi bước theo Chúa Giêsu sát
hơn, sống tình thân với Người hơn, và chia sẻ trọn vẹn sứ mệnh của Người. Chỉ
mình Thần Khí mới làm cho đời sống tâm
linh của chúng ta giữ mãi được nét tươi trẻ, sáng tạo và vẫn trung thành với
đặc sủng ban đầu, hầu đáp trả các dấu chỉ của thời đại hôm nay.
Quả thật, đời sống thánh hiến hôm nay cần đến một
sự tái sinh thiêng liêng, bằng cách “buông theo Thần Khí” và sống sự phong
nhiêu của đời thánh hiến trên nền tảng Tin mừng và phép Thánh tẩy cùng với sự thánh hiến mới mẻ và đặc biệt của việc
bước theo Chúa Kitô. Huấn Thị minh định rằng, lời mời gọi bước theo Đức
Kitô nhờ một sự thánh hiến đặc biệt là một ân huệ của của Thiên Chúa Ba Ngôi
ban cho Dân Tuyển Chọn. Nhìn nhận trong phép Thánh tẩy nguồn gốc bí tích chung,
những người thánh hiến chia sẻ cùng một ơn gọi nên thánh và sứ vụ tông đồ với
các tín hữu khác. Khi trở nên dấu chỉ của ơn gọi phổ quát ấy, họ biểu lộ sứ
mạng đặc biệt của đời sống thánh hiến (xc. Huấn
Thị, 8; VC, 32).
Việc bước theo Đức Kitô phải luôn được làm mới mẻ nhờ việc xuất phát lại từ chính Người, chiêm
ngắm dung nhan Người và lắng nghe Lời Người. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II
khẳng định rằng sự thánh thiện không thể có được nếu không lắng nghe lời Thiên
Chúa (xc. VC 94). Chính
trong việc lắng nghe Lời, cầu nguyện, chiêm ngưỡng, đời sống nội tâm của chúng
ta được tình yêu và vẻ đẹp của Thiên Chúa quyến rũ, lấp đầy (xc. Huấn thị, 17), từ đó những người sống
đời thánh hiến can đảm “chèo ra chỗ sâu mà thả lưới”; nghĩa là trở nên lời chứng cho
tình yêu Thiên Chúa, nhận biết và phục vụ Chúa Kitô trong sự sáng tạo của đức
ái, hăng say loan báo Tin mừng, phục vụ sự sống, truyền bá sự thật và mở đường
cho những cuộc đối thoại lớn. Bởi lẽ, xuất phát lại từ Đức Kitô là gì,
nếu không phải cuối cùng là đi theo Người đến những nơi Người hiện diện qua
công trình cứu chuộc và sống giữa chân trời bao la mà Người đã mở ra. Chúng ta
đừng quên rằng, đời sống thánh hiến không chỉ hài lòng sống trong Giáo hội và
cho Giáo hội; mà hơn thế nữa, phải cùng với Đức Kitô vươn tới các Giáo hội Kitô
khác, các tôn giáo khác và ngay cả với những người không tuyên xưng một xác tín
tôn giáo nào (xc. Huấn thị, các số
33-40).
Xuất phát lại từ chính Đức Kitô và chiêm ngắm dung nhan Người là gì, nếu không phải là một cuộc gặp gỡ
trong ngôi vị, gặp gỡ trong thân tình. Chúng ta hãy nghe lời nhắn nhủ của thánh
Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong Thông điệp Thánh
Thể :
Vào buổi hừng đông của thiên niên kỷ
thứ ba này, là con cái Hội thánh, chúng ta được mời gọi đảm nhận một nhiệt tình
mới mẻ cuộc hành trình của đời sống Kitô hữu. Như tôi đã viết trong Tông thư “Novo
Millennio Ineunte”, vấn đề không phải là sáng chế một chương trình mới. Chương
trình đã có sẵn, đó là kế hoạch rút ra từ Tin mừng và truyền thống sống động;
kế hoạch đó luôn mãi là một. Tựu trung, tâm điểm là chính Đức Kitô, Đấng chúng
ta hiểu biết, yêu mến và bắt chước, để trong Người, chúng ta có thể sống sự
sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, và với Người, chúng ta biến đổi lịch sử, cho đến
khi hoàn thành tại Giêrusalem trên trời. Đó là kế hoạch nhằm tạo nên một đà
tiến mới cho cuộc sống Kitô hữu đi ngang qua Thánh Thể.[1]
Chúng ta hãy cùng với Đức Maria, thân Mẫu Chúa
Giêsu, chiêm ngắm Chúa Giêsu trong mầu nhiệm nhập
thể, chiêm ngắm từng biến cố xảy ra trong cuộc đời của Người, chiêm ngắm những
mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng trong chuỗi hạt Mân côi, và đặc biệt chiêm ngắm sự
chói ngời của Thánh Thể trong mầu nhiệm sự Sáng. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô
II trong Thông điệp Thánh Thể, khẳng
định: “Nhìn lên Đức Maria, chúng ta biết
được sức mạnh biến đổi của Thánh Thể. Trong Mẹ, chúng ta nhìn thấy thế giới
được đổi mới trong tình yêu”.[2]
3. Canh tân đời sống tâm linh bằng việc trở về nguồn:
trở về kinh nghiệm tâm linh nguyên khởi
trở về kinh nghiệm tâm linh nguyên khởi
Bàn tới kinh nghiệm về Thiên Chúa, ở đây chúng ta
không đi vào những kinh nghiệm cá nhân, nhưng trở về với nguồn mạch, trở về với
kinh nghiệm nguyên khởi của mọi kinh nghiệm, đó là kinh nghiệm tâm linh trong
Kinh thánh.
a. Tổng quan về kinh
nghiệm tâm linh trong Kinh thánh
Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên
Chúa xa cách con người, không phải là sản phẩm suy tư của các triết gia,… mà là
Thiên Chúa của lịch sử, can dự vào lịch sử, tỏ mình ra trong lịch sử; và nhân
loại trong dòng lịch sử khả dĩ có được kinh nghiệm về Người.
Với Công đồng Vatican II, và những suy tư hậu Công
đồng, bước ngoặt trở về với kinh nghiệm trong thần học tâm linh, đã khai mở một
nẻo linh đạo, một lộ trình tiếp cận thân mật với Thiên Chúa. Lộ trình này khả
dĩ giúp con người nhận ra gương mặt đích thật của Thiên Chúa và gọi chính danh
của Người.
Quả vậy, vấn nạn về Thiên Chúa luôn là vấn nạn tối
hậu của đời sống tâm linh, của nẻo nhân sinh này. Vấn nạn đó quan trọng đến độ,
nếu không thể trả lời được: Thiên Chúa là ai? Sự hiện hữu của Người có ý nghĩa
thế nào? Mối tương quan giữa Người và tôi ra sao?…; thì tất cả đời sống, những
diễn tả và cử hành đức tin của chúng ta sẽ rơi vào khủng hoảng và trở nên trống
rỗng.
Kinh nghiệm tâm linh trong Kinh thánh cốt yếu đặt
trọng tâm trên mối tương quan với Thiên Chúa, mối tương quan này trở thành
nguồn phát sinh những mối tương quan giữa con người với nhau và là tiêu chuẩn
để đọc ra những sự kiện trong đời sống con người. Vấn đề căn bản xuyên suốt từ
đầu cho đến kết thúc cuốn Kinh thánh được đặt ra là: Tôi phải làm gì để gặp
được Chúa và gặp Người ở đâu? Và tôi phải làm gì để có thể nhận ra ý muốn của
Người? Song bên cạnh câu hỏi này (hay nói đúng hơn là trong chính câu hỏi này)
một vấn nạn thứ hai được đặt ra: Con người là ai? (Tv 8). Vì thế, kinh nghiệm
tâm linh trong Kinh thánh vừa mang tính thần học vừa mang tính nhân học.
Trong Cựu ước, chúng ta thấy rằng kinh nghiệm tâm linh
vốn được hình thành từ nhiều truyền thống khác nhau, thuộc về các trào lưu tôn
giáo đích thực (các truyền thống lịch sử, ngôn sứ, minh triết). Trong Tân
ước, chúng ta tiếp cận với kinh nghiệm
tâm linh của Chính Chúa Giêsu với Chúa Cha, kinh nghiệm của các Tông đồ, các
cộng đoàn Giáo hội sơ khai… tất cả những kinh nghiệm này mang những sắc thái
độc đáo có thể soi chiếu cho chính kinh nghiệm và sự canh tân đời sống tâm linh
của chúng ta.
Như vậy, chúng ta đã phác họa một lộ trình để canh
tân đời sống tâm linh; tuy nhiên, để đi hết lộ trình này, cần rất nhiều thời
gian. Trong khuôn khổ bài chia sẻ này, chúng ta chỉ có thể nêu lên một vài nét
căn bản của kinh nghiệm tâm linh trong Kinh thánh, và xin được chỉ giới hạn
trong phần Cựu ước mà thôi.
b. Những nguyên lý căn bản hình thành kinh
nghiệm tâm linh của Israel
Đâu là những nguyên lý căn bản hình thành kinh nghiệm tâm linh của Israel?
Nếu kinh nghiệm được nhìn từ hai chiều kích nhân học và thần học, chúng ta có
thể bàn đến hai nguyện tắc căn bản: trước hết đó là việc Israel trung thành với
lịch sử; sau là việc Thiên Chúa luôn thành tín với lời hứa của Người.
1. Trung thành với lịch sử
Trước hết, có một nguyên tắc căn bản: xác tín vào sự hiện diện cứu độ của
Thiên Chúa trong lịch sử. Chính vì thế, Israel đặt “lịch sử cứu độ” vào trung
tâm niềm tin của mình. Thế có nghĩa là Thiên Chúa hoạt động trong lịch sử của
thế giới bằng chính cách thế của con người, bằng việc chấp nhận tính tương đối
của vạn sự. Điều ấy cũng có nghĩa là con người gặp được Thiên Chúa và ơn cứu độ
của Người trong dòng lịch sử, chứ không phải ở ngoài lịch sử. Lịch sử không chỉ là nơi con người hoà nhập vào để phụng
sự Thiên Chúa, mà còn là môi trường
con người ngụp lặn để nhận biết Người. Nói khác đi, lịch sử là nơi Thiên
Chúa mặc khải.[3] Đó chính là đặc tính đầu tiên của đời sống tâm linh trong Kinh thánh: nhất
mực trung thành với lịch sử.
Vì đã bám rễ trong lịch sử cụ thể, kinh
nghiệm tâm linh của Israel luôn là kinh nghiệm gặp phải thách đố và đe
doạ của các sự kiện. Kinh nghiệm tâm linh
được đối chất với tất cả những sự việc lịch sử, với những ai nói về sự quan
phòng của Thiên Chúa cũng như với những ai phủ nhận sự hiện diện của
Người. Trong mọi hoàn cảnh, con người theo
Kinh thánh luôn đặt niềm hy vọng vào Thiên Chúa không tách Người ra khỏi lịch
sử, không tìm kiếm sự an toàn ngoài lịch sử cũng như không chạy trốn trần gian.
Trong Thông điệp Lumen
Fidei, Thông điệp đầu tay của mình, Đức Thánh cha Phanxicô đã viết:
Lịch sử của dân Israel, trong Sách Xuất Hành, theo chân đức tin của ông Abraham.
Đức tin một lần nữa được sinh ra từ một hồng ân nguyên thủy: Dân Israel phó
thác vào hành động của Thiên Chúa, Đấng muốn giải phóng họ khỏi cảnh đau khổ
của họ. Đức tin được mời gọi vào một cuộc hành trình dài để có thể thờ phượng
Chúa trên núi Sinai và thừa kế một đất hứa. Tình yêu Thiên Chúa có những đặc
tính của một người cha bồng bế con mình dọc theo cuộc hành trình (x. Dt 1:31).
Lời tuyên xưng đức tin của dân Israel được hình thành như một tường thuật kể
lại những nghĩa cử của Thiên Chúa, về hành động của Ngài để giải phóng và hướng
dẫn dân Ngài (x. Dt 26:5-11), một tường thuật mà dân chúng truyền lại hết thế
hệ này đến thế hệ khác. Ánh sáng của Thiên Chúa chiếu soi cho dân Israel qua
việc tưởng nhớ đến những việc làm cả thể của Chúa, được nhớ lại và tuyên xưng
trong các nghi lễ, và được truyền lại từ đời cha đến đời con. Như thế, ở đây
chúng ta thấy ánh sáng đức tin được liên kết với tường thuật cụ thể về đời
sống, với việc tưởng nhớ cách biết ơn những nghĩa cử của Thiên Chúa và việc thực hiện cách tiệm tiến lời hứa của Ngài.[4]
2. Thiên Chúa thành
tín trong việc thực hiện lời hứa
Israel luôn lưu giữ và đọc lại Lời Chúa cũng như kinh nghiệm quá khứ của
mình. Lời Chúa vẫn là Lời chắc chắn và có giá trị, mặc dù các sự kiện diễn ra
dường như lại phủ nhận phũ phàng. Xác tín rằng Lời Thiên Chúa là Lời chắc chắn,
Israel không chỉ nhớ lại và hiện thực hóa Lời Chúa, mà còn dùng Lời phân biệt
cho những việc làm trong tương lai.
Chính vì xác tín vào việc Thiên Chúa trung thành
thực hiện lời hứa, đời sống tâm linh trong Kinh thánh, hướng đến tương lai có
tính thiên sai. Người ta không thể hiểu kinh nghiệm của
Israel nếu không biết đến sự mở ra về phía tương lai này. Con người theo Kinh
thánh không chỉ tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa trong lịch sử mà còn xác
tín rằng lịch sử đang diễn ra và vì thế chưa bộc lộ trọn vẹn ý nghĩa. Israel
xác tín rằng việc minh giải lịch sử còn ở phía trước. Kinh nghiệm hiện tại là
kinh nghiệm rời rạc, đó là một sự lý giải “manh mún về tương lai”, còn
sự hợp nhất và tổng hợp kinh nghiệm vẫn ở phía trước trong tương lai.
Trong Thông điệp Lumen Fidei, 11, ĐTC Phanxicô viết:
Lời nói với ông Abraham là một lời mời gọi và một lời
hứa. Trước hết, nó là một lời mời gọi ông rời bỏ mảnh đất của mình, một lời mời
gọi mở lòng ra cho một cuộc sống mới, khởi đầu của một cuộc xuất hành dẫn ông
về phía một tương lai không thể lường trước được. Viễn tượng mà đức tin cung
cấp cho ông Abraham sẽ luôn luôn được nối kết với sự cần thiết phải thực hiện
bước tiến này: đức tin “nhìn thấy” ông đi đến đâu, chỗ ông bước vào vùng trời
được mở ra bởi Lời Thiên Chúa. Lời này cũng chứa đựng một lời hứa: miêu duệ
ngươi sẽ rất đông đúc, ngươi sẽ là cha của một dân vĩ đại (x. St 13:16; 15:5,
22:17). Thật đúng là một đáp trả với một
Lời trước đó, đức tin của ông Abraham sẽ luôn luôn là một hành động tưởng nhớ.
Tuy nhiên, sự tưởng nhớ này không đóng chặt
trong quá khứ, nhưng vì là một tưởng nhớ về một lời hứa, nó trở nên có khả năng
mở ra cho tương lai, soi sáng những bước đi dọc đường. Như vậy, chúng ta thấy
làm sao đức tin, như một sự tưởng nhớ đến tương lai, lại liên hệ chặt chẽ với
niềm hy vọng.
Mặc cho sự nghiệt ngã của lịch sử dễ làm thất vọng, Israel luôn tin vào
lòng thành tín của Thiên Chúa và tính chân thật trong lời Người hứa. Trong hoàn cảnh ấy, Israel càng tiếp tục
thanh luyện niềm hy vọng của mình và
hướng về Thiên Chúa. Niềm hy vọng hướng đến tương lai của Israel là một
niềm hy vọng có tính thần học: phát sinh do việc tin tưởng vào lòng thành tín
của Thiên Chúa, chứ không do sự tin tưởng vào con người hay vào những phán đoán
lạc quan dựa trên các sự kiện. Israel ưu
tiên khẳng định về mầu nhiệm lòng thành tín của Thiên Chúa, và tiếp tục tìm
kiếm ý nghĩa hiện nằm ngoài sự hiểu biết của mình. Việc dự phóng về tương lai,
chính là điều giúp Israel phối hợp hài hòa giữa niềm tin tưởng vào lòng thành
tín của Thiên Chúa và trung thành với lịch sử. Sau cùng, Israel hiện thực hóa
một bài học tôn giáo về lịch sử không trở thành xa lạ với lịch sử của mình. Như
Thánh Augustinô giải thích: “Con người
trung thành khi tin vào lời mà Thiên Chúa đã hứa, Thiên Chúa trung tín khi ban
cho con người những gì mà Ngài đã hứa”.
b. Kinh nghiệm Tâm linh
mang tính ngôn sứ và minh triết
mang tính ngôn sứ và minh triết
1. Trung thành với Giao
ước: kinh nghiêm tâm linh theo tinh thần ngôn sứ
Người ta thường hình dung về các ngôn sứ như những “thầy
bói” loan báo về tương lai hoặc sứ giả mang đến những điều mới lạ. Có một điều
chắc chắn là các ngôn sứ đã đào sâu niềm tin Dothái giáo. Các ngôn sứ biết đọc ra dự định
của Thiên Chúa trong cái cốt lõi của các sự kiện,
nắm bắt những dấu chỉ của thời đại và biết lý giải ý nghĩa tôn giáo từ các sự
việc diễn ra. Các ngôn sứ lưu tâm đến tất cả mọi sự kiện của đời sống chính
trị, quốc gia và quốc tế, đời sống xã hội và tôn giáo. Song các ông không dừng
lại ở chỗ thuật lại những sự việc diễn ra, mà các ông đánh giá chúng theo lòng
trung thành với Giao ước. Các ông không thỏa mãn về việc chỉ phê bình lịch sử;
nhưng đằng sau sự phê bình các ông nối kết lịch sử, nối kết chương trình của
Thiên Chúa. Hơn nữa, các ngôn sứ thực hiện một sự phân tích khác với hoàn cảnh
lịch sử.
Quả thật, các ngôn sứ đã lưu lại trong lịch sử của Dân thánh một dòng chảy
tâm linh sâu sắc. Trong dòng chảy ấy, lòng trung tín với giao ước trở nên sợi
chỉ hồng xuyên suốt hành trình đức tin của Israel, đây cũng tiêu chuẩn, là điểm
quy chiếu sống động để các ngôn sứ đánh giá tất cả mọi sinh hoạt, từ tôn giáo,
đến văn hóa, xã hội, chính trị… của dân riêng. Phải chăng tinh thần của lòng
trung tín với giao ước ấy, vẫn đang soi dọi trên nẻo đường đức tin của mỗi
người chúng ta hôm nay?
2. Đối thoại với kinh
nghiệm khôn ngoan của nhân loại: kinh nghiêm tâm linh theo truyền thống minh triết
Ngoài linh nghiêm tâm linh theo tinh
thần ngôn sứ, kinh nghiệm của các nhà minh triết là nhiệm khôn ngoan rất cổ xưa,
đóng góp phần không nhỏ với toàn bộ kinh nghiệm tâm linh của của Israel. Cùng
với suy tư của các sách Khôn ngoan, đời sống tinh thần của Israel bước vào cuộc
đối thoại với lý trí và kinh nghiệm, với di sản văn hóa chung của các dân tộc
láng giềng.
Thật thú vị khi thấy Kinh thánh bên cạnh việc lắng nghe tường tận về Lời,
còn biết lắng nghe những sự vật, con người, lịch sử, kinh nghiệm và lẽ phải.
Tất cả những việc này xuất hiện với một nét nổi bật đặc thù trong suy tư của
các sách minh triết. Trong nỗ lực nhận thức và thích nghi với thế giới, các
Hiền nhân không lập tức quy chiếu vào mặc khải, nhưng quy chiếu với lý trí, với
kinh nghiệm và sự đối thoại. Họ nỗ lực nhiều hơn để giải thích thế giới, lịch
sử và kinh nghiệm. Sự khôn ngoan chiêm ngắm thế giới như một thực tại trần thế,
vén mở những bức màn huyền bí: người ta có thể xâm nhập những điều huyền bí theo cách sử dụng lý trí và khoa học.
Hai đặc điểm nêu bật đặc tính của cấu trúc minh triết và phương pháp của nó
là: quan chiêm về con người, tiên
vàn, không như con cái Israel nhưng như con người (trong trật tự của công trình
tạo dựng) và quan chiêm về con người bằng việc quan sát và bằng kinh nghiệm (chứ không phải lúc nào cũng lập tức tham
chiếu mặc khải).
Tiên
vàn Hiền nhân không suy tư về lịch sử của Giavê cũng như lịch sử Israel, nhưng
về những vấn đề mà ngày nay chúng ta gọi là những sự thế tục như nghề nghiệp,
cộng đồng, xã hội và chính trị. Suy tư của ông rõ ràng đặt trong sự sáng tạo
thế giới. Hiền nhân xác tín rằng con người có quyền tự chủ trong khung cảnh của
cuộc tạo dựng.
Thoạt
nhìn, toàn bộ quan niệm này có vẻ xa lạ với niềm tin và với kinh nghiệm tâm
linh. Thực tế không phải vậy. Chính về phương diện này, các Hiền nhân là những
nhà giáo dục đích thực về niềm tin. Họ khơi gợi những cách xử sự có vẻ chưa phù
hợp với Giao ước. Song thuyết nhân bản này nhắm mục đích hiện thực hóa một mẫu
người thích ứng với những chọn lựa và những cam kết qua Giao ước; mẫu người này
muốn tạo ra những ý định tốt trong việc đối thoại với Thiên Chúa. Các nhân đức
được ca tụng nhất là dũng mạnh, can đảm,
tự chủ, tự do nội tâm, lòng trung thành và cẩn trọng. Tất cả các nhân đức
này là cần thiết, giúp cho người ta nên người, và khiến người ta trở nên dễ uốn
nắn trong đôi tay của Thiên Chúa.
Toàn bộ truyền thống minh triết của Israel cố gắng
hòa hợp Thiên Chúa và sự khôn ngoan, niềm tin và lý trí. Như người ta nhận
thấy, mấu chốt của vấn đề là một kinh nghiệm tôn giáo sâu sắc. Người ta thử bắc
những cầu nối giữa mặc khải và kinh nghiệm. Nhưng tất nhiên đức tin và kinh nghiệm
tác động lẫn nhau, và đó chính là điểm khiến họ nhận ra tính chất mới lạ và sâu
sắc trong cuộc thăng trầm của tinh thần minh triết Dothái. Đức tin nhường địa
vị xứng hợp của nó cho kinh nghiệm; nó lấy lại tính siêu việt cho kinh nghiệm;
kinh nghiệm đến lượt mình không công nhận não trạng giáo điều.
Nói khác đi, các Hiền nhân đúc kết suy tư của họ về cuộc đời bằng việc mở
lòng ra cho mặc khải. Khi khởi đi từ kinh nghiệm, họ đã đụng phải những địa hạt
mầu nhiệm mà chỉ Thiên Chúa mới có thể soi sáng. Họ đã lắng nghe thực tại trần
thế và họ đã hiểu được thực tại ấy trong tính năng động của nó, song họ đã tiên
kiến rằng tính năng động này tự nó đã là tôn giáo, rằng tính năng động ấy có nguồn gốc từ Thiên Chúa và đã phản ánh sự khôn
ngoan. Họ đã đụng phải mầu nhiệm và họ đã quy phục mầu nhiệm (Cn 30,1-6). Người
ta cũng nói rằng một trong những mối bận tâm của họ chính là phá đổ những an
toàn giả tạo, dựa trên những tham vọng của thần học hoặc những điều hợp lý.
Sau cùng, các Hiền nhân đã hiểu rằng sự khôn ngoan
của con người có nguồn gốc từ Thiên Chúa, không
phải là từ dưới lên mà là từ trên xuống. Đó chính là quà tặng mà con người cần
đón nhận; chính là Lời con người cần lắng nghe trong thái độ sẵn sàng, vâng
phục và lắng nghe trong thinh lặng. Tuy nhiên, Lời Thiên Chúa cũng tồn tại
trong công cuộc sáng tạo và trong kinh nghiệm của con người; con người luôn
phải tìm hiểu kỹ càng lời với ý thức đó là Lời của Thiên Chúa.
Tạm kết
Tông huấn Vita Consecrata, nhắc
đến một khía cạnh đặc biệt của đời sống thánh hiến của mỗi người chúng ta, đó
là dấu chỉ về Vương Quốc, dấu chỉ của một sự tìm kiếm đích thực. Sự nhắc nhở,
sự hiện diện đó là lời động viên cho thế giới - một thế giới đang xa lìa Thiên
Chúa. Chúng ta khao khát canh tân đời sống tâm linh, và tự sâu thẳm, chúng ta
cảm thấy đôi khi mối tương quan của
ta với Chúa như một cuộc trốn tìm. Không ít khi ta cảm thấy Chúa dường như vắng
bóng: “Tôi đi tìm chàng mà đâu có gặp!” (Dc 3,2) Nhưng nếu phải nói rốt
ráo hơn, Thiên Chúa đã đi tìm ta, Thiên Chúa đi bước trước, Thiên Chúa tìm kiếm
mỗi con người. Đó là một cuộc tìm kiếm thú vị. Thiên Chúa chờ đợi từng giây
phút để con người có thể cảm nhận, để con người có thể đáp trả, để con người có
thể lắng nghe được tiếng của Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn cứ tỏ mình ra cho những
ai khao khát tìm kiếm đích thực. Thiên Chúa tỏ mình ra cho những tâm hồn nhỏ
bé, những con người không cậy dựa vào sức
mình nhưng chờ đợi sự tác động của ân sủng. Hãy buông theo Thần Khí, để
chính Người canh tân đời sống chúng ta.
Thư mục
ĐGH Gioan Phaolô II, Tông huấn Đời sống thánh hiến,
Vita Consecrata, 1994.
Vita Consecrata, 1994.
. Thông
điệp Ecclesia de Eucharistia, 2003.
ĐTC Phanxicô, Thông điệp Ánh sáng đức
tin,
Lumen Fidei, 2013.
Lumen Fidei, 2013.
Thánh bộ Đời sống
Thánh hiến và Hiệp hội Tông đồ,
Huấn thị Tái Khởi Hành Từ Ðức Kitô, 2012.
Huấn thị Tái Khởi Hành Từ Ðức Kitô, 2012.
Aumann, Jordan, OP. Spiritual Theology.
Fifth impression, London Sheed & Ward, 1988.
Fifth impression, London Sheed & Ward, 1988.
Dictionnaire
de la Vie Spirituelle. Les
Éditions du Cerf 1983. S.v. “L'expérience
de la spiritualité dans l'Écriture” by B. Maggioni, tr. 372-411.
Phạm Quốc Văn, OP., Một
thoáng kinh nghiệm tâm linh
trong Kinh thánh, nxb Tôn giáo 2016.
trong Kinh thánh, nxb Tôn giáo 2016.
Phan Tấn Thành. Đời sống tâm linh.
Tập III, Roma 2003.
. Đời
sống tâm linh. Tập IV, Roma
2004.
. Đời sống tâm linh. Tập V, Roma, 2005.
Đăng nhận xét