Người ta tìm mình trong “gương”,
tìm khẳng định mình trong tổ chức xã hội,
người ta hình thành ra mình
theo bậc thang giá trị của xã hội chung quanh;
và những “tấm gương” ấy luôn có nhiều nguy cơ che mờ
hoặc làm biến dạng khuôn mặt đích thực của mình.
tìm khẳng định mình trong tổ chức xã hội,
người ta hình thành ra mình
theo bậc thang giá trị của xã hội chung quanh;
và những “tấm gương” ấy luôn có nhiều nguy cơ che mờ
hoặc làm biến dạng khuôn mặt đích thực của mình.
Nguyễn Trọng Viễn O.P.
1. Vấn đề “gương soi”
1.1. Con người
“soi gương”
Con người không thể nhìn thấy được
chính khuôn mặt của mình. Con người cần phải soi gương để biết được mặt của
mình ra sao. Đó không phải chỉ là một sự kiện nhỏ liên hệ tới thân thể, nhưng
là ý nghĩa căn bản của cả vận mạng con người. Con người cũng phải “soi gương”
để biết “khuôn mặt” tinh thần của mình. Hơn nữa, con người cần “soi gương” để
hình thành nên chính khuôn mặt tinh thần của mình. Đó là điều chúng ta đã nghe
quen tai lắm rồi: con người chỉ là mình trong tương quan; hoặc như cha ông ta
đã nói “sinh con rồi mới sinh cha; sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông”.
Dĩ nhiên, với đức Tin Kitô giáo, con
người không phải chỉ là sản phẩm của phương thức kiếm sống và đấu tranh giai
cấp. Con người cũng không phải chỉ là phản ảnh của những tương quan xã hội. Con
người có một “khuôn mặt” trường tồn, đó là hình ảnh Thiên Chúa trong bản chất
người. Hình ảnh đó được bộc lộ dần dần trong dòng lịch sử mà những “góc cạnh”
của nó sẽ được sáng lên, hoặc bị che mờ do những “gương soi” cụ thể của cuộc
sống thực tế.
Chúng ta có thể nhìn vào một vài
tình huống thực tế, để khám phá ra tác động của chuyện “soi gương”. Không ít
những chủng sinh, tu sinh, khi mới tập tễnh bước vào nhà Chúa, đã cưu mang một
tâm hồn tràn đầy nhiệt huyết với Chúa, với Giáo hội và với con người. Thế rồi,
con người đầy sinh lực sống ấy được sống trong một Giáo hội đầy tính chất của
một “đạo sinh hoạt”, nghĩa là thứ đạo trong đó chủ yếu là những tổ chức; được
đào tạo trong một đời sống nề nếp, được học hỏi bao nhiêu kiến thức;… rồi cuối
cùng, con người ấy trở thành linh mục hoặc tu sĩ có đầy đủ kiến thức và kỹ năng
chuyên môn, nhưng đánh mất đi nhiệt huyết chân chính thưở ban đầu. Đó là vì
người tu sinh, chủng sinh ấy đã soi hành trình của mình vào tấm gương của những
“sinh hoạt” trong Giáo hội. Chúng ta cũng có thể tin rằng có một số cán bộ cách
mạng, ban đầu thì đầy thiện tâm thiện chí đi theo lý tưởng cách mạng để phục vu
nhân dân; rồi sau đó họ đi vào cơ chế, tham gia vào tổ chức, rồi họp hành, rồi
kế hoạch, rồi nhu cầu phải giải quyết những tình huống cụ thể….và rồi trở thành
một quan chức không còn biết đến, không còn cảm thông được nỗi khổ của dân
nghèo. Người cán bộ ấy đã soi gương đời mình trong các tổ chức của giới cầm
quyền … Những tình trạng biến chất ấy xẩy ra rất nhiều, trong nhiều tổ chức, và
cả trong nhiều đoàn hội tôn giáo.
Người ta tìm mình trong “gương”, tìm
khẳng định mình trong tổ chức xã hội, người ta hình thành ra mình theo bậc
thang giá trị của xã hội chung quanh; và những “tấm gương” ấy luôn có nhiều
nguy cơ che mờ hoặc làm biến dạng khuôn mặt đích thực của mình. Thật ra, “gương
soi” không làm nên bản chất con người, vì bản chất người vẫn luôn có khả năng
phản tỉnh, vẫn luôn có khả năng thay đổi những “bóng tối” thành nên “ánh sáng”,
mà nguyên lý chính yếu để làm nên cuộc phản tỉnh ấy không phải do những “gương
soi” trong tương quan xã hội. Tuy vậy, nhìn vào “gương soi”, người ta có thể
nhận ra được bóng tối hoặc ánh sáng trên khuôn mặt của mình. Vấn đề soi gương
thực sự có thể giúp con người nhìn ra được thực trạng của mình lúc này.
Hơn nữa, vấn đề “soi gương” còn là
một yếu tố quan trọng trong hành trình lịch sử của con người và là một trong
những thách đố căn bản của kiếp nhân sinh. Đối với Kitô giáo, hành trình lịch
sử không phải quãng thời gian lưu lạc mà con người cần mau chóng tỉnh thức để
quay về với Đại ngã, nhưng là đoạn đường bắt buộc, một cách nào đó, để con
người bước ra khỏi hư vô, đáp lại lời Chúa gọi tiến đến hiện hữu, đi về với
Tình Yêu trong một sự hiệp nhất có tính cách “mình với ta tuy hai mà một, ta
với mình tuy một mà hai”. “Soi gương” là hành trình cần thiết để hình thành nên
bản sắc riêng của một cá nhân, để cá nhân hiện hữu chân chính như một hữu thể
có khả năng đi vào thứ tình yêu “hiệp nhất trong đa dạng” của Đạo Kinh Thánh.
1.2. Giáo hội
“soi gương”
Nét căn bản của đạo Kinh Thánh là
lịch sử ơn cứu độ, chứ không phải là một trình độ siêu thoát. Sống đạo là sống
lịch sử cuộc đời trần thế của mình trong niềm tin, và hình thành cuộc đời mình
trở nên một lịch sử ơn cứu độ. Điều đó vừa là đường nét căn bản của Dân Chúa,
đường nét căn bản của mỗi tín hữu, vừa là đường nét căn bản của Giáo hội Đức
Kitô. Giáo hội được mời gọi để tiến bước vào lịch sử nhân loại và biến lịch sử
ấy trở nên lịch sử ơn cứu độ. Thời gian của Giáo hội chiến đấu, quãng thời gian
giữa hai lần Chúa đến, chính là thời gian để Giáo hội gieo vãi hạt giống Tin
mừng, nhằm biến đổi lịch sử trần thế thành một lịch sử ơn cứu độ, và lịch sử ấy
chỉ được hoàn thành trong ngày Quang Lâm. Chỉ khi đặt mình trong vị thế ấy, bản
chất đích thực của Giáo hội như là dấu chỉ Nước Trời mới được sáng tỏ.
Bản chất của Giáo hội lữ hành, theo
Công Đồng Vatican II, không còn được đồng hóa với Nước Trời, nhưng chính là dấu
chỉ của Nước Trời, là bí tích Nước Trời. Vị thế căn bản ấy, một cách nào đó,
cho thấy rằng Giáo hội không tìm cứu cánh nơi chính mình, nhưng luôn phải là
dấu chỉ tỏ bày Nước Trời, nhằm tới ơn cứu độ của toàn thể nhân loại.
Khi
trao đổi với thế giới những sự giúp đỡ hỗ tương, Giáo hội nhằm một mục đích duy
nhất là: làm cho Nước Chúa trị đến và toàn thể nhân loại được cứu rỗi. Mọi lợi
ích mà Dân Chúa trong thời gian hành trình tại thế có thể đem lại cho gia đình
nhân loại đều phát xuất từ sự kiện này : Giáo hội là “ bí tích phổ quát cứu
rỗi” (Xc. GH số 48), tỏ bày và đồng thời thực hiện mầu nhiệm tình yêu Thiên
Chúa đối với con người (MV 45).
Như thế có nghĩa là Giáo hội luôn
phải “soi gương” vào thế giới. Giáo hội không ở bên lề của lịch sử nhân loại để
hoàn thành một sứ mạng riêng tư nào, nhưng Giáo hội là bí tích Nước Trời ngay
giữa lòng lịch sử nhân loại. Cũng như vận mạng con người nói chung là hình
thành nên khuôn mặt của mình trong việc “soi gương”, thì thái độ dấn thân, liên
đới và liên lụy với cuộc đời, để tỏ bày sự hiện diện của Nước Trời, cũng là yếu
tố làm nên phẩm chất của Giáo hội lữ hành.
Không nhận ra được “gương soi” đích
thực của mình trong lòng thế giới, Giáo hội có nguy cơ làm méo mó gương mặt
đích thực của mình. Từ lâu trong Giáo hội, vẫn có một não trạng “siêu lịch sử”
chi phối suy tư thần học và cung cách sống đạo. Người ta thấy trong Công Đồng
Vatican II, có một cuộc “đấu tranh” giữa khuynh hướng siêu lịch sử và nền thần
học đề cao chiều kích lịch sử như yếu tố căn bản của nhiệm cục cứu độ. Khuynh
hướng siêu lịch sử giả thuyết rằng việc gặp gỡ Thiên Chúa và đạt được ơn cứu độ
của Ngài diễn ra hoàn toàn trong một nơi huyền nhiệm nào đó của tâm hồn, một
tầm hồn không bị nhiễm bẩn do những thực tại của không gian và thời gian. Nhiều
người Kitô hữu, và cả các đấng bậc vẫn sống đạo như nỗ lực thoát khỏi những
biến động của thời cuộc, nhìn những biến cố lịch sử xung quanh mình như một thế
giới đi song song hoặc bên ngoài đời sống thiêng liêng. Suy tư thần học trong
những thập niên cuối thế kỷ XX, nhờ vào các nhà thần học như Newmann, Teilhard de Chardin, Congar, Chenu,
Danielou, Rahner, de Lubac, Shcillebeeckx ..., luôn ý thức rằng chiều
kích thời gian thấm sâu vào đời sống tinh thần của con người và tạo nên tính
chất thiết yếu của mọi kinh nghiệm nhân sinh cũng như kinh nghiệm đức Tin. Kinh
nghiệm đức Tin chính là nhận ra “nơi chốn” thực hiện nhiệm cục cứu độ, kinh
nghiệm ấy được thực hiện trong chính lịch sử. Theo nghĩa này, không có đức Tin,
không có ơn cứu độ, không có thần học nào ở ngoài lịch sử; bởi vì đức Tin là sự
trả lời đối với một biến cố, ơn cứu độ cũng chính là một biến cố và thần học
chỉ có thể hiện hữu khi dựa vào những sự kiện, từ Abraham cho đến đức Giêsu
Kitô, và đến Giáo hội, một Giáo hội vốn sống
trong không gian và thời gian. Làm thần học không phải chỉ là mở cuốn
Denzinger, nhưng còn là suy tư một cách chân chính trên những chất liệu cuộc
sống, dựa trên ánh sáng của mạc khải.
Thần học nảy sinh trong lịch sử,
được đọc trong lịch sử và hướng về lịch sử, bởi vì Thiên Chúa đã trở nên Lời và
nên một biến cố lịch sử. Kitô giáo không phải là một hệ thống các tư tưởng,
nhưng là “nhiệm cục cứu độ”. Chính đường nét ấy thể hiện tính mới mẻ riêng biệt
của mặc khải Do Thái – Kitô giáo, so với những quan niệm Đông phương cũng như
Hy Lạp.
Cuộc
sống trong dòng lịch sử không phải là những chướng ngại cho sự hiểu biết chân
lý, nhưng đó là nơi chốn duy nhất của mạc khải và là nơi thực hiện chân lý mạc
khải. Theo nghĩa này, mạc khải Thánh Kinh dẫn dắt người tín hữu vượt qua mọi
quan niệm siêu-lịch-sử, cũng như mọi quan niệm về lịch sử như một chu kỳ tuần
hoàn, lịch sử như một định mệnh, hoặc như hệ quả thuần túy của những tương tác
tự nhiên.
2. Giáo hội
Việt Nam
soi mình trong dòng lịch sử dân tộc
Giáo hội Việt Nam đã được khởi đầu trong một hoàn
cảnh khó khăn. Người Kitô hữu, trước cả khi thiết lập hàng giáo phẩm, đã đón
nhận Tin mừng và loan báo Tin mừng trong hoàn cảnh bị bách hại. Giáo hội Việt Nam
thuở sơ khai ấy đã thể hiện mình trong sự thách đố đối với chính sự sống, trong
hoàn cảnh không được chấp nhận ngay cả chính sự hiện hữu của mình. Đó là một
thách đố sống còn. Vị thế ấy giống hệt như tình hình của Giáo hội sơ khai trong
300 năm đầu, trong đó ý nghĩa của niềm Tin Kitô giáo được xác lập như một sự
khác biệt. Khi ấy, đối diện với sự bách hại, các thành phần trong Giáo hội nhận
thức rõ rệt đức Tin của mình. Đức Tin làm nên sự khác biệt căn bản giữa mình
với lương dân, và người tín hữu sống đức Tin nghĩa là dám sống những đòi hỏi
của đức Tin như một lựa chọn cho trọn vẹn bản thân mình. Nhờ ý thức khác biệt
trong “gương soi” ấy, nội bộ Giáo hội có một sự hợp nhất với nhau.
Nguyên sự hiện diện khác biệt và can
trường ấy đã trở nên như một lời chứng; và đó cũng đã là một sự dấn thân; dấn
thân không phải chỉ bằng lời hay bằng hành động mà bằng chính sự hiện diện hiên
ngang trước thách đố sống còn. Một sự dấn thân như thế đã sinh hoa kết quả hiển
hiện là 117 thánh tử đạo vào biết bao nhiêu anh hùng tử đạo khác. Ngoài ra còn
biết bao nhiêu hoa trái khác là sự gia tăng số tín hữu… Giáo hội Việt Nam
khi đó đã “soi gương” vào lịch sử dân tộc và đã thể hiện mình như là một Giáo
hội tử đạo.
Trong thời gian mà Giáo hội Việt Nam không còn bị bách hại nữa, ta thấy nét nổi
bật nhất của Giáo hội Việt Nam
chính là sự sầm uất trong các sinh hoạt. Ơn gọi linh mục tu sĩ đông đảo, các tổ
chức lớn mạnh, lòng hăng hái nhiệt thành của người tín hữu trong các sinh hoạt
nhà đạo. Tuy nhiên, mặt trái của sự sầm uất trong các sinh hoạt lại là một đời
sống đức tin tách biệt với đời sống thường ngày, tách rời với lịch sử. Khi
không còn đối diện với thế giới, không còn ý thức ý nghĩa sự hiện diện khác
biệt của mình như một chứng tá đối với dòng lịch sử, các Kitô hữu bắt đầu nhìn
nhau và phân biệt nhau bằng sự so sánh, đánh giá cao thấp trong nội bộ với
nhau. Chiều kích danh giá thay thế cho chiều kích sứ vụ. trở thành nguyên lý
chính yếu ngấm ngầm chi phối mọi sinh hoạt trong Giáo hội. Nguồn ơn gọi đông
đảo, việc gia tăng số lượng trong các dòng tu, các chức tước, phẩm trật trong Giáo
hội Việt Nam …
tất cả đều bị nhận chìm trong ý thức danh giá hơn là ý nghĩa sứ vụ. Các tổ chức
công giáo tiến hành đều biến chất và mang dáng vẻ của hội đạo đức hơn là mang Tin
mừng vào giữa lòng đời. Đời sống đức tin sầm uất trong lễ lạy, xưng tội, chủ
yếu là để được rỗi linh hồn chứ không phải để biến đổi bộ mặt trần gian thành
nên Nước Trời. Đức tin trong Giáo hội Việt Nam thời kỳ này ít trở thành sức
mạnh của việc tông đồ và truyền giáo, ít trổ sinh hoa trái trong đời sống nhân
bản, ít đưa tới một đời sống thực sự gắn bó với Chúa trong lịch sử đời mình. Có
lẽ trong thời kỳ này, Giáo hội đã soi bóng của mình vào chính bản thân mình và
đã tạo ra một hình ảnh Giáo hội nặng tính chất danh giá, lễ nghĩa, nể vì. Giáo
hội Việt Nam
đã không soi mình vào dòng lịch sử thế giới, lịch sử dân tộc để nhận ra trách
nhiệm trở nên dấu chỉ Nước Trời cho dân tộc của mình.
Với hiện tình chia rẽ trong Giáo hội
Việt Nam hiện nay, ta thấy hai mối nguy mà Giáo hội có thể vấp phải : một đàng
là khuynh hướng bận tâm thích nghi để tồn tại, đàng khác là lối nhìn duy ý thức
hệ; một đàng thì tự bằng lòng với những sinh hoạt đạo đức “siêu lịch sử”, một
đàng thì dấn thân như một sự đấu tranh cho một mục tiêu đã có từ trước, chứ
không lắng nghe được ý nghĩa cứu độ trong từng biến cố; một đàng lấy làm vui vì
sự phát triển những sinh hoạt nội bộ, đàng khác thì lấy vui buồn theo sự thắng
thua của Giáo hội chứ không phải của Nước Trời…. Thật ra, cả hai khuynh hướng
ấy vẫn cùng là một thứ soi gương vào chính mình, vẫn là tìm cách để bảo vệ
chính mình, vẫn là lấy chính bản thân của Giáo hội như là cứu cánh chứ không
còn như một dấu chỉ Nước Trời. Ta cũng có thể lấy một tiêu chuẩn khác để phân
định khuôn mặt của Giáo hội Việt Nam, đó là sự quan tâm, lòng thiết tha với
những người nghèo, những người bé mọn, những người đau khổ, những người đang
gánh chịu những bất công trong cuộc sống. Đó chính là nét xuyên suốt trong lịch
sử ơn cứu độ, đặc biệt là trong Tin mừng Cứu Độ của Đức Giêsu. Một Giáo hội
“soi gương” vào thế giới, và “soi gương” vào Chúa, sẽ luôn luôn tìm thấy khuôn
mặt “dấu chỉ Nước Trời” của mình, trước tiên, cho những người nghèo:
Ông
Gio-an lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ
đến hỏi Người rằng : "Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay
là chúng tôi còn phải đợi ai khác ?" Đức Giê-su trả lời : "Các anh cứ
về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe : Người mù xem thấy,
kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ
nghèo được nghe Tin mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi (Mt 11,
2-6).
Tạm Kết
Giáo
hội chỉ có thể thể hiện khuôn mặt đích thực của mình khi dám hoà mình vào những
diễn tiến lịch sử, nhận ra trong dòng lịch sử ấy những “dấu chỉ” như là những
lời mời gọi của Thiên Chúa. Nẻo đường ấy vừa giả thiết thái độ trân trọng cuộc
sống thật của con người, thiết tha với những biến động thăng trầm của hoàn cảnh
xã hội chung quanh mình, vừa giả thiết một thái độ trân trọng tiếng nói của
Chúa, lắng nghe lời mọi gọi dấn thân, làm chứng cho Nước Trời.
Khi
đặt mình trong một thái độ trân trọng trần gian, thiết tha với cuộc sống con
người, có thiện cảm với nhân loại, Giáo hội mới có khả năng thoát khỏi lối nhìn
siêu lịch sử để thể hiện mình như một sự dấn thân. Điều đó không có nghĩa là
nói vâng với mọi chuyện, hoặc coi như mọi chuyện không có gì quan trọng, không
có gì nguy hiểm. Một mối thiện cảm đích thực cũng bao hàm thái độ dám thể hiện
vai trò ngôn sứ để tố cáo những sai lạc và dám đi ngược lại những gì mà đám
đông quần chúng đang theo đuổi.
Khi
đặt mình trong thái độ lắng nghe tiếng nói của Chúa, người ta mới có cơ may
thoát khỏi lối nhìn thế gian, lối nhận định hơn thiệt theo những tiêu chuẩn của
một thực tại lịch sử không có chân trời Cánh Chung. Trong hướng nhìn của lịch
sử cứu độ, thực tại trần gian cần được luôn luôn ướm vào vận hành hướng tới
thực tại Cánh Chung. Như thế, nẻo đường phát triển của Nước Trời không phải là
con đường độc đạo, những là “phiêu lưu” từ muôn ngả theo sự dẫn dắt của Chúa
Thánh Thần; không phải là con đường một chiều, nhưng là một cuộc đi-về giữa
thực tại lịch sử và chân trời Cánh Chung. Con đường ấy luôn là cách thức làm
sáng lên “Dấu Chỉ Giêsu” như hạt nhân của Nước Trời trong lịch sử nhân loại và
toàn thể lịch sử vụ trụ. nẻo đường ấy không thể hướng tới một chân trời nào
khác hơn là sự thành toàn của Nước Trời đang đến.
Như
nắm men phải được vùi vào đấu bột (X. Lc 13, 20-21), Giáo hội Việt Nam cũng dấn
thân vào trần gian với men Tin mừng, với sứ vụ đem những giá trị Tin mừng của
Bài Giảng Trên Núi, những giá trị Tin mừng đầy tính chất cứu độ đối với lịch sử
nhân loại, vào lịch sử trần gian để hướng lịch sử ấy đi đến điểm hoàn tất trong
ngày Quang Lâm. Những điều ấy phải thực sự được thể hiện một cách có-thực trong
dòng lịch sử cụ thể chứ không phải trong một hệ giá trị “siêu lịch sử” nào.
Đăng nhận xét