Mới chiều
qua,
thấy người đi ngoài ngõ còn phong phanh áo cộc tay mùa hè, sáng hôm sau đã thấy người người co ro
trong những chiếc áo ấm đủ màu sắc.
Những giờ phụng vụ ra như ấm áp hơn
trong những ngôi thánh đường khép kín cửa.
Cái rét khiến người ta xích lại gần nhau, mong tìm hơi ấm.
thấy người đi ngoài ngõ còn phong phanh áo cộc tay mùa hè, sáng hôm sau đã thấy người người co ro
trong những chiếc áo ấm đủ màu sắc.
Những giờ phụng vụ ra như ấm áp hơn
trong những ngôi thánh đường khép kín cửa.
Cái rét khiến người ta xích lại gần nhau, mong tìm hơi ấm.
Vũ Phong
Tôi sẽ chẳng bao giờ
quên được cái Tết đầu tiên của mình nơi đất Bắc. Trước đó, khi này khi khác,
giữa sắc vàng của hoa mai hoa cúc, và giữa trời nắng ấm miền Nam, tôi chỉ được
cảm nghiệm nét đẹp của cành đào, của cái rét đầu xuân qua văn chương, thi phú.
Và rồi nhân năm thực tập mục vụ, tôi đã được thoả mãn khi hưởng nếm hương vị
Tết rất đậm đà của người dân xứ Bắc.
Đã gần đến ngày ông Táo
về trời mà miền Bắc vẫn còn nóng bức như đương đầu Hè. Ông Vĩnh gặp tôi lần nào
cũng chép miệng, “Thế là năm nay không có Tết !” Mà quả thực, Tết miền Bắc sẽ
chẳng thành Tết nếu thiếu đi cái rét. Bánh chưng, dưa hành, câu đối… người ta
có thể tìm thấy quanh năm, nhưng cái rét – hương vị đặc trưng, được ban tặng từ
thiên nhiên thì không tự tạo ra được. Những cành đào người ta bày ra sớm đã nở
bung giữa bụi và nắng. Tôi chợt nghĩ : “Chẳng khác gì miền Nam !”
Ấy thế, trời không phụ
nỗi mong ngóng của con người, không phụ lại sự háo hức của người con miền Nam
lần đầu tiên ăn Tết tại Bắc. Những ngày giáp Tết, chợt có đợt không khí lạnh
tràn về. Mới chiều qua, thấy người đi ngoài ngõ còn phong phanh áo cộc tay mùa
hè, sáng hôm sau đã thấy người người co ro trong những chiếc áo ấm đủ màu sắc.
Những giờ phụng vụ ra như ấm áp hơn trong những ngôi thánh đường khép kín cửa.
Cái rét khiến người ta xích lại gần nhau, mong tìm hơi ấm. Thánh lễ sáng Chúa
nhật hôm ấy đã mang lại cho tôi trải nghiệm sinh động về tính cộng đoàn, về sự
hiệp thông.
Cái rét tràn về đúng
lúc khiến ông Vĩnh hể hả ra mặt. Ông mời tôi sáng mùng một ghé nhà ông ăn mứt,
uống trà, ngắm hoa thuỷ tiên nở. Tôi rất ngạc nhiên về lời mời này. Vì thường
nói đến Tết là người ta nói đến hoa mai, hoa đào; tuy không đặc trưng bằng
nhưng chí ít cũng là hoa cúc, hoa lan. Có ai lại nói đến thuỷ tiên bao giờ ?
Ông Vĩnh lại phải mất ít phút để kể cho tôi về thú chơi hoa Tết của người xứ
Bắc.
Hoa chơi tết có nhiều
loại. Loại hoa thường thấy trưng trên bàn thờ trong dịp Tết là hoa hải đường.
Hoa có màu đỏ, hương thơm nhẹ, tươi lâu. Từng chùm hải đường như được đặt trên
tán lá xanh đậm, cứng cáp, càng tạo nên nét ấm áp cho ba ngày Tết. Thế nhưng,
với người biết chơi, ngày Tết không thể thiếu “cốc” thuỷ tiên. Trong lưu truyền
dân gian, người ta tin rằng hoa thuỷ tiên mang lại may mắn, thịnh vượng
cho gia đình. Vậy nên ở
những gia đình trung lưu, dịp Tết không thể thiếu cốc thuỷ tiên trên bàn thờ.
Nói về sự tích hoa thuỷ
tiên, ông Vĩnh kể : “Ngày xưa, có một ông phú hộ có 4 người con trai. Khi biết
mình sắp chết, ông gọi 4 người con đến, dặn dò các con phải chia gia tài của
cha làm 4 phần đều nhau. Bốn người con hứa tuân lời cha trối lại. Tuy nhiên,
vừa chôn cất cha xong thì 3 người con đầu dành phần gia tài nhiều hơn người em
út. Họ chỉ chia cho đứa em út một mảnh đất khô cằn.
Người em út rất buồn
khổ, vừa thương nhớ cha mới mất, vừa buồn các anh xử tệ với em. Đang ngồi khóc
một mình trước mảnh đất khô cằn, thì người em bỗng thấy một bà Tiên từ mặt ao
gần đó hiện lên bảo:
- "Này con, thôi
đừng khóc nữa. Khoảng đất này của con có chứa một kho tàng, mà các anh của con
không biết. Kho tàng này chứa nhiều mầm của một loại hoa quý vô giá. Mỗi năm, cứ
đến mùa Xuân, thì hoa đâm chồi nẩy lộc, nở từng hàng chi chít trên đất đai của
con. Con sẽ hái hoa, đem bán, rất được giá. Nhờ đó, chẳng bao lâu thì con sẽ
giầu có hơn các anh".
Quả thật, đến mùa Xuân
ấy, đúng như lời bà Tiên nói, mảnh đất khô cằn của người em bỗng mọc lên từng
hàng hoa trắng, hương thơm ngào ngạt. Để nhớ đến ơn lành của bà Tiên, người em
đặt tên cho loại hoa này là Hoa Thuỷ Tiên.
Những
người thích hoa, chơi hoa, và những người nhà giầu đã thi nhau đến mua hoa Thuỷ
Tiên hiếm quý, với giá cao. Chẳng bao lâu, người em trở nên giầu có. Rồi cứ mỗi
dịp Tết đến, người em út lại giầu thêm, nhờ mảnh đất nở đầy hoa thơm tươi thắm.
Người em trở nên giầu hơn 3 người anh tham lam kia.”
Nghe kể về sự tích loài
hoa kỳ lạ này, tôi càng háo hức để mau đến ngày ngắm hoa. Ông Vĩnh từ tốn nói:
-
Thầy cứ từ từ. Khi nào thầy ghé, tôi sẽ chỉ
cho thầy cách tỉa củ để ra hoa. Đây mới là thú chơi đích thực.
Và rồi sau đó tôi cũng
được ông Vĩnh chỉ cho cách gọt hoa thuỷ tiên. Thường củ hoa thuỷ tiên được mua
về từ đầu tháng Chạp âm lịch. Khi mua về phải ngâm vào nước ấm, mỗi ngày thay
nước hai lần. Cứ làm như thế chừng một tuần sau, củ ra rễ và những lá xanh nhú
lên. Kể từ lúc đó, ngoài việc thay nước, rửa nhớt người ta sẽ dùng dao gọt củ
thuỷ tiên để tạo dáng cho giò thuỷ tiên có hình chim phượng. Thời trước, những
người chơi hoa không gọt củ bằng dao, người ta hay vót cật tre thật sắc, nhọn.
Họ nói gọt củ bằng cật tre ít bị phạm vào lá, vào chồi hoa. Thường thì mỗi củ
thuỷ tiên có chừng bốn, năm chồi hoa. Khi các chồi trổ nụ thì ngâm củ thuỷ tiên
vào nước trong một cốc thuỷ tinh. Vậy nên nó mới có tên gọi là “cốc thuỷ tiên”.
Ngâm trong cốc rồi, người ta còn phải kích thích hay hãm hoa bằng nước ấm nếu
trời lạnh; bằng nước lạnh nếu trời nóng. Người ta tin rằng, nhà nào có cốc hoa
nở đúng đêm ba mươi hay sáng mùng một, thì coi như nhà ấy có may mắn cho cả
năm.
Đến thăm và chúc tuổi
nhà ông Vĩnh đầu năm, tôi chợt thấy niềm vui của ông như không trọn vẹn chỉ vì
hoa thuỷ tiên nở ngày từ trưa ba mươi. Dẫu vậy ông vẫn lộ nét hỉ hả, tự hào khi
ngắm cốc hoa tỉa khéo. Trong chiếc cốc thuỷ tinh chân cao, ngập trong nước là
bộ rễ trắng muốt nom như râu ông lão. Lá hoa dày và dài được uốn thành hình
cánh phượng, đuôi phượng; các nhánh hoa được uốn thành cổ và mỏ chim. Mỗi nhánh
có chừng ba, bốn nụ hàm tiếu màu trắng xanh đang từ từ nở. Trong cái rét như
chừng đậm đặc của sáng mùng một, mùi thơm nhè nhẹ của hoa thuỷ tiên như đưa cái
Tết xứ Bắc đi vào cõi tâm linh.
Vậy
là một cái Tết nữa lại về. Năm nay tôi không còn được đắm mình trong cái lạnh
sắc lẹm của miền Bắc nữa; không còn cái thú tay vân vê tách trà nóng hổi, vừa
ăn mứt gừng vừa ngắm hoa thuỷ tiên nữa. Nói thế không có nghĩa Tết miền Nam
không thi vị bằng Tết miền Bắc. Ở đâu cũng có những nét đặc trưng khó quên của
chúng. Thế nhưng riêng tôi, tôi vẫn thầm mong có một dịp trở về đất Bắc, để
được cảm nghiệm hương vị Tết rất riêng; để được ngụp lặn trong tầng sâu văn
hoá, và nhất là để được nghe và thấy những phong tục, thú chơi phong lưu trong
dịp Tết.
Cu kêu ba tiếng cu kêu,
Trông
mau tới Tết dựng NÊU ăn chè (Ca dao).
Đăng nhận xét