Đối thoại và việc loan báo Tin Mừng tại Á Châu



Á châu, nơi Thiên Chúa
đã khởi đầu công cuộc cứu độ của Người,
qua những người con của vùng đất này,
như Môsê, các tổ phụ, những ngôn sứ,
và sau cùng là chính Con Một Người,
Đức Giêsu thành Nazareth.
Đức Giêsu đã mặc lấy xác phàm để trở nên loài người,
mang những nét đặc thù của nhân loại
và cũng bắt đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng tại đây
Giuse Đinh Ngọc Thiện, TSMTC

DẪN NHẬP
Trước khi về trời với Chúa Cha, Đức Giêsu đã để lại cho các môn đệ lệnh truyền “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc16,15). Đây chính là sứ vụ quan trọng đối với các môn đệ. Chính vì thế, sau khi Chúa về trời, nhất là từ ngày lễ Ngũ tuần, các ông đã hăng say ra đi rao giảng lời Chúa cho tất cả các dân tộc trên thế giới. Ngày nay, lệnh truyền đó đã được trao lại cho Giáo hội từ các Tông đồ, những người tiếp bước theo Chúa, và Giáo hội lãnh nhận sứ vụ đó như là đặc tính của mình[1] và Giáo hội vẫn luôn trung thành với sứ vụ này, cho dù có phải trải qua biết bao thăng trầm, khó khăn, sóng gió… Sứ mạng này không chỉ được loan báo cho một quốc gia hay một dân tộc, nhưng là cho khắp cả “tứ phương thiên hạ” và Giáo hội cũng đang tích cực trong việc mở rộng Nước Chúa nơi trần gian này. Tuy nhiên, công cuộc loan báo Tin Mừng không phải chỉ rập khuôn theo một mô thức sẵn có, nhưng nó phải năng động tuỳ theo và phù hợp với từng bối cảnh cụ thể, thích hợp với từng dân tộc cụ thể.
Trong khuôn khổ bài viết này, người viết không có tham vọng tìm hiểu về tất cả các vấn đề về sứ vụ của Giáo hội, nhưng chỉ muốn tìm hiểu đôi điều về sứ vụ truyền giáo của Giáo hội cách chung, cũng như cách riêng tại châu Á cùng với những thách đố mà Giáo hội sẽ gặp phải tại nơi đây. Mặt khác, do công cuộc loan báo Tin Mừng được thực hiện nơi một lục địa cụ thể, với những con người cụ thể, nên người viết cũng muốn tìm hiểu một vài đóng góp của chính Giáo hội Á châu cũng như của những Kitô hữu trên vùng đất này.
Trước tiên, chúng ta cùng nhau tìm hiểu những nét khái quát về Giáo hội: Giáo hội là gì? Phát xuất từ đâu? Lịch sử hình thành và nhất là tìm hiểu bản chất thực sự của Giáo hội nơi trần gian này là gì?

1. Giáo hội và sứ vụ của Giáo hội
a. Giáo hội
Giáo hội được hiểu như là ‘bí tích phổ quát của ơn cứu độ’[2] mà Thiên Chúa dành cho nhân loại, và điều này có nghĩa Giáo hội chính là một nhịp cầu, một dụng cụ, một phương tiện của Thiên Chúa. Nói cách khác, Giáo hội hiện hữu với và vì một sứ mệnh hay một sứ vụ. Và chính trong hiện hữu đó mà Giáo hội dần đi vào trong dòng lịch sử, văn hóa và đời sống các dân tộc để mời gọi con người, trong câu chuyện của riêng họ, tham dự vào mầu nhiệm Thiên Chúa. Đây là câu chuỵện về Giáo hội– một Câu chuyện đã bắt đầu trong giây phút các môn đệ từ từ nhận ra họ được mời gọi vượt ra khỏi ranh giới Do Thái để đến với mọi dân tộc.
Sách Tông Đồ Công Vụ cho ta thấy được bản chất hay câu chuyện về Giáo hội được tượng hình qua 7 giai đoạn: (1) trước lễ Ngũ Tuần[3], các môn đệ trở về lại Jêrusalem với ý thức chờ đợi ngày của Đức Giêsu Phục sinh tái thiết Israel, nhưng là ý thức trong sự yếu ớt[4]; (2) lễ Ngũ Tuần[5] là giai đoạn các môn đệ có một ý thức mới về thời đại cánh chung[6], nhưng họ không quan tâm lắm đến sứ mạng cho dân ngoại và sứ mạng ngoài Jêrusalem; (3) giai đoạn Stêphanô[7] là giai đoạn các môn đệ bị bắt buộc phải di chuyển khỏi Jêrusalem vì bách hại. Công cuộc loan báo Tin Mừng, một cách tình cờ, được mở rộng; (4) giai đoạn tiếp theo[8] bắt đầu lớn lên của Giáo hội được diễn tả qua sự can đảm của Philipphê khi ông loan báo Tin Mừng cho người Samari vốn bị người Do Thái khinh miệt, và làm phép rửa cho hoạn quan Ethiopi; (5) giai đoạn 5 với sự kiện Cornelio và gia đình[9] đánh dấu một sự hoán cải tâm trí khi Phêrô ý thức công việc của Thiên Chúa vượt ra khỏi biên giới và ý nghĩ của Giáo hội, ông nói: “Nếu Thiên Chúa ban cho họ cùng một ân huệ như Ngài ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Đức Giêsu, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa ?”; (6) giai đoạn tại Antiokia[10] cho thấy căn tính Giáo hội được tượng hình cách đầy đủ. Chính tại đây, Giêsu được tuyên xưng là Chúa thay vì là Mêsia; và các môn đệ bắt đầu được gọi là Kitô hữu, một Giáo hội biệt lập với Do Thái giáo; (7) giai đoạn này là giai đoạn phát triển sứ mạng tới dân ngoại.[11]
Như vậy, ta thấy bản chất của Giáo hội chỉ xuất hiện khi Giáo hội dấn thân vào bối cảnh cụ thể trong sứ mạng của Thiên Chúa [12]. Khi các môn đệ đáp ứng lời mời gọi của Chúa Thánh Thần tiếp tục sứ mạng của Đức Giêsu theo những đường lối mới và trên những biên cương mới, các môn đệ trở nên một Giáo hội. Đồng thời trong câu chuyện của sách Công Vụ còn cho thấy một yếu tố khác cũng cấu thành nên bản chất Giáo hội, đó là yếu tố Giáo hội phải tự tái tạo chính mình trong bối cảnh cụ thể mới. Giai đoạn của Stêphanô (ch 6 – 7 ) cho thấy khá rõ yếu tố tự tái tạo này. Khi các môn đệ bị buộc phải phân tán vì bách hại, thì đó chính là bối cảnh cụ thể mới mà Giáo hội tiên khởi buộc phải thích nghi.
b. Sứ vụ của Giáo hội
Công đồng Vaticanô II, với mô hình Ad Gentes[13], cho thấy sứ mạng của Giáo hội xuất phát từ sự hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa, nói cách khác là xuất phát từ sứ mạng của Thiên Chúa – Missio Dei, là một hiệu quả, hay có thể nói là sự nối tiếp sứ mạng của Ngài, là sự hoàn thành ý định của Thiên Chúa trong thế giới, Ðấng muốn mọi người được cứu rỗi.
Ý định của Chúa Cha: Tự bản tính, Giáo hội lữ hành phải truyền giáo, vì chính Giáo hội bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần theo ý định của Thiên Chúa Cha.
Ý định này tuôn trào từ "suối tình yêu" cũng là lòng thương của Thiên Chúa Cha[14]. Thực vậy, Thiên Chúa muốn mời gọi mọi người tham dự vào sự sống của Ngài, không những chỉ từng cá nhân không liên lạc gì với nhau, mà Ngài còn liên kết họ thành một dân duy nhất, trong đó đoàn tụ mọi con cái đã tản mác khắp nơi.
Sứ mệnh của Chúa Con: Ý định của Thiên Chúa nhằm cứu rỗi toàn thể nhân loại không phải chỉ được thực hiện một cách có thể nói là kín đáo trong tâm trí con người, hoặc bằng những kế hoạch, ngay cả kế hoạch tôn giáo, để nhờ đó con người tìm kiếm Thiên Chúa bằng nhiều cách, "hầu may ra sẽ đến gần Ngài hoặc gặp được Ngài, mặc dù Ngài không ở xa mỗi người chúng ta" (Cv 17,27); những kế hoạch đó cần phải được soi dẫn và tu bổ, tuy đôi khi, nhờ ý định nhân lành của Chúa Quan Phòng, có thể được coi như những con đường hướng về Thiên Chúa chân thật hoặc chuẩn bị Phúc Âm. Nhưng để củng cố hòa bình hay là mối hiệp thông cùng Thiên Chúa, và để xây dựng một xã hội huynh đệ giữa con người, con người tội lỗi, Ngài đã quyết định đi vào lịch sử loài người một cách mới mẻ và dứt khoát[15]. Thật vậy, Chúa Kitô đã nhận lấy trọn vẹn nhân tính chúng ta, là những kẻ khốn khổ và nghèo hèn, ngoại trừ tội lỗi. Chúa Kitô, "Ðấng được Chúa Cha thánh hóa và sai xuống trần gian" (x. Gio 19,36) đã nói về chính mình rằng: "Thần Linh Chúa ở trên ta, nên Ngài đã xức dầu cho Ta, sai Ta rao giảng Phúc Âm cho người nghèo khó, an ủi kẻ khổ tâm, loan báo sự giải thoát cho kẻ tù đầy và đem sự sáng mắt cho kẻ đui mù" (Lc 4,18); Người còn nói: "Con Người đến tìm kiếm và cứu vớt điều gì bị hư đi" (Lc 19,10).
Những gì Chúa đã một lần rao giảng hay đã hoàn tất trong Người cho phần rỗi nhân loại, phải được công bố và truyền bá tới tận cùng trái đất, bắt đầu từ Jêrusalem: như thế những gì đã một lần thực hiện cho phần rỗi mọi người, sẽ có hiệu lực qua suốt dòng thời gian, cho hết mọi người. Vì thế, “nếu Giáo hội không truyền giáo, công cuộc cứu độ của Đức Kitô sẽ bị bỏ dở.”[16]
Sứ mệnh của Chúa Thánh Thần: Ðể hoàn thành việc đó, Chúa Kitô đã sai Chúa Thánh Thần từ Chúa Cha đến để Ngài thực hiện công trình cứu chuộc trong các tâm hồn và thúc đẩy Giáo hội. Qua mọi thời đại, Chúa Thánh Thần "hợp nhất toàn thể Giáo hội trong mối hiệp thông và thừa hành, ban phát các ơn phẩm trật và đặc sủng  khác nhau", như là linh hồn làm sống động những Tổ Chức trong Giáo hội và đổ dần vào lòng các tín hữu cũng một tinh thần truyền giáo đã thúc đẩy chính Chúa Kitô. Ðôi khi Chúa Thánh Thần lại chuẩn bị một cách hữu hình cho hành động truyền giáo, cũng như không ngừng dùng những phương thế khác nhau để theo sát và hướng dẫn vậy. [17]
Tiếp nối sứ vụ cao cả của Thiên Chúa Ba Ngôi – Missio Dei, Công đồng Vaticano II tiếp tục trình bày những nền tảng căn bản về Giáo hội như là tiền đề cho công cuộc loan báo Tin Mừng:
Ngay từ đầu, Chúa Giêsu "đã gọi đến với Người những kẻ chính Người muốn và đặt ra ( mười hai người ) để họ ở cùng Người rồi sai họ đi rao giảng" (Mc 3,13). "Vậy các con hãy đi dạy dỗ muôn dân: rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, và dạy họ giữ mọi điều Ta đã truyền cho các con" (Mt 28,19-20). "Hãy đi khắp trần gian rao giảng Phúc Âm cho hết mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép Rửa sẽ được cứu rỗi: còn ai không tin sẽ bị luận phạt" (Mc 16,15). Do đó, Giáo hội có bổn phận truyền bá đức tin và ơn cứu rỗi của Chúa Kitô, […] Sứ mệnh này tiếp diễn, và qua dòng lịch sử làm sáng tỏ sứ mệnh của chính Chúa Kitô.[18]
Nếu hiểu sứ vụ như là bản chất của Giáo hội, như là sự tiếp nối sứ vụ cao cả của Ba Ngôi Thiên Chúa, thì nhất thiết, sứ vụ phải là mối ưu tư hàng đầu. Đức Phaolô VI đã nói thêm trong Evangelii Nuntiandi: [19]
Nhân loại cũng có thể lãnh Ơn cứu độ bằng nhiều cách khác nhờ tình thương của Thiên Chúa cho dù chúng ta không rao giảng Tin Mừng cho họ; nhưng đối với chúng ta, chúng ta có thể lãnh Ơn cứu độ do sự chểnh mảng, sợ hãi hoặc mắc cỡ - điều mà thánh Phaolô gọi là hổ thẹn vì Tin Mừng – hay như là hệ quả của những ý kiến sai lạc khiến chúng ta không rao giảng Tin Mừng được không ? Như thế thì có thể đó là chúng ta chống lại lời mời gọi của Thiên Chúa.
Và Ginardi Stellin cho rằng chính ý thức này đã giúp các nhà truyền giáo, cả nam lẫn nữ, nhìn công việc của mình trong thái độ khiêm tốn. Đồng thời nhận ra những người lãnh nhận lời mình rao giảng không chỉ là những người anh em, mà còn là ân nhân[20]. Và trong cái nhìn bao quát hơn, ta nói thêm rằng không chỉ có những người tiếp nhận lời rao giảng của Giáo hội, mà cả những môi trường, những hoàn cảnh cụ thể với mọi thách thức trong đó…tất cả đều có thể là hồng ân cho Giáo hội; bởi chính những yếu tố đó là “cơ hội” giúp Giáo hội triển nở và không ngừng tái tạo chính mình trong lịch sử.
Như vậy, sứ vụ của Giáo hội phát xuất từ chính ý định của Thiên Chúa và Giáo hội có nhiệm vụ làm cho sứ vụ đó trổ sinh hoa trái nơi trần gian này, trong một bối cảnh cụ thể. Tuy nhiên sứ vụ này cũng sẽ phải đối mặt với không ít những khó khăn. Sứ vụ của Giáo hội sẽ gặp phải những khó khăn gì trong bối cảnh chung của lục địa Á châu?
2. Đứng trước bối cảnh Á châu
Trong tình hình chung của châu Á, sứ vụ của Giáo hội gặp nhiều khó khăn không chỉ về tôn giáo, văn hoá hay chính trị mà còn cả về vấn đề kinh tế nữa. Giáo hội sẽ tìm cho mình phương thế nào để có thể vượt qua khó khăn này?
a. Văn hóa
Điều đầu tiên cần đề cập trong bối cảnh châu Á là vấn đề đa dạng văn hóa và đa nguyên tôn giáo, mà nói theo kiểu của cha A. J. V. Chandrakanthan[21] : Châu Á là một bức mosaic được ghép bằng nhiều màu sắc tôn giáo, văn hoá, ngôn ngữ, triết lý, chủng tộc và sắc dân khác nhau. Đây cũng là điều mà đức Gioan Phaolô II đã rất quan tâm khi ngài ban hành Tông huấn Ecclesia in Asia, ngay sau Thượng Hội đồng Giám mục Á châu:[22]Á châu cũng là chiếc nôi của các tôn giáo lớn trên thế giới, là nơi phát sinh nhiều truyền thống thiêng liêng khác[23]… Tiếp theo những gì Đức Thánh cha nhắc đến, Phan Đình Cho cũng đã trình bày khá sâu sắc chủ đề này và cho thấy rằng đa dạng văn hóa sẽ không tránh được xung đột văn hóa, và đa nguyên tôn giáo bao giờ cũng gắn với lịch sử của những lập trường độc tôn[24], tức là đã cho thấy một khó khăn căn bản trước mắt: Kitô giáo tại Á châu đang đối diện, đang “đồng hành” với những Nhà truyền giáo to lớn khác[25]. Và khi toàn cầu hóa đặt ra cho hầu hết các quốc gia một bối cảnh về sự đa nguyên và phức tạp cả tôn giáo lẫn văn hóa, thì đây cũng là một dấu chỉ thời đại quan trọng nhất đặt ra những thách đố to lớn cho Giáo hội[26]; điều này cũng có nghĩa là thách đố cho Sứ vụ của Giáo hội, của Đức Kitô, và của Thiên Chúa[27]. Làm thế nào để sứ vụ của Giáo hội được thực hiện tại châu Á, nơi mà văn hóa và tôn giáo cộng sinh một cách sống động và tương tác lẫn nhau, trong khi Giáo hội chỉ là một thiểu số giữa lục địa mênh mông này.

b. Tôn giáo
Trong bối cảnh chung của Á châu, khi nói đến sự đa dạng văn hoá, chúng ta không thể không nói đến vấn đề tôn giáo tại lục địa này. Tôn giáo và văn hoá tại Á châu có thể nói thường đi đôi với nhau, nên văn hoá đa dạng thì tôn giáo cũng đa dạng và phức tạp không kém. Tại lục địa này, ngoài các tôn giáo lớn như Ấn giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Kitô giáo còn có nhiều tôn giáo và đạo lý triết học khác như Khổng giáo, Lão giáo, Thần đạo cũng như nhiều hệ thống tôn giáo bản địa và truyền thống[28]. Phần lớn dân số tại lục địa này là tín đồ của các tôn giáo khác ngoài Kitô giáo[29], và Giáo hội tại nơi đây chỉ là một nhóm thiểu số[30]. Tuy nhiên khi nói đến đa phức tôn giáo tại Á châu thì đây không chỉ là một sự kiện, mà còn là một vấn nạn lớn, vì các nhóm tôn giáo ở đây, nhất là ở nam Á, các nhóm tôn giáo đang xung đột với nhau. Nguy hiểm hơn nữa là các xung độ tôn giáo này đang nhắm đến tấn công các Kitô hữu ở đây[31]:
Tại Ấn độ, các cuộc bạo động giữa Ấn giáo và Hồi giáo đã diễn ra hơn 70 năm nay. Gần đây, tín đồ Ấn giáo Bảo thủ đã tấn công các Kitô hữu. Tại Pakistan và Bangladesh, phần đông tín đồ Ấn giáo là dân nhập cư. Tại Pakistan, những luật chống phạm thượng dường như nhắm đến các Kitô hữu. Tại Sri Lanka, cuộc nội chiến đang diễn ra cả trên bình diện sắc tộc lẫn tôn giáo […]. Tại Đông nam Á, chúng ta cũng thấy nhiều trường hợp tương tự. Tại Philippines, lâu nay vẫn xảy ra các cuộc xung đột vũ trang giữa người Kitô giáo và người Hồi giáo. Tại Indonesia cũng xảy ra các cuộc xung đột tương tự giữa người Hồi giáo và người Kitô giáo. Có lẽ các cuộc xung đột này sẽ còn kéo dài trong tương lai.
Đây thật sự là một thách đố rất lớn và là một vấn đề quan trọng đối với sứ vụ của Giáo hội tại lục địa Á châu này. Ở đây có một câu hỏi được đặt ra: “Phải chăng thực tế này phủ nhận tiềm năng truyền giáo của Giáo hội? Câu trả lời được đưa ra là “không”. Vì chính nhờ thực tế này, Giáo hội được thúc bách “ý thức về căn tính, vai trò chứng nhân và sứ vụ của mình, để không là chủ thể đích thực mang các giá trị Tin Mừng, mà còn là chính con người Đức Kitô nữa”[32] và theo lời cha Kolvenbach khẳng định: “[…] điều quan trọng là các Kitô hữu đã làm cho Đức Kitô và ‘sứ vụ tình yêu độc nhất vô nhị’ của Người chiếu toả ra ngoài chưa.” Như thế, Giáo hội tại Á châu này không thể dùng bạo lực để thực thi sứ vụ của mình được, nhưng nhất thiết phải đi đến một cuộc đối thoại với các tôn giáo bạn, đây là một trong ba mặt của cuộc đối thoại tại nơi đây[33].
Trong cuộc đối thoại này, Giáo hội không làm mất đi căn tính của mình, nhưng tìm cách để giải quyết vấn đề “Làm thế nào để các tôn giáo trở thành khả tín trong thời đại tục hoá này?”[34] Vì trong thời đại này, người Á châu đang đòi hỏi một kinh nghhiệm về Thiên Chúa khác trước “Các dân tộc Á châu đòi hỏi một kinh nghiệm tôn giáo có thể đưa những giá trị nhân bản cũng như thần thiêng vào trong những thực tại trần thế.”[35]. Điều này cho thấy, tôn giáo tại Á châu này không bao giờ bị xem là không thích hợp, ngược lại tôn giáo được xem là thành phần toàn vẹn của văn hoá nơi đây[36]. Trước tình hình đó, Giáo hội được mời gọi làm nổi bật lên tính thánh thiêng của tôn giáo, không phải trong sự gượng ép nhưng trong tinh thần đối thoại và cởi mở. Giáo hội được mời gọi đối thoại với các tôn giáo khác để tìm ra những điểm chung mà các tôn giáo đều đang hướng tới. Đó chính là hướng con người về Thiên Chúa, quy chiếu tất cả về thánh ý Thiên Chúa, thực hiện tinh thần bất bạo động, sống tinh thần siêu thoát và thái độ ân cần, tôn trọng thiên nhiên[37]. Song song với việc đối thoại Giáo hội cũng muốn loan báo tin Mừng cho người khác, và thực hiện trong tinh thần đối thoại của Phúc Âm[38].
Như vậy có thể nói được rằng Giáo hội Á châu liên lạc với các tôn giáo khác bằng một tinh thần đối thoại và cởi mở. Tất cả đều hướng tới đời sống tâm linh và sự phát triển của con người trên lục địa này.
c. Kinh tế
Đi kèm theo những thách đố đó, châu Á còn là một châu lục mà kinh tế thì nghèo nàn, chính trị bất ổn, thiếu dân chủ, xã hội còn bảo thủ, dân cư chật chội, dân số tăng nhanh, di cư vì nghèo đói, những hậu quả của quá trình đô thị hóa [39], cơ chế thị trường không kiểm soát… và cả việc đối diện với những hình thái mới của các tôn giáo xuất hiện cách tràn lan[40] và xem ra rất thành công. Và điều này đòi hỏi cái gì nơi Giáo hội?  Phải chăng cần một sự cẩn thận nghiên cứu hầu định hướng tương lai của Kitô giáo đối với cộng đồng nhân loại trong thế giới thứ III này ? [41]
Với câu chuyện Chúa Giêsu tại châu Á, một chủ đề trong Đại hội Truyền Giáo Á châu lần thứ I từ ngày 18 đến 22/10/2006,[42] Cha Julian Saldana có cách thuật truyện dí dỏm về khung cảnh Á châu, như muốn bày tỏ lòng cảm phục và trân trọng sâu xa, rằng một người quen thuộc với khung cảnh châu Á có thể nhận định, như Thánh Phaolô đã từng nói với dân Athen: “Thưa quý vị vùng Á châu, về mọi mặt, tôi thấy quý vị là những người rất sùng đạo” (Cv 17, 22).
Đức Thánh Cha, đại diện cho toàn thể Giáo hội, cũng bày tỏ Giáo hội giữ một niềm kính phục sâu xa nhất đối với các truyền thống này và tìm cách chân thành đối thoại. Ngài nói đến cảm thức thiêng liêng nội tâm và sự khôn ngoan về mặt luân lý trong tâm hồn người Á châu, và đó là cốt lõi mà xung quanh đó được xây dựng một ý thức đang lớn mạnh về thế nào "là người Á châu". Nhận thức "là người Á châu" này được khám phá và khẳng định cách tốt nhất không phải trong sự chạm trán và đối nghịch nhau, nhưng trong tinh thần bổ sung và hoà hợp. Trong khung cảnh bổ sung và hoà hợp này, Giáo hội có thể loan truyền Tin Mừng qua một cách thức vừa trung thành với truyền thống của mình và vừa trung thành với tâm hồn châu Á.[43]
Từ những tìm hiểu trên đây, chúng ta có thể thấy được những vấn đề khó khăn mà Giáo hội sẽ gặp phải khi thực thi việc loan báo Phúc Âm tại Á châu. Chính vì thế, Giáo hội không nên quá cứng nhắc trong việc đem Tin Mừng đến cho con người nơi đây. Giáo hội cần thực thi sứ vụ của mình với tính cách đối thoại, để Tin Mừng có thể đến với mọi người mà không làm cho họ mất đi những nét văn hoá riêng của mình hoặc không phải đối đầu căng thẳng với các tôn giáo khác đã tồn tại nơi đây. Vì thế, đối thoại là phương thế tốt nhất để loan báo Tin Mừng nơi đây, một cuộc đối thoại mang tính ngôn sứ để Lời Chúa có thể đến được , tồn tại và phát triển nơi đây.
LỜI KẾT
Những gì trình bày trên mới chỉ là một chút bối cảnh chung của lục địa Á châu này, nơi Thiên Chúa đã khởi đầu công cuộc cứu độ của Người, qua những người con của vùng đất này, như Môsê, các tổ phụ, những ngôn sứ, và sau cùng là chính Con Một Người, Đức Giêsu thành Nazareth. Đức Giêsu đã mặc lấy xác phàm để trở nên loài người, mang những nét đặc thù của nhân loại và cũng bắt đầu sứ vụ loan báo Tin Mừng tại đây[44]. Tuy nhiên, sứ vụ của Giáo hội nơi đây gặp không ít khó khăn, về văn hóa, tôn giáo, nhất là vẫn còn những con người, những dân tộc chưa nhận biết Chúa[45]. Chính vì lý do đó, việc loan báo Tin Mừng tại lục địa Á châu hiện nay là điều hết sức cấp bách và cần thiết để các Kitô hữu ý thức về sứ vụ của mình và để người khác cũng được đón nhận Tin Mừng, nhận biết Đức Kitô, Đấng đã đến ở với họ để cứu chuộc họ.


[1] X. Lumen Gentium, số 17.
[2] Ad Gentes, số 1.
[3] Cv 1
[4] Các môn đệ đã có hành động bầu chọn Matthias vào số 12 như một chuẩn bị cho ngày cánh chung, nhưng sau khi Giacôbê bị giết thì không có việc bầu chọn lại.
[5] Cv 2 – 5
[6] Các môn đệ vẫn tin những ngày cuối cùng và sự hoàn thành Israel đang đến gần, nhưng họ ý thức thêm rằng thời đại cuối cùng này gồm hai giai đoạn: giai đoạn chuẩn bị (do họ là những người được sai đến để tập hợp Israel trong niềm tin mới); và quang lâm.
[7] Cv 6 – 7
[8] Cv 8
[9] Cv 10, 1 – 11, 8
[10] Cv 11, 19 – 26
[11] Cv 12 – 28
[12] Giáo hội bước đi trong ý thức rằng Thánh Thần đã đi trước.
[13] Ad Gentes là một mô hình thần học chú trọng tới lịch sử, sự thật, tự do, mục vụ, giải phóng – và là một mô hình thần học được đặt trong một bối cảnh sâu rộng về bản chất của  giáo hội – là truyền giáo.
Ad Gentes cho thấy Giáo hội không chỉ là dân được chọn để tham dự vào đời sống cứu độ của cộng đoàn Ba Ngôi, nhưng còn là tác nhân cộng tác vào sự vươn tới mọi tạo vật của Thiên Chúa. Đồng thời cho thấy mối liên kết không thể và không bao giờ tách rời giữa Giáo hội và đời sống Ba Ngôi, hay nói cách khác là một cộng đoàn sứ mạng là phản ảnh của đời sống Ba Ngôi.
[14] Felipe Gómez, Truyền Giáo Học, Antôn và Đuốc Sáng dịch, tr. 86.
[15] Ibid., tr.88.
[16] Ibid., tr.89.
[17] Ad Gentes , số 2-4
[18] Ibid., số 5.
[19] Evangelii Nuntiandi là tông huấn Loan Báo Tin Mừng đươc đức Phaolô VI công bố sau kết thúc Thương Hội Giám Mục Thế Giới Lần Ba 10/1974, và cũng là kỷ niệm 10 năm Ad Gentes. Đây là một mô hình về sứ mạng cuối thế kỷ 20, nhấn mạnh đến hoạt động của Thiên Chúa trong kiên trì và tôn trọng tự do để thiết lập Nước Thiên Chúa giữa nhân loại, đặc biệt nhấn mạnh đến hoạt động giải phóng và thiết lập công bình của Thiên Chúa và Giáo hội giữa trần gian.
[20] Victorino Ginardi Stellin, M.C.C.J. Sứ vụ Ad Gentes đầu thế kỷ XXI, Sứ vụ truyền giáo tại Á châu hôm nay, Trung tâm học vấn Đaminh, 2007, tr. 95.
[21] Khoa trưởng cho ngành Kitô giáo tại đại học Jaffna  ở Sri Lanka.
[22] Thượng Hội đồng Giám mục Á châu  diễn ra từ 18. 4 – 14. 5. 1998, tại Rôma: với 252 đại biểu tham dự. X. James H. Kroeger, “Á châu, một lục địa đang xuất hiện niềm hy vọng truyền giáo” (Quezon City: Claretian Publications, 1999), Sứ vụ truyền giáo tại Á châu hôm nay, Nguyễn Văn Chữ biên tập, Trung tâm Học vấn Đaminh, 2007, tr. 7.
[23] Ecclesia in Asia, số 6.
[24] Peter Phan Đình Cho, “Đa dạng văn hoá và đa nguyên tôn giáo sứ mạng của Giáo hội tại Á châu”, Sứ vụ truyền giáo tại Á châu hôm nay, Nguyễn Văn Chữ biên tập, Trung tâm học vấn Đaminh, 2007, tr. 28. Chính cuộc tranh luận về ngôn ngữ phụng tự tôn giáo liên quan đến nghi lễ Trung Hoa kéo dài 3 thế kỷ - từ năm 1645 đến năm 1939 – là một lời cảnh báo cần suy gẫm về sự gặp gỡ giữa Tin Mừng và văn hóa. Cha Juan Baptista Morales dòng Đa Minh từng để lại một thiệt hại không nhỏ cho Giáo hội khi ngài dùng thuật ngữ  Kitô giáo để miêu tả việc thờ cúng Khổng Tử và tổ tiên. X. 100 Văn kiện của Rôma liên quan đến cuộc tranh luận về lễ nghi Trung Hoa (1645-1941), Donald F. St. Sure dịch, Ray R. Noll biên tập với các phần dẫn nhập và tóm lược (San Francisco: University of San Francisco, 1992), 4.
[25] Theo thống kê của tạp chí World Mission, Manila 8.5.1995: 85% người ngoài Kitô giáo hầu như thuộc về các tôn giáo lớn khác; Ấn giáo với khoảng 650 triệu tín đồ tập trung hầu hết ở Ấn Độ và một vài nước láng giềng, Phật giáo khoảng 300 triệu – hầu hết là ở Châu Á, Hồi giáo khởang 700 triệu – cũng hầu hết ở Châu Á, trong khi Công giáo ở tại đây chỉ có khoảng 100 triệu.
[26] Peter Phan Đình Cho, ibid., tr. 50.
[27] Vì bản chất của Giáo hội không gì khác chính là sứ vụ. Giáo hội được thiết lập là để thực thi điều này. X. Tông Đồ Công Vụ.
[28] James H. Kroeger, “Á châu, một lục địa đang xuất hiện niềm hy vọng truyền giáo”, tr. 22.
[29] Theo thống kê năm 1995 thì dân số Á châu là gần 3.5 tỉ người trong đó Phật giáo có khoảng 300 triệu tín đồ; Hồi giáo khoảng 700 triệu; Ần giáo khoảng 650 triệu; trong khi đó Công giáo chỉ khoảng 100 triệu người.
[30] Ibid., tr. 13.
[31] Edgar G. Javier, SVD., Đối thoại liên tôn tại Á châu những vấn đề và thách đố hiện nay, tr. 123
[32] James H. Kroeger, ibid., tr.14.
[33] Ba mặt của cuộc đối thoại của Giáo hội Á châu là: đối thoại với các nền văn hoá Á châu, đối thoại với các tôn giáo Á châu, và đối thoại với các dân tôc Á châu, nhất là người nghèo. Ibid., tr.17.
[34] Edgar G. Javier, SVD., Đối thoại liên tôn tại Á châu những vấn đề và thách đố hiện nay, tr. 132
[35] Ibid.
[36] Ibid., tr. 131.
[37] Nguyễn Thái Hợp, Đường vào thần học về tôn giáo, (tái bản lần 2), Dấn thân, Houston, 2004, tr. 64
[38] Ibid., tr. 59.
[39] Hiện tượng đô thị hoá và sự xuất hiện những khối đô thị khổng lồ thường xảy ra các tội ác có tổ chức, khủng bố, mại dâm và sự bóc lột những phần tử yếu kém hơn trong xã hội…
[40] Những mô hình Kitô xuất hiện ngay trong lòng Kitô giáo: Tin Lành phái Ngũ Tuần phát triển và hoạt động mạnh mẽ với những hình thức đọc Kinh Thánh theo nghĩa đen, chữa bệnh thần kỳ, nói tiếng lạ, nói tiên tri, trừ tà, khắt khe về luân lý; những phong trào tôn giáo gọi các Kitô hữu được linh hứng (chritian – inspired) nhưng không được các giáo hội Tin Lành chính thống nhìn nhận như giáo hội Hiệp Nhất do mục sư  Sun Myung Moon thành lập; rồi trong khi Kitô giáo ở Nam bán cầu tìm cách hòa nhập vào Đức tin của mình những yếu tố địa phương, thì Kitô giáo ở các nước thuộc thế giới thứ I thì lại đang tân tiến hóa Đức tin của mình như đòi phong Giám mục cho người đồng tính và phụ nữ, chúc lành cho hôn nhân đồng giới…
[41] Peter Phan Đình Cho, ibid., tr. 31.
[42] http://www.fabc.org/img/amc_logo.jpg
[43] Ecclesia in Asia, số 6.
[44] X. Ecclesia in Asia, số 1.
[45] Ibid., số 2.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn