Hình ảnh chiếc nôi nói lên được nhiều điều cao quý
về tiến trình hình thành đời sống, vận mạng,
và lịch sử của con người.
Chiếc nôi không chỉ là chiếc võng hay chiếc giường nhỏ
để đặt một đứa trẻ nằm ngủ, nhưng thực ra
là cả một tấm lòng ấm áp tình người của cha mẹ,
của gia đình, rộng mở đón chào một con người,
một quà tặng vô giá Thiên Chúa gởi đến một dòng tộc,
một dân tộc, và cả nhân loại.
về tiến trình hình thành đời sống, vận mạng,
và lịch sử của con người.
Chiếc nôi không chỉ là chiếc võng hay chiếc giường nhỏ
để đặt một đứa trẻ nằm ngủ, nhưng thực ra
là cả một tấm lòng ấm áp tình người của cha mẹ,
của gia đình, rộng mở đón chào một con người,
một quà tặng vô giá Thiên Chúa gởi đến một dòng tộc,
một dân tộc, và cả nhân loại.
Lm. Fx. Nguyễn Văn Nhứt,
OP.
Tương tự như mọi thực tại khác trên cõi đời, tình
thương có sinh ra, có tăng trưởng, có những biến đổi, cũng như không loại trừ
có khủng hoảng và thậm chí có tử vong.
Tuy nhiên, vì là một thực tại gần gũi, thân thiết nhứt, gắn liền chặt
chẽ với con người như bóng với hình, nên tình thương cũng cần có một môi trường
đặc biệt để sinh trưởng và đơm hoa kết trái.
Giáo Huấn Xã Hội của Hội Thánh[1]
dạy:
Gia đình có một tầm quan trọng chính yếu đối với con người. Trong chiếc
nôi của đời sống và tình thương nầy, mọi người được sinh ra và lớn lên. Lúc một
đứa trẻ được thụ thai, xã hội lãnh nhận món quà là một con người mới, con người
nầy được mời gọi “từ cõi thẳm sâu của chính mình để tiến đến một đời sống hiệp
thông với tha nhân, và để biết trao tặng bản thân mình cho tha nhân.” Do đó,
trong chính khung cảnh gia đình, hành vi trao tặng bản thân mình cho nhau diễn
ra giữa người nam và người nữ được hiệp nhứt trong hôn nhân tạo nên một môi
trường đời sống, là nơi con cái phát triển các tiềm năng, càng lúc càng ý thức
được phẩm giá, và sẵn sàng đối diện với vận mạng độc đáo và riêng tư của chúng.[2]
Theo quan điểm của Hội Thánh, gia đình là “chiếc nôi của đời sống và tình thương.” Hình ảnh chiếc nôi nói lên
được nhiều điều cao quý về tiến trình hình thành đời sống, vận mạng, và lịch sử
của con người. Chiếc nôi không chỉ là chiếc võng hay chiếc giường nhỏ để đặt
một đứa trẻ nằm ngủ, nhưng thực ra là cả một tấm lòng ấm áp tình người của cha
mẹ, của gia đình, rộng mở đón chào một con người, một quà tặng vô giá Thiên
Chúa gởi đến một dòng tộc, một dân tộc, và cả nhân loại.
Chiếc Nôi Đón Nhận Tình Thương
Chiếc nôi, trước hết, là nơi đón nhận một con người chào đời. Con người
đó là một đời sống, tiếp nối đời sống của của cha mẹ, và kết nối ở tận cùng
khởi điểm với đời sống của Thiên Chúa, Đấng ban cho khối đất sét vô hồn chính
hơi thở sinh động của Người.[3]
Nhưng đời sống ấy tự bản chất sâu xa là hoa trái của tình thương vô cùng
đẹp đẽ, ngọt ngào và cao quý người cha và người mẹ trao tặng cho nhau, với lòng
tri ân thăm thẳm và thái độ tuyệt đối vâng phục Thánh Ý diệu kỳ của Đấng Tạo
Hóa quyền năng vô song và đồng thời là Thiên Chúa Tình Thương vô biên vô tận.[4]
Như vậy, ngay từ giây phút đầu đời xuất hiện trên hành tinh nầy - từ
khoảnh khắc một sinh mạng con người, một nhân vị, được hình thành trong lòng mẹ
- mỗi người đã được tiếp nhận như một tình thương, là hoa trái của tình thương
cha mẹ, và quan trọng hơn hết, là dung mạo
của Tình Thương Thiên Chúa, Đấng tác tạo con người theo hình ảnh của
Người.[5]
Quà tặng vô giá nhưng vô điều kiện của Thiên Chúa phải được lãnh nhận
hết sức cung kính, hết sức trang trọng, vừa tương xứng với giá trị của tặng
phẩm, vừa phải lễ phải đạo với Đấng ban phát món quà.
Đấng Thiên Chúa quyền năng tuyệt đối về mọi phương diện tri lẫn hành,
tâm lẫn trí, thông suốt tường tận từ thực thể vĩ đại cho đến từng tiểu tiết chi
ly, hoàn toàn chuẩn mực và chính xác trong mọi vận hành của vũ trụ càn khôn,
chắc hẳn không thể cho phép bất kỳ hình thức ngẫu nhiên, tình cờ, ngoài ý muốn,
vượt tầm kiểm soát nào xảy ra trong công cuộc sáng tạo và cứu độ của Người. Điều
vừa nói càng được nghiêm chỉnh thực thi trong việc hình thành một nhân vị, một
con người. Mối quan tâm của Thiên Chúa dành cho toàn thể vũ trụ vạn vật tất
nhiên là lớn lao và đặc biệt, vì lẽ đó là tuyệt tác của trí tuệ, của tấm lòng
nhân hậu Người muốn công khai bày tỏ ra trong không gian và thời gian. Khi hoàn
thành công trình nầy, Thiên Chúa hài lòng và chúc phước lành cho tác phẩm vừa
thực hiện như bức họa tuyệt đẹp, sống động, phản ánh rực rỡ hào quang thánh đức
và lòng tốt của Người.[6]
Tuy nhiên, chương trình của Thiên Chúa còn được đẩy lên một mức độ hoàn
chỉnh hơn, như nét chấm phá cuối cùng có tính quyết định cho giá trị và ý nghĩa
của tác phẩm. Đàng khác, vinh quang và tình thương Thiên Chúa một khi được biểu
lộ qua bức tranh vũ trụ vạn vật thì nhứt thiết phải được đón nhận với một khả
năng am hiểu và ngưỡng mộ tương xứng. Việc Thiên Chúa sáng tạo con người thỏa
mãn được cả hai đòi hỏi đó.
Thực vậy, toàn thể tạo thành đã có mặt, mọi hình thức sinh sống và mọi
chức năng hoạt động đều sẵn sàng ở vị trí và tư thế chờ lệnh. Phải có phát lịnh
thì tất cả mới bắt đầu. Mường tượng như đây giây phút các vận động viên thi đấu
đã vào vị trí đang nín thở chờ tiếng còi của trọng tài. Có thể như toàn bộ giây
chuyền máy móc đã chuẩn bị sẵn sàng để vận hành, chỉ cần chờ động tác mở cầu
dao điện.
Lệnh của Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa và Chủ Tể Tối Cao là gì?
Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng
ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất
và mọi giống vật bò dưới đất.[7]
Ngay khi đặt con người vào bức tranh sáng tạo như
quét nét cọ quyết định, điều kỳ diệu đã diễn ra khiến Thiên Chúa hết sức mãn
nguyện và buột miệng tấm tắc: “Rất tốt đẹp!”[8]
Giữa cảnh hùng vĩ của tạo thành còn nguyên sơ, trong lành, thanh sạch và
xanh tươi, con người xuất hiện, xinh đẹp như tranh và dễ thương như thiên thần,
trước nỗi kinh ngạc, sững sờ của muôn vật muôn loài. Rồi thì hầu như tức khắc,
tất cả bắt đầu chuyển động theo đúng quy trình đã được Thiên Chúa sắp đặt, bởi
lẽ tiếng còi đã vang lên, và cầu dao điện đã kéo.
Ngắm
tầng trời tay Chúa sáng tạo,
Muôn
trăng sao Chúa đã an bài,
Thì
con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến,
Phàm
nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm?
Chúa
cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,
Ban
vinh quang danh dự làm mũ triều thiên,
Cho
làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo,
Đặt
muôn loài muôn sự dưới chân:
Nào
chiên bò đủ loại, nào thú vật ngoài đồng,
Nào
chim trời cá biển,
mọi loài ngang dọc khắp trùng dương.
mọi loài ngang dọc khắp trùng dương.
Lạy
Đức Chúa là Chúa chúng con,
Lẫy lừng thay
Danh Chúa trên khắp cả địa cầu![9]
Trên dung mạo uy nghi của Thiên Chúa, ánh vinh quang hằng hữu hình như
bỗng trăm ngàn lần rạng rỡ hơn, khi nhẹ nhàng chớm nở nụ cười hồn nhiên của
tuổi thơ bất tử - mà không biết đó là nụ cười của Đấng Tạo Hóa hay là của thụ
sinh khắc họa hình ảnh của Người, long lanh bên nhau như hai giọt sương mai
lóng lánh ánh mặt trời ở buổi sáng đầu tiên trong lịch sử loài người.
Kể từ giây phút ấy - giây phút xuất hiện của một
nhân vị, một con người, có khả năng tri thức để thưởng
lãm tài nghệ diệu kỳ của Thiên Chúa - thì công trình sáng tạo của Người mới
thực sự bắt đầu hiện hữu trọn vẹn, vừa minh mông trải rộng vô biên như vũ trụ,
vừa đậm nét sắc xảo trong nhận thức của con người.
Cũng từ giây phút ấy - giây phút xuất hiện của một nhân vị, một con
người có trái tim thổn thức, xao xuyến để say mê, ngưỡng mộ thánh đức và lòng
tốt của Thiên Chúa - thì công trình sáng tạo của Người mới thực sự có sinh khí,
vừa nhờ hít thở luồng gió trời lồng lộng và ngụp lặn trong dòng nước bao la,
vừa nhờ hấp thụ hơi thở ấm áp tình người.
Để công trình sáng tao Thiên Chúa thực hiện vì con người và cho con
người thực sự sống động và ý nghĩa, không thể thiếu dung mạo con người và cái
thần hồn của con người. Dung mạo là khả năng thưởng lãm - trí tuệ - và thần hồn
là khả năng ngưỡng mộ - tình thương - Thiên Chúa ban cho con người.
Gia đình, xét thật kỹ lưỡng mọi mặt và mọi điều kiện, đúng là chiếc nôi
tự nhiên, thích hợp và xứng đáng hơn hết để
đón nhận con người như món quà tình thương vô giá Thiên Chúa ban cho
loài người.
Tự nhiên bởi vì trước khi xuất hiện những hình thức cộng đoàn và cấu
trúc xã hội thiết định khác, thì gia đình là cộng đoàn nguyên thủy do Thiên
Chúa xây dựng thành nơi chung sống của các nhân vị trên nền tảng tình thương
hồn nhiên, hoàn toàn tự do, tự nguyện giữa người nam và người nữ,[10] nhìn
nhận nhau trong niềm vui mừng, hạnh
phúc, và tri ân như là xương là thịt[11] - nghĩa
là thành phần thiết thân, sinh tử, không thể thiếu, không thể phân ly - của
nhau.
Thích hợp bởi vì gia đình tự bản chất là cộng đoàn phát sinh từ tình
thương, trước hết là của Thiên Chúa Tạo Hóa,
kế đến là của đôi vợ chồng, tác nhân hiện thực xây nên gia đình. Gia đình được
xây trên nền tảng tình thương phu phụ người chồng và người vợ trao cho nhau, và
có mục đích phát triển tình thương ấy nơi con cái của họ.[12]
Xứng đáng bởi vì không thể tìm đâu ra một môi trường
tự nhiên, cao quý, thánh thiêng như chính khung cảnh gia đình để Tình Thương
Thiên Chúa bắt đầu công cuộc Nhập Thể, nghĩa là trở thành Tình Thương của Con
Người.
Bởi vì chính Con Thiên Chúa khi nhập thể, một cách nào đó, đã kết hợp với tất cả mọi người. Người đã làm việc với bàn tay con người, đã
suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu mến
bằng quả tim con người. Sinh bởi Trinh Nữ Ma-ri-a, Người đã thực sự trở nên một người giữa chúng ta,
giống như chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi.[13]
Làm sao có thể ký gởi món quà tình thương của Thiên Chúa vào một môi trường nào khác ngoài cái nôi gia đình - nơi duy nhứt
tình thương luôn được ân cần, vui vẻ chào đón với lòng yêu mến, tri ân và tinh
thần trách nhiệm sáng suốt - nhờ đó sẽ triển nở quân bình, trọn vẹn, và giữ
nguyên mọi đặc trưng và bản chất của tình người?
Chính vì lý do này, Tình Thương Thiên Chúa, khi bắt đầu tiến trình trở
thành tình thương con người, đã quyết định chọn một chiếc nôi trong một mái ấm
gia đình làm nơi ký thác hoàn toàn đáng tín nhiệm:
Chúa Giê-su sinh ra và sống trong một gia đình cụ thể, chấp nhận tất cả
mọi sắc thái đặc trưng của gia đình, và Người đã sắc phong cho định chế hôn
nhân một phẩm vị cao quý nhứt, thiết lập ơn gọi nầy thành một bí tích của giao
ước mới.[14]
Chiếc Nôi Nuôi Dưỡng Tình Thương
Nói đến việc nuôi dưỡng một con người là phải nghĩ ngay đến dòng sữa mẹ
ngọt ngào, giàu chất sống tự nhiên vô cùng thích hợp và thiết yếu cho tiến
trình phát triển của đứa trẻ. Mọi hình thức cung cấp chất dinh dưỡng nhân tạo
cho con người - cả thực phẩm lẫn dược phẩm - không được phép vượt quá giới hạn
của một yếu tố bổ trợ và tăng cường. Tham vọng - thường không mấy trong sáng - muốn thay thế sữa mẹ
bằng những nguồn dinh dưỡng nhân tạo khác đã gây ra - không kể bao tổn hại cho
sức khỏe thể lý và tâm lý của con người - đã thô bạo cướp đi quyền linh thiêng
của bà mẹ được cho con mình bú mớm, và quyền linh thiêng không kém của đứa trẻ
phải được nuôi dưỡng bằng thứ thực phẩm thiên nhiên đặc chế cho con người.
Thật vậy, con người có phẩm giá vượt trên muôn vật muôn loài - nhân ư vạn vật chi linh - trong mọi phương diện. Tuy
cùng có nhu cầu đói ăn khát uống như mọi loài động vật khác, nhưng ăn gì và
uống gì, ăn uống ở đâu, lúc nào, bằng dụng cụ gì, với ai, và đặc biệt với phong
thái ra sao, lại là những bận tâm của riêng con người, để giữ cho việc ăn uống
có nét văn hóa: “ăn để sống, không sống để ăn.” Việc nuôi con bằng sữa mẹ thực
sự đã trở thành nét nhân văn đặc trưng của nhân loại. Hình tượng mẹ bồng con,
cho con bú mớm, ru con ngủ, đã in đậm trong tâm hồn con người, đã nở hoa tươi
thắm muôn sắc muôn hương trong văn chương, nghệ thuật.
Nói như vậy có nghĩa là việc dưỡng
nuôi con người không chỉ thuần túy lo cho
ăn cho uống thực phẩm
bồi bổ thể xác, nhưng còn là cả một công trình nuôi nấng tiềm năng trở nên một
con người toàn diện của đứa trẻ. Như một con người có đầy đủ nhân vị, nhân
phẩm, và nhân quyền, đứa trẻ phải được
nuôi dưỡng về đời sống tình cảm, tri thức, và tâm linh.
Ngay lúc còn là bào thai trong lòng mẹ, đứa trẻ đã được tiếp xúc với
tình thương con người qua tình thương của mẹ, qua thái cử khẽ khàng, cẩn trọng,
qua lựa chọn kỹ lưỡng, chuẩn mực từng miếng ăn, từng viên thuốc, tránh mọi xung
động nguy hại cho con. Những năm tháng đầu đời, đứa trẻ được cảm nghiệm đôi tay
dịu dàng, âu yếm, ấm áp tình mẫu tử của mẹ, khi cho con bú mớm, khi nựng nịu,
vui đùa với con, khi thay tã lót, tắm rửa cho con, nhứt là khi ôm ghì con sát
vào trái tim mẹ mà trấn an, dỗ dành: “Con của mẹ ơi! Có mẹ đây rồi, đừng sợ!”[15]
Vai trò của cha chẳng những không bị loại trừ mà còn được tô đậm khi
bóng dáng của mẹ được đề cao trong việc nuôi dưỡng con cái. Với khối óc tinh
tường, ý chí sắt đá, và đôi tay cần mẫn, người cha âm thầm và kiên trì đổ mồ
hôi, đôi khi có cả nước mắt và máu, để cung cấp miếng cơm lành và manh áo sạch
cho cả gia đình. Đứa trẻ lớn lên từng ngày nhờ được nuôi bằng sữa mẹ, cơm cha,
nghĩa là nhờ thứ thực phẩm đậm đà chất dinh dưỡng tình thương con người. Lời lẽ
ôn tồn, cương nghị của cha bổ sung cho lời êm ái, mềm mỏng của mẹ. Cung cách
cảm tính thiên về trái tim của mẹ được hòa hợp với tinh thần biện luận và nguyên tắc dựa vào lý trí của cha.
Hình tượng dịu hiền của mẹ làm phong phú đòi sống tình cảm của con
người, trong khi dáng vẻ uy nghi của cha kích thích quyết tâm dấn thân vào lãnh
vực học thuật, nghiên cứu, khám phá.
Ngoài cơm ăn, nước uống, con người cần phải có khí trời để sống, mà tối
quan trọng là bầu khí của gia đình. Chiếc nôi nuôi dưỡng tình thương con người
cần được bao trùm tinh thần tin kính và yêu mến Thiên Chúa, Cội Nguồn mọi điều
chân thật, tốt lành và xinh đẹp, qua lời nói và gương sáng của cha mẹ. Tuy
nhiên, chất liệu căn bản cho món ăn tinh thần của con người, món ăn giúp con
người lớn lên và phát triển quân bình, toàn diện, chính là Lời Thiên Chúa: “Con
người không chỉ sống nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ từng Lời từ miệng Thiên Chúa
phán dạy.”[16] Nhờ có Lời Chúa nuôi dưỡng, con người biết
yêu mến Thiên Chúa bằng tình thương con người, và yêu mến con người bằng Tình
Thương Thiên Chúa.[17]
Tình Thương Thiên Chúa là cái hồn, cái thần của tình thương con người. Tình
thương con người cung cấp cho Tình Thương Thiên Chúa một thân thể, một dung mạo
để hiện diện trong cuộc đời.[18]
Chiếc Nôi Dạy Dỗ Tình Thương
Con người có biết bao nhiêu điều phải học, từ khi vừa chào đời cho tới
lúc, có lẽ, xuôi tay nhắm mắt.
Nhưng con người phải học những gì? Thiết nghĩ, thứ tự ưu tiên những gì
con người phải học nên thiết lập theo tiêu chuẩn quan trọng và mức độ khó quán
triệt của bộ môn.
Thử hỏi đối với con người, còn điều gì quan trọng hơn việc học làm người? Có kiến thức rộng, có kinh
nghiệm sâu, có địa vị, quyền lực cao ngất ngưởng, nhưng không có nhân bản,
không có đạo đức của một con người, không biết hành xử như một con người, thì
đó sẽ là giống loại gì nếu không phải là một quái thú, là cả một thảm họa cho
loài người?
Cổ nhân dạy rằng “vi nhân nan - làm người thật
khó.” Quả đúng là môn học làm người không thể trao cho ai có tư cách và khả
năng hơn ngoài cha mẹ, và cũng không thể thực hiện dạy và học ở bất kỳ trường lớp
nào thích hợp và hiệu quả hơn ngoài môi trường gia đình.
Cha mẹ là thầy dạy làm người, dầu có thể không qua chương trình học tập hàn lâm,
nhưng đều đã được tốt nghiệp ưu hạng,
trải qua đào tạo tự nhiên và huấn nghiệp thực tế tại hiện trường một gia
đình hiện hữu cụ thể trong một thời gian và không gian nhứt định, sống động,
nhân bản, và đời thường.
Trong trọn gói giáo trình học làm người, bài học yêu thương cần được xếp
hệ số cao nhứt. Lý lẽ chống đỡ cho xác tín nầy là câu hỏi: “điều gì làm cho một
con người trở nên người hơn?” Hẳn không phải là nhờ sở hữu vô số tài sản vật chất
hoặc tinh thần, hay là chiếm giữ quyền lực không giới hạn, bởi lẽ tất cả những
giá trị nầy đều vừa tàng chứa nguy cơ làm tha hóa kẻ nào nắm giữ chúng, vừa
mang tính bất tất, nay còn mai mất.
Xã hội dẫy đầy bằng chứng xác thực về tình trạng con người bị quyền lực
biến dạng thành quái thú, ác quỷ, tàn hại đồng loại, chà đạp nhân phẩm của người
khác và của chính mình. Những chế độ hôn quân bạo chúa, những kẻ nắm quyền lực
- cả chính trị lẫn tôn giáo - vô nhân, vô lương, vô đạo, nhan nhãn trên đời, hôm
qua cũng như hôm nay là những hậu quả của tham quyền, dẫn đến lạm quyền, và lộng
quyền.
Có quyền lực lập tức cũng có tiền của, hay ngược lại, “có tiền mua tiên
cũng được.” Để thỏa mãn túi tham không đáy, con người sẵn sàng bán rẻ nhân
nghĩa, thậm chí đánh đổi cả phẩm giá và niềm tin của mình.
Chỉ khi nào biết học hỏi để quán triệt ý nghĩa chân chính của tình
thương và nắm vững phương cách thực hiện, ứng
dụng tình thương đích thực ấy vào những trường hợp cụ thể và con người cụ
thể, thì con người mới có thể sống đúng và trọn vẹn nhân phẩm của mình.
Được trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô”[19] mãi là lý tưởng cao quý nhứt cho người Ki-tô hữu bằng mọi giá, sống hay
chết, phải đạt tới. Lý tưởng đó được Thánh Phao-lô diễn tả: “đồng hình đồng dạng
với Người trong cái chết của Người.”[20]
Đó là cái chết của một Đấng quá yêu thương bằng hữu.[21]
Chúa Ki-tô là hình ảnh nguyên tuyền của Thiên Chúa Tình Thương[22]
và là Mô Hình hoàn hảo của Con Người trong tư cách là Thụ Tạo Mới.
Gia đình là ngôi trường dạy con người thực hành một tình thương nhân bản
xây nền trên Tình Thương Thiên Chúa trong Chúa Ki-tô.
Chiếc Nôi Trao Tặng Tình Thương
Là chiếc nôi đón nhận và nuôi dưỡng tình thương, gia đình cũng đồng thời
là trung tâm chia sẻ tình thương cho đồng loại, nhờ các thành viên - vợ chồng,
cha mẹ, con cái - vẫn thường xuyên và hết sức tự nhiên sống với nhau tinh thần
hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Đời sống hiệp thông theo Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba
Ngôi có đặc trưng là nếp sống “hiệp nhứt trong đa dạng.” Theo kinh nghiệm ngàn
đời, đoàn kết hiệp nhứt tạo nên sức mạnh, trong khi chia rẽ phân hóa dẫn đến
suy vong.
Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Các bậc triết gia Đông, Tây xưa nay giảng dạy và cổ động cho công cuộc
xây dựng một nhân loại đoàn kết thống nhứt như anh chị em một nhà: “Tứ hải giai
huynh đệ - bốn biển đều là anh em.”
Chủ nghĩa Cộng Sản trong gần một thế kỷ qua không ngừng tuyên truyền, hành động bằng mọi biện pháp, kể cả bằng cách mạng
bạo lực, để biến thế giới thành một xã hội vô sản, không còn giai cấp, không
còn tư hữu, không còn ranh giới quốc gia, chủng tộc.
Ki-tô Giáo ngay từ buổi đầu thành lập chủ trương mọi người sống đồng tâm
nhứt trí, góp tài sản lại thành sở hữu của cộng đoàn, phân phối cho mọi người
tùy nhu cầu, không để ai chịu cảnh túng thiếu.[23]
Việc xây dựng một nhân loại hiệp nhứt, sống
đoàn kết, yêu thương, không còn chia rẽ, thù hận, chiến tranh, luôn luôn
là một ước vọng mãnh liệt của con người.
Nhưng một câu hỏi quan trọng được nêu lên: đâu là mô hình thích hợp cho
công cuộc hiệp nhứt nhân loại?
Tựu trung có 3 mô hình hiệp nhứt như sau:
1/ Hiệp Nhứt trong Đồng Phục:
Mô hình nầy chỉ chú trọng hình thức bên ngoài sao cho giống nhau như các
học sinh, các công nhân hay quân nhân trong
bộ đồng phục cùng màu, cùng kiểu, còn những khác biệt bên trong phải che
đậy cho khuất mắt.
Kiểu hiệp nhứt này dễ thực hiện, nhưng vừa hời hợt, vừa giả tạo, nên
không bền vững.
2/ Hiệp Nhứt trong Đồng Bộ:
Mô hình nầy tiến xa và sâu hơn: tất cả mọi người đều phải suy nghị, ăn
nói và hành động theo một biểu mẫu được thiết kế, định hướng sẵn. Có những biện
pháp từ tuyên truyền,tẩy não, mua chuộc, cho đến hình phạt, bạo lực, đàn áp,
dẹp bỏ, dập tắt mọi hình thức phản biện, chống đối.
Kiểu hiệp nhứt nầy phù hợp với các băng đảng tội
ác, đặc biệt dưới các chế độ độc tài toàn trị. Con người bị biến dạng thành
những đồ vật được sản xuất hàng loạt cùng mẫu mã, cùng công dụng phục vụ cho
một ý đồ xấu ác.
3/ Hiệp Nhứt trong Đa Dạng:
Mô hình nầy chỉ nhấn mạnh tinh thần đồng thuận, thống nhứt hành động
trên một nguyên tắc, quy luật quan trọng, trong khi tôn trọng và khuyến khích
các hình thức diễn đạt, các phương án thực hiện, các phương tiện hoạt động khác
biệt nhau, miễn là không mâu thuẫn, chống phá nhau, và không gây thiệt hại cho
công ích.
Đây là mô hình học hỏi từ Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Chỉ có Một Thiên
Chúa Duy Nhứt, nhưng lại có Ba Ngôi Vị riêng biệt, Ngôi Chúa Cha, Ngôi Chúa
Con, và Ngôi Chúa Thánh Thần.
Ba Ngôi có 3 trọng trách khác biệt nhau: Chúa Cha - Đấng Sáng Tạo,
Chúa Con - Đấng Cứu Nhân Độ Thế, Chúa
Thánh Thần - Đấng Thánh Hóa. Ba Ngôi uy quyền ngang nhau, nhưng không
xâm phạm nhau, không chống phá nhau, trái lại luôn đồng tâm nhứt trí, luôn có
mặt cùng nhau, cùng cộng tác với nhau một cách thân thiết, hòa điệu, nhịp
nhàng, để cùng nhau thực hiện một công cuộc chung.
Quan sát vũ trụ vạn vật, có thể nhận ra mô hình “hiệp nhứt trong đa dạng.”
Thiên Chúa sáng tạo một thế giới muôn màu muôn vẻ, nhiều hình dáng, kích cỡ
khác nhau, có những nhu cầu khác nhau, nhưng tất cả đều nghiêm chỉnh tuân theo
quy luật chung, nhứt quán của thiên nhiên do Thiên Chúa thiết lập, nhờ đó muôn
loài muôn vật cùng chung sống và phát triển hài hòa, cộng tác với nhau, bổ túc
cho nhau.[24]
Loài người đặc biệt được Thiên Chúa sáng tạo giống hình ảnh của Chúa, có
trí khôn, có tự do, có lương tâm, nhứt là có khả năng thương yêu, như Thiên
Chúa là Tình Yêu. Con người được Thiên Chúa ban cho có hai giới tính nam và nữ,
có nhiều tính tình, thiên hướng, tài năng, ngôn ngữ, màu da, phong tục, văn
hóa, lối sinh sống khác nhau, nhưng tất cả cùng có chung một nhân vị, cùng được
tôn trọng như một con người, có phẩm giá, có quyền lợi và nghĩa vụ của con người
như nhau. Một khi nhìn nhận Thiên Chúa là Hiền Phụ, và tất cả mọi người là anh
chị em, thì công cuộc quy tụ nhân loại biết dẹp bỏ mọi bất đồng, chia rẽ mà họp
thành một gia đình theo mô hình “hiệp nhứt trong đa dạng” là điều hoàn toàn khả
thi.[25]
Thánh Phao-lô đưa ra cho Hội Thánh mô hình hiệp nhứt trong đa dạng như
một cơ thể con người.[26]
Chỉ có một cơ thể, nhưng có nhiều chi thể, hình dáng, bản chất, chức năng, nhu
cầu hoàn toàn khác nhau. Tuy nhiên tất cả các chi thể hoạt động nhịp nhàng phối
hợp nhau phục vụ công ích của cùng một cơ thể.
Tinh thần hiệp thông của dời sống gia đình khuyến
khích con người dấn thân cho công ích của gia đình lớn hơn, tức là xã hội, là
quê hương đất nước, là cả nhân loại thân yêu. Tinh thần hiệp thông chính là
giải pháp cho tính ích kỷ và mọi hình thức biểu lộ của chủ nghĩa cá nhân, kỳ
thị chủng tộc hoặc tôn giáo, phe nhóm lợi ích… rất nguy hại, đe dọa cho hòa
bình và an sinh của toàn thể loài người.[27]
Môi trường sinh động và bền vững để nuôi dưỡng, giáo dục, và giúp con
người sống tinh thần hiệp thông, dấn thân cho công ích chính là gia đình.
Gia đình hiện diện như một nơi phát sinh ra đời sống
hiệp thông. Đời sống hiệp thông nầy là thành tố vô cùng thiết yếu cho một xã
hội ngày càng nhiễm nặng chất cá nhân chủ nghĩa. Gia đình là địa điểm thích hợp
cho một cộng đồng đúng nghĩa của các nhân vị được phát triển và tăng trưởng,
nhờ có tính năng động vô tận của tình thương, vốn là chiều kích nền tảng của
kinh nghiệm làm người. Gia đình cũng chính là mội trường ưu đãi giúp cho mọi
người nhận ra tính năng động của tình thương.[28]
Nỗi Lo Âu Của Vị Thánh Giáo Hoàng
Vai trò của gia đình như một chiếc nôi đón nhận, nuôi dưỡng, giáo dục và
chia sẻ tình thương con người đang chịu sức công phá càng lúc càng ác liệt của
rất nhiều khuynh hướng bất lợi, trong lãnh vực xã hội, kinh tế, lẫn chính trị.
Một xã hội dần dần được thiết kế theo mô hình “tập
thể của các cá nhân tự lập và cô lập, vô danh, không mặt mũi.” Các hội đoàn,
các tổ chức quy tụ con người lại với nhau như các câu lạc bộ, đáp ứng nhu cầu
nào đó của thành viên, hoạt động theo nguyên tắc “tiền trao cháo múc”. Hệ thống
điện toán, mạng thông tin điện tử, mã hóa dữ kiện, kỹ thuật số, giúp cho mọi
giao dịch thuận lợi, nhanh chóng, bảo mật. Con người được nhận dạng, kiểm soát,
xác minh, không còn như là một nhân vị mà chỉ còn là một con số, một mật mã.
Gia đình thôi không còn là một cộng đồng tự nhiên của các nhân vị, mà chỉ còn
là cuốn sổ đỏ, là số tài khoản, nghĩa cũng thôi không còn là chiếc nôi đón
nhận, dưỡng nuôi, giáo dục và chia sẻ tình thương con người, không còn là tế
bào sống còn của xã hội.
Một chính sách kinh tế lấy lợi nhuận và thành tựu
vật chất làm cứu cánh sẽ không cho con người bao nhiêu cơ may để lao động sản
xuất như một nhân vị, có quyền tham gia vào kế hoặch phát triển, có quyền thụ
hưởng thành quả lao động của mình. Tóm lại, trong quan niệm kinh tế phi nhân
như trên, không có chỗ cho người lao động liên kết, tương thân tương trợ nhau,
và cũng không có chỗ cho các thành viên gia đình họ được hưởng những trợ cấp
cần thiết và xứng đáng. Ngược lại, nhu cầu cạnh tranh gay gắt trong việc tìm
kiếm công ăn việc làm sẽ ảnh hưởng xấu đến nghĩa vụ xây dựng và chăm sóc gia
đình.
Một nền chính trị thu tóm quyền lực trong tay một
phe nhóm cướp đi quyền tham gia của cá nhân công dân vào những vấn đề sống còn
của đất nước, trong đó có việc xây dựng một chế độ dân chủ, tự do, tôn trọng
nhân phẩm, nhân quyền - đặc biệt quyền tự trị tự quyết
thiêng liêng của gia đình - dẫn tới các thủ
đoạn triệt tiêu mọi giá trị đạo đức nhân bản và tâm linh của dân tộc. Trong một
chế độ độc tài toàn trị, mô hình gia đình như cộng đoàn tự nhiên của các nhân
vị trở thành đối tượng nguy hiểm phải bị tiêu hủy hoặc chí ít vô hiệu hóa.
Tình trạng ly hôn, sống chung không hôn thú, hôn nhân đồng tính liên kết
với phá thai, thụ thai nhân tạo, mang thai thuê, can thiệp vào gien di truyền
là những tác nhân mới làm lung lay ý nghĩa và cấu trúc truyền thống của định
chế hôn nhân và đời sống gia đình.
Hậu quả khôn lường của tình trạng con người không còn một mái ấm gia đình tự nhiên như chiếc nôi thân thương để đón nhận,
dưỡng dục và chia sẻ ơn gọi làm người được Đức Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô
II nêu ra như sau:
Gia đình là một con đường chung cho tất cả mọi người, song lại là một
con đường đặc biệt, độc nhứt vô nhị và bất khả tái lập, cũng giống như mỗi cá
thể con người là bất khả tái lập, một con đường không ai có thể xa tránh. Thật
vậy, thông thường, một con người bước vào thế giới nầy trong khung cảnh một gia
đình, và có thể nói là người ấy phải chịu ơn gia đình do sự thể y được hiện hữu
như là một cá nhân. Khi không có một mái
gia đình, con người bước vào thế giới nầy sẽ tiếp tục ôm ấp tâm trạng khắc
khoải vì đau đớn và mất mát khôn nguôi, một tâm trang sẽ mãi đè nặng trên y
suốt đời.[29]
Thay kết luận
Thay cho kết luận, chúng tôi xin trích lại
nơi đây lời giáo huấn của Đức thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II:
Trong ý định của Thiên Chúa Sáng Tạo và Cứu Chuộc, không những gia đình
khám phá ra "căn tính" của nó, cái nó "là", mà còn khám phá
ra "sứ mạng" của nó, cái nó có thể và phải "làm". Những bổn
phận mà gia đình được Thiên Chúa mời gọi phải chu toàn trong lịch sử đều bắt
nguồn từ hữu thể độc đáo của nó, và là cách diễn tả sự phát triển năng động và
hiện sinh của nó. Mỗi gia đình khám phá và gặp được nơi chính mình lời mời gọi
cấp bách ấy, cũng chính là lời mời gọi xác định đâu là phẩm giá và trách nhiệm
của gia đình: Hỡi gia đình, "hãy trở nên" cái mà ngươi
"là".
… theo ý định của Thiên Chúa, gia đình kết thành "cộng đoàn thân
mật của sự sống và tình yêu", nên gia đình có sứ mạng phải mỗi lúc một trở
nên cái nó là, nghĩa là một cộng đoàn của sự sống và tình yêu đang vươn lên và
sẽ hoàn tất trong Nước Thiên Chúa - như mọi thực tại được sáng tạo và cứu
chuộc. Khi trở về với nguồn gốc của thực tại như thế, ta phải nhìn nhận rằng
yếu tính của gia đình và các bổn phận của nó dứt khoát phải được xác định bằng
tình yêu. Vì thế gia đình lãnh nhận trách nhiệm phải giữ gìn mặc khải và thông
truyền tình yêu, là phản ảnh sống động và dự phần thực sự vào tình yêu của
Thiên Chúa đối với nhân loại, vào tình yêu của Đức Ki-tô là Chúa đối với hiền
thê Người là Hội Thánh. [30]
[3] Xc St 2:7.
[4] Xc 1 Ga 4:16.
[5] Xc St 1:27.
[6] Xc St 1:3-25; Tv 104:1-35.
[7] St 1:26.
[8] St 1:31.
[9] Tv 8:4-10.
[10] Xc St 1:27.
[11] Xc St 2:23.
[12] Xc St 1:28
[15] Xc Ga 6:20.
[17] Xc Ga
13:34; Mt 22:37-39.
[18] Xc Gc
2:14-17.
[19] Xc Rm
8:29.
[20] Pl
3:10.
[21] Xc Ga
15:13; Gl 2:20.
[22] Xc 1
Ga 4:16; Cl 1:15.
[23] Xc Cv
2:44-45.
[24] Xc St 1:3-25; Tv 104:1-35
[25]Xc Is 2:2-4.
[26] Xc 1 Cr 12:12-30.
Đăng nhận xét