Gia đình, cộng đoàn yêu thương và nhân vị

 (Trích thư của Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II
gởi cho các gia đình, đăng lỳ II).
[1]
Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II
   
  Các gia đình thân mến !     
13. Vấn đề làm cha làm mẹ có trách nhiệm được ghi sẵn trong toàn bộ vấn đề "văn minh tình thương" mà bây giờ tôi muốn nói với các bạn. Từ những điều đã nói trên đây, rõ ràng kết quả là gia đình ở nền tảng của điều mà Ðức Phaolô VI gọi là "văn minh tình thương", một thành ngữ từ đó đã đi vào giáo huấn của Giáo hội và đã trở nên quen thuộc. Ngày nay khó mà gợi lên sự can thiệp của Giáo hội, hay trên Giáo hội, mà không nhắc tới văn minh tình thương, thành ngữ ấy liên kết với truyền thống "Giáo hội tại gia" trong Kitô giáo thời sơ khai, nhưng cũng đích thực tương quan với thời đại hiện nay. Theo nguyên tự, từ "văn minh" (civilisatio) do từ "công dân" (civis) và nhấn mạnh chiều kích chính trị của mọi cuộc đời cá nhân. Ý nghĩa sâu xa của civilisatio không chỉ có tính chính trị mà nó còn có nghĩa "nhân bản". Văn minh thuộc về lịch sử con người, vì nó tương ứng cùng những nhu cầu thiêng liêng và luân lý, được dựng nên theo hình ảnh giống như Thiên Chúa, con người nhận thế giới từ tay Ðấng Tạo Hoá với sứ mệnh khuôn đúc thế giới theo hình ảnh giống như mình. Sự hoàn thành nhiệm vụ này làm phát sinh sự "văn minh", nó cũng chính là "nhân bản hoá thế giới"...
Theo ánh sáng các bản văn Tân Ước và nhiều bản văn khác, có thể hiểu điều mà ta hiểu là "Văn minh tình thương" và hiểu tại sao gia đình được gắn một cách hữu cơ vào văn minh này. Nếu "con đường của Giáo hội", trước tiên là gia đình, thì phải nói thêm rằng văn minh tình thương cũng là "con đường của Giáo hội" đang tiến bước trên thế giới và kêu gọi các gia đình và mọi định chế xã hội, quốc gia và quốc tế, đi vào con đường này, chính xác cho các gia đình và qua các gia đình. Quả vậy gia đình tuỳ thuộc, vì nhiều lý do, vào văn minh tình thương, trong đó gia đình gặp được lẽ sống của hiện hữu như là gia đình. Ðồng thời gia đình là trung tâm, là trái tim của văn minh tình thương.
Tuy nhiên không có tình yêu chân thực mà không ý thức rằng "Thiên Chúa là Tình yêu", và con người là tạo vật duy nhất trên địa cầu, được Thiên Chúa gọi vào hiện hữu "cho chính con người". Ðược tạo dựng theo hình ảnh giống như Thiên Chúa, con người chỉ có thể "gặp được mình" cách đầy đủ bằng trao ban vô vị lợi chính mình. Không quan niệm như thế về con người, về nhân vị và "sự hiệp thông các nhân vị" ở trong gia đình, thì không thể có văn minh tình thương: đối lại, không có văn minh tình thương, quan niệm ấy về nhân vị và hiệp thông các nhân vị cũng không thể có. Gia đình tạo lập "tế bào" căn bản của xã hội. Nhưng người ta cần có Chúa Kitô – là "cây nho" mà "các ngành" nhận được nhựa sống – để cho tế-bào ấy khỏi bị đe doạ từ một thứ bật rễ văn hoá có thể xảy ra từ trong cũng như từ ngoài. Quả vậy nếu có một "văn minh tình thương" mặt này, thì mặt kia cũng có thể có "phản-văn-minh" nó có tính phá hoại, như biết bao khuynh hướng và tình cảnh thực sự ngày nay đang chứng tỏ.
Ai có thể phủ định rằng thời đại chúng ta là thời đại khủng hoảng nghiêm trọng được biểu hiện trước tiên dưới dạng "khủng hoảng chân lý" thật sâu xa? Khủng hoảng chân lý, có nghĩa là khủng hoảng về các khái niệm. Các từ "yêu thương", "tự do", "trao ban vô vị lợi" và cả những từ "nhân vị", ‘quyền con người", có còn diễn tả đúng điều mà tự nhiên chúng chỉ nghĩa chăng? Vì thế mà thông điệp về "vẻ huy hoàng chân lý" (Splendor veritatis) đã tỏ ra nhiều ý nghĩa và quan trọng đối với Giáo hội và thế giới, nhất là ở tây phương chỉ khi chân lý về tự do và hiệp thông những con người trong hôn nhân và gia đình gặp được ánh huy hoàng của mình, thì mới thực sự tiến triển việc xây dựng văn minh tình thương và người ta mới nói cách xây dựng – như công đồng đã làm – "việc làm cho giá trị phẩm giá hôn nhân và gia đình”.
Tại sao "vẻ huy hoàng của chân lý" lại quan trọng? Trước hết nó quan trọng vì tính cách khác biệt: sự phát triển văn minh hiện đại gắn liền với tiến bộ khoa học và kỹ thuật, được thực hiện một cách thường là đơn phương, do đó trình bày những đặc tính thuần tuý duy nghiệm. Chủ nghĩa duy nghiệm, như ta đã biết, nó sinh ra thuyết bất khả tri trong những lãnh vực lý thuyết và thuyết duy ích trong những lãnh vực luân lý và thực tiễn. Ở thời đại ta, một nghĩa nào đó, lịch sử được lập lại. Thuyết duy ích là một văn minh của sản xuất và hưởng thụ, một văn minh của "các sự vật" chứ không của "những con người", một văn minh trong đó, con người được sử dụng như người ta dùng sự vật. Trong khung văn minh hưởng thụ, người phụ nữ có thể nên một đồ vật cho đàn ông; con cái nên những vướng vít cho cha mẹ; gia đình nên một định chế phiền hà cho tự do các thành viên tạo nên gia đình. Để chắc như thế chỉ cần xét đến một số chương giáo dục giới tính, được đưa vào các trường học, mặc dầu ý kiến ngược lại và mặc dầu những phản đối của nhiều bậc cha mẹ, hoặc là những khuynh hướng ủng hộ phá thai chúng tìm cách ẩn sau cái gọi là "quyền chọn lựa" (pro choice) về phía vợ chồng, và đặc biệt về phía người vợ. Ðó chỉ là hai ví dụ trong nhiều ví dụ có thể kể ra.
Trong tình huống văn hoá ấy, rõ ràng là gia đình có thể cảm thấy mình bị đe doạ, vì nó bị tấn công tự nền. Tất cả những gì ngược với văn minh tình thương, đều nghịch với chân lý toàn vẹn về con người, và như vậy là trở nên đe doạ con người: điều ấy không cho họ tìm được chính mình và cảm thấy được an toàn như chồng vợ, như cha mẹ, như con cái. Cái gọi là "tính dục trong an toàn" được nền "văn minh kỹ thuật" phổ biến, thật ra, theo quan điểm những gì thiết yếu cho con người, cũng không triệt để an toàn, mà có khi còn nguy hiểm trầm trọng. Quả vậy ở đây con người thấy mình bị nguy hiểm, cũng như đến lượt gia đình bị nguy hiểm. Nguy hiểm ấy như thế nào? Ðó là đánh mất sự thật về gia đình, thêm vào lại có nguy hiểm đánh mất tự do, và do đó, mất chính tình yêu. Chúa Giêsu nói: "các ông sẽ biết chân lý và chân lý sẽ giải phóng các ông" (Ga 8, 32): chân lý, chân lý mới chuẩn bị các bạn vào tình yêu mà người ta có thể bảo là "đẹp".
Gia đình thời nay cũng như gia đình muôn thuở, vẫn đi tìm "tình yêu xinh đẹp". Một tình yêu mà không "đẹp", tức là chỉ hạn chế ở thoả mãn dục vọng (Ga 2, 16) hay "xử dụng" lẫn nhau giữa nam nữ, làm cho nhân vị thành nô lệ những yếu đuối của họ. Thời ta đây, một số "chương trình văn hoá" đã chẳng đưa tới sự nô lệ đó sao? Ðó là những chương trình "diễn chơi" trên những yếu đuối của con người, làm con người suy yếu thêm và không ai bảo vệ.
Văn minh tình thương mời gọi tới niềm vui, hơn tất cả, niềm vui là "một người đã sinh vào đời (x. Ga 16, 21) và do đó đối với đôi bạn, là niềm vui trở nên cha mẹ, văn minh tình thương có nghĩa là "đặt niềm vui trong sự thật" (coi 1 Cr 13, 6). Nhưng một văn minh cảm hứng bởi não trạng tiêu thụ và chống_sinh sản, không là và không thể là văn minh tình thương bao giờ. Nếu gia đình rất là quan trọng cho văn minh tình thương, vì trong gia đình được tạo nên những liên hệ thân thiết và mạnh mẽ giữa những con người và những thế hệ. Nhưng gia đình vẫn dễ bị thương và dễ trúng thương, do những cái có nguy cơ làm suy yếu, hoặc cả đến phá hoại tính hiệp nhất và bền vững của gia đình. vì những ghềnh rạn ấy, các gia đình không làm chứng cho văn minh tình thương, mà còn có thể nên việc phủ nhận văn minh tình thương, do phản chứng mà ra. Một gia đình rạn nứt lại có thể củng cố một dạng riêng của "phản văn minh" vì phá huỷ tình yêu trong nhiều lãnh vực trong đó tình thương được diễn tả, với nhiều cộng hưởng không thể tránh, trên toàn bộ đời sống xã hội.
14. (...) Suy gẫm chương 13, thư thứ nhất Thánh Phaolô gởi cho tín hữu Côrintô, ta đi vào con đường dẫn ta hiểu, cách trực tiếp nhất và xuyên thấu nhất, ý nghĩa chân thực của văn minh tình thương. Không có bản văn vào trong Thánh Kinh, khác với ca vịnh đức ái, diễn tả sự thật này một cách đơn sơ mà sâu sắc hơn.
Những nguy hiểm lây nhiễm tình yêu, cũng tạo nên một đe doạ cho nền văn minh tình thương, vì chúng giúp cho những điều đối nghịch thực sự với văn minh ấy. Ở đây tôi nghĩ trước tiên đến tính ích kỷ, không những ích kỷ của cá nhân, mà còn ích kỷ của đôi lứa, và trong khung rộng hơn, ích kỷ của xã hội, chẳng hạn ích kỷ của một giai cấp, hay của quốc gia (chủ nghĩa quốc gia). Tính ích kỷ, dưới mọi hình thức, đều đối lập trực tiếp và triệt để, chống văn minh tình thương. Ðiều ấy có phải là có nghĩa rằng tình yêu duy được định nghĩa là "chống ích kỷ" chăng? Ðịnh nghĩa như thế là quá nghèo nàn, và xét cho cùng là quá tiêu cực, cho dù quả thực, để hiện thực tình yêu và văn minh tình thương, phải vượt thắng mọi dạng ích kỷ. Bảo "vị tha" là đối đề với "ích kỷ" thật là đúng. Nhưng quan niệm về tình yêu, được thánh Phaolô khai triển, còn phong phú hơn và đầy đủ hơn. Ca vịnh đức ái trong thư thứ nhất gửi tín hữu Corintô, vẫn còn như magna charta (hiến chương lớn) của văn minh tình thương. Nó ít bàn những biểu hiện riêng rẽ (về ích kỷ hay về vị tha) hơn là thẳng thắn chấp nhận quan niệm về con người như một nhân vị "đã gặp được mình" qua việc trao ban mình vô vị lợi. Trao ban, rõ ràng là "cho những người khác": đó là chiều kích quan trọng nhất của văn minh tình thương.
Chúng ta tới trọng tâm của chân lý Tin mừng về tự do. Con người hiện thực mình bằng xử dụng tự do trong sự thật. Ta không thể hiểu tự do như tài năng làm bất cứ cái gì: tự do có nghĩa trao ban mình. Hơn nữa nó muốn nói rằng: tự do là kỷ luật bên trong của trao ban. Trong khái niệm về trao ban, không chỉ xuất hiện sáng kiến tự do của chủ thể, mà còn chỉ chiều kích bổn phận. Tất cả được hiện thực trong "hiệp thông các nhân vị". Ở đây ta ở trong lòng mọi gia đình.
Chúng ta cũng đứng trước những đối lập giữa chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa nhân vị. Tình yêu và văn minh tình thương đều quan hệ với chủ nghĩa nhân vị. Tại sao quan hệ đúng với chủ nghĩa nhân vị? Bởi vì chủ nghĩa cá nhân đe doạ văn minh tình thương chăng? Chìa khoá câu đáp ở trong lời cộng đồng: "một trao ban vô vị lợi". Chủ nghĩa cá nhân giả thiết sự xử dụng tự do, theo đó chủ thể muốn gì làm lấy, "xác định mình là" "chân lý" của điều làm thoả lòng, làm ích cho mình. Nó không muốn cho người khác "vui lòng" hay "yêu sách" nơi nó cái gì khác, nhân danh chân lý khách quan nó không muốn "cho" người khác, theo như sự thật, nó không muốn trở nên "trao ban vô vị lợi". Cho nên chủ nghĩa cá nhân vẫn lấy mình làm trọng tâm và thật là ích kỷ. Ðiều đối lập với chủ nghĩa nhân vị khôngnhững xuất hiện trên lãnh vực lý thuyết, mà còn trên lãnh vực "ethos" luân lý. "Ethos" của chủ nghĩa nhân vị là vị tha: nó đưa con người đến chỗ hy sinh mình cho những người khác và gặp niềm vui trong trao ban chính mình. Ðó là niềm vui mà Chúa Kitô nói đến (x. Ga 15, 11; 16, 20-22).
Cho nên phải làm cho các xã hội, và trong lòng xã hội, là các gia đình đang sống trong bối cảnh đấu tranh giữa văn minh tình thương và những thứ chống đối nó – họ tìm được cơ sở vững chắc, trong cái nhìn đúng mức về con người và những điều xác định "việc hiện thực đầy đủ" nhân tính của mình. cái gọi là "tình yêu tự do", không thể chối cãi được, nó đối lập với văn minh tình thương càng nguy hiểm hơn, khi nó quen được đề ra như việc diễn tả tình cảm "thật", trong thực sự, nó phá hoại tình yêu. Bao gia đình tan vỡ vì " tự do luyến ái"! Trong bất cứ hoàn cảnh nào, cứ theo xúc động tình cảm "thật" nhân danh tình yêu "tự do" khỏi mọi bó buộc, thật ra điều ấy có nghĩa là làm cho con người nô lệ những bản năng con người mà thánh Thomas gọi là "đam mê của linh hồn". "Tình yêu tự do" khai thác những nhược điểm con người, bằng cách cho chúng một "tính đáng kính" nào đó với sự giúp đỡ của mê hoặc và giúp đỡ của công luận. Như vậy là người ta tìm cách "trấn an" lương tâm, tạo ra một "lẩn trốn" "luân lý". Nhưng người ta không xem xét mọi hậu quả từ đó xuất phát, đặc biệt khi người phối ngẫu, và nhất là con riêng của cha hay của mẹ phải trả, vì đã nên mồ côi ngay khi cha mẹ còn sống.
Ta biết rằng ở nền tảng của thuyết duy-ích luân lý có việc luôn luôn tìm "tối đa" hạnh phúc, nhưng là "hạnh phúc duy ích" hiểu như lạc thú, như thoả mãn ngay, có lợi riêng cho cá nhân bên ngoài hay còn đối nghịch những yêu cầu khách quan của thiện ích.
Ý đồ của thuyết duy ích, dựa trên tự do được định hướng theo chiều cá nhân chủ nghĩa, tức là cái tự do không trách nhiệm, tạo ra điều nghịch tình thương, cho dù người ta thấy ở đó có biểu lộ một văn minh nhân bản trong toàn bộ. Khi khái niệm về tự do như vậy được người ta chấp nhận trong xã hội, dễ tạo nguyên nhân chung, với nhiều loại dạng của tính yếu đuối con người, thì khái niệm ấy mau chóng tỏ ra mối đe doạ có hệ thống và trường kỳ cho gia đình. về điểm này ta có thể kể nhiều hậu quả tai hại, được nhận theo thống kê, tuy nhiều hậu quả được che dấu trong trái tim các ông các bà như những vết thương rướm máu.
Tình yêu vợ chồng, và cha mẹ, có thể chứa những vết thương ấy, nếu như những cạm bẫy nêu trên không làm cho tình yêu ấy thiếu sức mạnh tái sinh, rất hữu ích rất lành mạnh, cho các cộng đồng con người. khả năng này được hưởng ơn Thiên Chúa thứ tha và hoà giải, cho phép có được nghị lực thiêng liêng cần cho việc không ngừng bắt đầu lại mãi. Vì thế các thành viên gia đình cần gặp được Chúa Kitô trong Giáo hội qua bí tích diệu kỳ sám hối và giao hoà.
Như vậy ta thấy tầm quan trọng của cầu nguyện với các gia đình và cho các gia đình, đặc biệt các gia đình bị phân ly đe doạ. Phải cầu nguyện để cho đôi bạn yêu ơn gọi của họ, ngay khi đường đời cam go, gặp nhiều khúc chật hẹp và dốc thẳng, có vẻ không thể vượt qua; phải cầu nguyện để trong những điều kiện này, họ vẫn trung thành cùng giao ước với Thiên Chúa.
"Gia đình là con đường của Giáo hội". Trong lá thư này, ta muốn nói lên xác tín ấy, và đồng thời loan báo con đường này, nó nhờ đời sống vợ chồng và gia đình mà dẫn vào nước trời (x Mt 7, 14). Cần làm cho "sự hiệp thông những con người" trong gia đình trở nên việc chuẩn bị "hiệp thông các thánh". Vì thế, Giáo hội tuyên xưng và loan báo "tình yêu chịu đựng tất cả" (I Cr 13, 7), cùng với thánh Phaolô coi nó như nhân đức "trọng đại nhất" (ICr 13, 13). Thánh tông đồ không vẽ giới hạn cho ai cả. Yêu là ơn gọi của mọi người, ơn gọi của các đôi bạn, của các gia đình. Trong Giáo hội mọi người được gọi đến mức hoàn hảo của thánh thiện (x Mt 5, 48) (38).
17. Gia đình là một cộng đoàn các nhân vị, là tế bào xã hội nhỏ nhất, và như thế, nó là định chế cơ bản cho mọi xã hội sinh tồn.
Gia đình như là định chế chờ đợi gì nơi xã hội? Trước tiên, là được nhận theo đúng căn tính gia đình và chấp nhận là một chủ thể xã hội. Bản tính là chủ thể này được gắn với căn tính riêng của hôn nhân và gia đình. Hôn nhân, là nền tảng của định chế gia đình, hệ tại một giao ước nhờ đó "một người nam, một người nữ lập nên giữa họ một cộng đồng suốt đời, được điều hợp qua đặc tính tự nhiên tới thiện ích cho hai phối ngẫu cũng như cho việc sinh sản và giáo dục con cái". Chỉ có sự liên kết này mới có thể được nhìn nhận và công nhận như một "hôn nhân " trong lòng xã hội. Ngược lại, sự kết hợp các con người kiểu khác, không đáp ứng những điều kiện nhắc lại ở trên, không được công nhận là hôn nhân, dù ngày nay đang lan tràn về điểm này những xu hướng rất nguy hiểm cho tương lai các gia đình và cho chính xã hội.
Không xã hội con người nào có thể chạy theo cái nguy cơ cho phép trong những vấn đề căn bản liên quan tới yếu tính hôn nhân và gia đình ! Một lối cho phép về luân lý như vậy chỉ có thể làm thiệt hại cho những yêu cầu đích thực của hoà bình và hiệp thông giữa mọi người. Cho nên người ta hiểu tại sao Giáo hội mạnh mẽ bảo vệ căn tính gia đình, và tại sao Giáo hội khích lệ các định chế có thẩm quyền, đặc biệt những người có trách nhiệm về đời sống chính trị, cũng như các tổ chức quốc tế đừng nhượng bộ cho cơn cám dỗ của một lối hiện đại sai lầm và hào nhoáng.
Là cộng đồng sống và thương yêu, gia đình là một thực tại xã hội vững vàng có căn cơ và, một cách đặc biệt, là xã hội cao cả, dù có bị đặt điều kiện ở nhiều quan điểm. Khẳng định quyền cao cả của định chế gia đình và nhận định nhiều điều kiện của nó, đưa ta nói đến các quyền gia đình. Về vấn đề này, Toà Thánh đã công bố năm 1983 Hiến chương các quyền gia đình đến nay vẫn còn tính thời sự.
Những quyền gia đình được gắn liền với những quyền con người. quả thế, nếu gia đình là hiệp thông các nhân vị, sự triển nở gia đình tuỳ thuộc một cách rất ý nghĩa, ở việc thích nghi đúng đắn các quyền của các nhân vị tạo nên một gia đình. Một vài quyền liên quan trực tiếp đến gia đình, như quyền cha mẹ được sinh con có trách nhiệm và giáo dục con cái, trái lại, nhiều quyền khác liên quan đến hạt nhân gia đình một cách gián tiếp, trong đó, đặc biệt quan trọng là quyền tư hữu, riêng ở những gì gọi là tư hữu gia đình, và quyền làm việc.
Nhưng các quyền gia đình không chỉ là tổng cộng theo toán học các quyền con người, vì gia đình còn là cái gì hơn tổng cộng các thành phần gia đình tách riêng ra. Gia đình là cộng đồng cha mẹ con cái, đôi khi là một gia đình gồm nhiều thế hệ. Do đó, tư cách chủ thể gia đình được thực hiện theo ý Chúa, lập ra và đòi những quyền đặc thù riêng. Khởi đi từ những nguyên tắc luân lý đã phát biểu, Hiến chương những quyền gia đình làm vững sự hiện hữu định chế gia đình trong trật tự xã hội và pháp lý của xã hội "lớn": là quốc gia, nhà nước và những cộng đồng quốc tế. Từng xã hội "lớn" này ít ra cũng gián tiếp chịu điều kiện của việc có một gia đình; để được như thế định nghĩa các bổn phận và quyền lợi của xã hội "lớn"đối với gia đình là vấn đề cực kỳ cần thiết và chính yếu. Trước hết, ta thấy liên hệ gần như hữu cơ được lập giữa gia đình và quốc gia. Tự nhiên, ta không thể nói đến quốc gia theo nghĩa riêng trong mọi hoàn cảnh. Mà có những nhóm dân tộc, họ tuy không thể được coi như những quốc gia thực, nhưng một mức nào đó đã đạt tới hàng xã hội "lớn". Trong giả thiết này hay giả thiết kia, liên hệ gia đình với nhóm dân tộc hay với quốc gia vẫn dựa trước tiên vào sự tham gia một văn hoá. Theo một nghĩa nào đó cũng là vì quốc gia mà cha mẹ sinh ra con cái, để chúng làm thành phần quốc gia và tham gia vào gia tài lịch sử và văn hoá. Ngay từ đầu, căn tính của gia đình phát triển trong mức độ nào đó theo hình ảnh căn tính của quốc gia mà gia đình ấy thuộc về.
Khi tham gia vào gia tài văn hoá của một nước, gia đình góp phần cho quyền tối thượng đặc biệt phát sinh từ văn hoá và ngôn ngữ quốc gia ấy. Tôi đã đề cập vấn đề này ở Hội đồng của UNESCO tại Paris năm 1980 và tôi đã trở lại vấn đề này nhiều lần vì tầm quan trọng không thể chối cãi của nó. Nhờ văn hoá và ngôn ngữ, không những quốc gia mà từng gia đình còn tìm được quyền cao cả tinh thần của mình. Không vậy, khó giải thích nhiều những biến cố lịch sử các dân tộc, đặc biệt ở châu Âu: những biến cố xưa, những biến cố mới đây, những biến cố may lành hay khổ lụy, những thắng lợi, những thất bại, chứng tỏ gia đình được liên kết hữu cơ với quốc gia, và quốc gia liên kết hữu cơ với các gia đình.
Liên kết gia đình với nhà nước cũng có phần giống có phần khác như thế. Quả vậy, Nhà nước khác với Quốc gia do cấu trúc kém "gia đình" hơn, vì được tổ chức theo một chế độ chính trị và một cách có "tính bàn giấy"hơn. Tuy nhiên, dù một nghĩa nào đó, chế độ nhà nước có "hồn"chăng nữa, tuỳ mức độ nó đáp ứng được bản tính nó "là cộng đồng chính trị" theo pháp lý được điều hợp lo công ích. Gia đình liên hệ chặt chẽ với "hồn" ấy, gia đình liên hệ với Nhà nước chính vì nguyên tắc hỗ trợ nhau. Quả vậy, gia đình là thực tại xã hội không sẵn mọi phương thế cần thiết lo những mục đích riêng gia đình, nhất là trong lãnh vực giáo huấn và giáo dục. Lúc đó Nhà nước được mời gọi can thiệp theo nguyên tắc hỗ trợ kể trên: ở đâu gia đình có thể tự túc, nên để cho gia đình hành động cách tự lập;sự can thiệp quá đáng của nhà nước không những tỏ ra bất tôn trọng, mà còn gây hại cho gia đình, vì tạo ra sự xâm phạm hiển nhiên các quyền gia đình, chỉ ở điều nào gia đình không thể thực sự tự túc thì nhà nước mới có thể và có bổn phận can thiệp.
Ngoài lãnh vực giáo dục và giáo huấn ở các mức độ, việc giúp đỡ của nhà nước, dù sao cũng không được loại những sáng kiến các tư nhân, việc giúp đỡ ấy được biểu lộ trong những qui định nhằm cứu sự sống và sức khoẻ công dân và đặc biệt, trong những biện pháp phòng ngừa có liên hệ đến giới lao động. Nạn thất nghiệp thời nay tạo nên một trong những đe doạ nghiêm trọng đến đời sống gia đình và thực đang làm bận tâm mọi xã hội, thất nghiệp tạo ra thách đố cho chính trị các nhà nước, và là một đối tượng phải chú ý suy nghĩ cho một học thuyết xã hội của Giáo hội. Cho nên hơn bao giờ hết, cần và khẩn cấp tìm cách chữa trị thất nghiệp, bằng những giải pháp can đảm, biết hướng tầm nhìn vượt biên giới quốc gia, tới nhiều những gia đình mà không có việc làm đang ở trong tình trạng khốn khổ thê thảm .
Nói về lao động có liên hệ tới gia đình, nên nhấn mạnh tầm quan trọng và giá trị của việc làm của các Bà trong gia đình; phải nhìn nhận và đánh gía cao việc làm ấy. "Gánh nặng" người vợ, khi đã cho con chào đời, nuôi nó, săn sóc nó, lo giáo dục nó, đặc biệt những năm đầu thật là lớn lao, đến nỗi không sự so sánh cùng bất kỳ công việc chuyên ngành nào. Ðiều này phải được khẳng định cho rõ, cũng như phải được bảo vệ như bất cứ quyền nào liên hệ tới lao động. Với tất cả những nỗi mệt nhọc, việc làm mẹ phải được người ta biết ơn về mặt kinh tế ít ra bằng sự biết ơn các lao động khác được hoàn thành để lo nuôi sống gia đình trong giai đoạn tế nhị của cuộc sống.
Thật phải không được tiếc một cố gắng nào để cho gia đình được nhìn nhận như xã hội đầu tiên và "tối thượng" cách nào đó. Quyền "tối thượng" này cần cho lợi ích của xã hội. Một quốc gia thực sự cao cả và mạnh tinh thần, bao giờ cũng gồm nhiều gia đình mạnh, ý thức ơn gọi của mình và sứ mệnh của mình trong lịch sử. Gia đình ở trung tâm các vấn đề và các nhiệm vụ đó: trao cho gia đình vai trò tuỳ thuộc hàng nhì, tách gia đình khỏi vị trí xứng hợp trong xã hội, có nghĩa là gây nên thiệt hại lớn cho việc tăng trưởng toàn thể xã hội.

Ban hành tại Vatican
ngày 02. 02. 1994, lễ Dâng Chúa vào Ðền thờ
Năm thứ 16 Triều Giáo Hoàng của Tôi
 Gioan Phaolô II



[1] Tựa đề : Gia đình, cộng đoàn yêu thươnhg & và nhân vị là của BBT.

Post a Comment

Mới hơn Cũ hơn