Mặc dù có
những thách đố
đang làm xói mòn nền tảng gia đình tại Á châu
nhưng Giáo Hội vẫn luôn hy vọng về sức mạnh cố kết
của truyền thống văn hóa tại đây
và mời gọi gia đình Kitô giáo Á châu hãy mạnh dạn trình bày hình ảnh về một nền “văn hóa sự sống” toàn diện.
... Nền văn hóa luôn tôn trọng và bảo vệ quà tặng sự sống
như ân ban của Thiên Chúa từ lúc thụ thai cho đến lúc lìa đời.
đang làm xói mòn nền tảng gia đình tại Á châu
nhưng Giáo Hội vẫn luôn hy vọng về sức mạnh cố kết
của truyền thống văn hóa tại đây
và mời gọi gia đình Kitô giáo Á châu hãy mạnh dạn trình bày hình ảnh về một nền “văn hóa sự sống” toàn diện.
... Nền văn hóa luôn tôn trọng và bảo vệ quà tặng sự sống
như ân ban của Thiên Chúa từ lúc thụ thai cho đến lúc lìa đời.
Phaolô
Nguyễn Hải Đăng, OP.
“Hỡi các gia đình, hãy trở nên chính mình”, đó là thông điệp của Giáo Hội gởi
các gia đình Kitô hữu với sứ mệnh hãy trở nên chứng tá về Thiên Chúa Tình Yêu
trên lục địa Á châu rộng lớn này bằng cách diễn tả sống động căn tính của chính
mình. Gia đình là rường cột xã hội, là nền tảng cộng đồng, là chiếc nôi sự sống
và là nhà giáo dục đầu tiên. Nhưng nền tảng gia đình Á châu cũng đang đối diện
với những thách đố mang tính thời đại: trào lưu văn hóa toàn cầu đề cao lối
sống hưởng thụ, chủ nghĩa cá nhân vị kỷ cùng với những vấn nạn mang tính lục
địa như thảm họa chiến tranh, tình trạng nghèo đói, làn sống di dân, tệ nạn xã
hội…đang từng bước hủy hoại những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Á
châu như lòng tôn kính sâu xa đối với sự
sống, sự gần gũi và tôn trọng thiên nhiên, đề cao tình nhân ái giữa người với
người, thăng tiến đời sống tâm linh và niềm tin tôn giáo trong gia đình, tôn
trọng giá trị thánh thiêng của đời sống hôn nhân.[1]
Trước những thách đố mang tính thời
đại, gia đình Kitô giáo Á châu được mời gọi hãy diễn tả niềm hy vọng về một nền
“văn hóa sự sống” toàn diện, đặt trọng tâm trên giao ước sự sống với Thiên
Chúa, như một lời đáp trả trước nền “văn hóa sự chết” đang đe dọa tất cả mọi
giá trị Tin Mừng được cố kết nơi nền tảng gia đình ngay từ thưở ban đầu.
1. Nền “văn hóa sự sống” theo Kitô giáo
a. Thiên Chúa - nguyên ủy sự sống
“Sự sống của con người là thánh thiêng, bởi vì ngay từ
nguồn gốc nó bao hàm “hành động sáng tạo của Thiên Chúa” và mãi mãi nằm trong
mối quan hệ đặc biệt với Đấng Tạo Hóa, cứu cánh duy nhất của nó.”[2] Như vậy, đối với Kitô giáo, sự sống
không còn là một ý niệm phổ quát, ngoại tại nhưng là một thực tại mang tính ngôi vị cụ thể. Con người được tạo dựng
vì chính mình và mỗi nhân vị là một phản ánh sống động về chính Thiên Chúa,
nguyên ủy sự sống. Con người không có quyền trực tiếp can thiệp vào hành vi hủy
diệt sự sống vì sự sống là giá trị thánh thiêng phản ánh chính sự bất khả xâm
phạm của Đấng Tạo Hóa (x. St 1, 26-28).
Sứ điệp về Sự Sống đã được chuẩn bị
ngay trong Cựu Ước với biến cố Xuất Hành, trọng tâm kinh nghiệm đức tin của dân
tộc Israel. Trước mối đe dọa tàn sát tất cả hài nhi sơ sinh của vua Pharaô và
sự giải thoát đầy yêu thương của Thiên Chúa, dân Israel nhận ra rằng: sự sống khởi phát từ chính Thiên Chúa và con
người không ai không có quyền định đoạt về sự sống của chính mình và của người
khác. Kinh nghiệm này lớn dần trong tương quan
tín trung với Thiên Chúa. Dân Israel nhận biết được rằng, chính Thiên Chúa là
nguồn cậy trông và là Chủ Tể sự sống “Tất
cả những vật Chúa ban đều tốt trong thời chúng; Chúa đã đặt trong lòng chúng
tổng số thời gian” (x. Gv 3,11).
Sự sống con người là một điều thiện
hảo vượt xa sự sống của bất kỳ sinh vật nào. Dù được tạo nên từ bụi đất (x. St
2,7; 3,19; Tv 103) nhưng con người là họa ảnh biểu lộ vinh quang Thiên Chúa, là
dấu chỉ về sự hiện diện của Người (x. St 1, 26-27; Tv 8, 6). Con người được
trao ban phẩm giá trổi vượt vì có sự nối kết mật thiết giữa con người và Đấng
Tạo Hóa nên mình. Chính sự nối kết này là dấu
ấn thần linh thôi thúc con người vươn đến nguồn mach sự sống phát sinh
chính mình là Thiên Chúa.
b. Đức Kitô - Lời Sự Sống
“Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã
nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay
chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời Sự Sống” (x. 1 Ga 1,1).
Đức Kitô chính là Lời Sự Sống được mặc
khải cho con người ngay trung tâm sứ mệnh cứu thế của Người: “Ta đến cho họ
được sống và sống dồi dào” (x. Ga 10,10). Sự sống “mới” đã được khai mở và con
người được mời gọi thông hiệp trong chính nguồn sống viên mãn của Ba Ngôi Thiên Chúa. Chính trong sự sống này mà mọi
giây phút hiện hữu và mọi chiều kích sinh tồn của con người trên trái đất này
đều mặc lấy một ý nghĩa vĩnh cữu vì
con người được tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa.
Tin Mừng về Sự Sống không phải là
một suy tư đơn thuần nhưng là một thực tại cụ thể, mang tính ngôi vị. Tin Mừng
ấy là chính Đức Kitô – Lời ban Sự Sống. “Thầy
là Đường, là Sự Thật và Sự Sống” (x. Ga 14, 60). Một lần nữa, chính Đức
Giêsu đã mặc khải chính mình với Martha, chị của Lazarô: “Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Thầy, dù kẻ ấy có chết cũng
sẽ sống và bất kỳ ai sống và tin Thầy, sẽ không chết bao giờ” (x. Ga 11,
25-26). Đức Kitô chính là nguồn mạch sự sống và bất kỳ ai tin vào Người sẽ có
khả năng nhận biết chân lý toàn vẹn về giá trị sự sống của con người. Con người
chỉ có thể đạt đến sự sống viên mãn khi biết kết hiệp nên một với căn nguyên sự
sống phát sinh chính mình. Chính chân lý kỳ diệu này đã khoác lên thân phận yếu
hèn của con người một giá trị thánh thiêng, bất khả xâm phạm. Mặc khải về Lời
Sự Sống là chính Đức Kitô đã khẳng định sự linh thánh về sự sống thể lý và
thiêng liêng của con người, ngay trong hành trình trần thế, đã nhận đầy đủ giá
trị và ý nghĩa của nó: là được mời gọi vươn đến sự sống vĩnh cửu đích thật là
chính Thiên Chúa.
Bằng chính cuộc đời của mình, Đức
Giêsu cho chúng ta thấy mối liên hệ biện chứng giữa kinh nghiệm bấp bênh về sự
sống và sự khẳng định giá trị của sự sống đó. Sự sống của Đức Giêsu được ghi
dấu bằng sự bấp bênh ngay từ lúc Ngài sinh ra. Bị con người từ chối “không còn
chỗ nào trong quán cho hai ông bà” (x. Lc 2,7), bị đe dọa bởi những thế lực thù
địch đang tìm cách “giết hài nhi” (x. Mt 2,13), nhưng chính trong sự bấp bênh
đó, quyền năng Thiên Chúa được tỏ lộ cách mạnh mẽ: sự sống sinh ra đây là ơn cứu độ cho nhân loại (x. Lc 2,14).
“Giàu
có như Ngài mà vì anh em, Ngài đã nên nghèo khổ, ngõ hầu anh em nên giàu
có nhờ sự khó nghèo của Ngài” (x. 2 Cr 8, 9).
Sự nghèo khó của Đức Giêsu mà thánh Phaolô diễn tả ở đây không chỉ là trút bỏ những đặc ân của thần tính mà còn là
chia sẻ cảnh sống thấp hèn nhất, bấp bênh nhất của đời người (x. Ph 2,
6-7).[3] Đức Giêsu không chỉ đón nhận mà còn
liên lụy trong những bấp bênh của cuộc sống con người để đến giây phút cuối
cùng trên thập giá, người đã kiện toàn và phục hồi giá trị sự sống viên mãn bởi
việc Ngài tự hiến trên thập giá đã trở nên nguồn sống mới cho con người (x. Ga
12,32). Khi Ngài đối diện với những thế lực chống đối muốn hủy diệt sự sống của
chính Ngài, Đức Giêsu không chút sợ hãi bởi niềm tin tưởng chắc chắn sự sống của
Ngài lệ thuộc trong tay Chúa Cha. Vì thế, trên cây thập giá, Đức Giêsu đã thưa
lớn tiếng: “Lạy cha, con xin phó thác hồn
con trong tay Cha” (x. Lc 23,46). Lời trần tình cuối cùng của Đức Giêsu mặc
khải cho con người: chính Thiên Chúa là nguyên ủy sự sống và Đức Kitô là Lời
ban Sự Sống vì qua mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh, giá trị sự sống của con người
được kiện toàn và trả về ý nghĩa đích thực của nó: vươn đến sự sống sung mãn nơi Thiên Chúa.
c. Hướng đến nền “văn minh sự
sống” – một yêu sách tuyệt đối
Sự sống con người từ Thiên Chúa mà
đến, đó là ân huệ, là hình ảnh và dấu ấn của Người. Thiên Chúa là Chủ Tể duy
nhất của sự sống này: con người không thể
định đoạt về nó. Chính Thiên Chúa đã nhắc lại cho ông Nô-e sau Đại Hồng
Thủy: “Từ máu ngươi, là chính mạng sống
ngươi. Ta sẽ đòi trả lẽ… với mọi người: với từng người, Ta sẽ đòi trả lẽ về
mạng sống anh em mình” (St 9,5).[4] Bản văn Kinh Thánh đã nhấn mạnh
tính cách thiêng liêng của sự sống, có cơ sở nơi Thiên Chúa và nơi hành động
sáng tạo của Người vì “con người được
dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa” (St 9,6) và “chính Chúa nắm trong tay hồn của mọi sinh linh và hơi thở của mọi xác
phàm” (J 12,10).
Sự sống là giá trị thánh thiêng bất
khả xâm phạm được khắc ghi từ thưở ban đầu trong lương tâm mỗi người. Câu hỏi “Ngươi đã làm gì?” (St 4,10) mà Thiên
Chúa chất vấn Cain sau khi Cain ra tay giết chết chính người em mình là Aben
diễn tả kinh nghiệm: nơi đáy sâu lương
tâm, mỗi con người luôn được nhắc nhở về tính bất khả xâm phạm của sự sống bản
thân và người khác, vì nó là sở hữu và ân ban của Đấng Tạo Hóa.[5]
Cũng vậy, khi trả lời cho câu hỏi
của người thanh niên giàu có: “Tôi phải
làm gì để được sự sống đời đời”. Đức Kitô đã đưa một yêu sách tuyệt đối về
giá trị sự sống: “Các ngươi đã nghe người
xưa bảo: chớ giết người; kẻ giết người thì sẽ can án. Còn Ta, Ta bảo các ngươi:
phàm ai tức giận anh em mình thì sẽ bị can án” (Mt 5, 21-22). Như vậy, niềm
tin Kitô giáo không chỉ xem con người là trung tâm của công trình tạo dựng mà
còn xác định trách nhiệm tôn trọng và yêu quý sự sống là một yêu sách tuyệt đối
dành cho tất cả mọi người vì qua Mầu Nhiệm Nhập Thể chính Ngôi Hai Thiên Chúa
đã kết hiệp chính mình với bất kỳ con người nào.[6]
2. Gia đình Kitô giáo Á Châu hướng đến nền “văn hóa sự
sống”
a. Ưu sầu và lo lắng
Được xây dựng
trên nền tảng văn hóa và tôn giáo phong phú, gia đình Á châu kín múc được nguồn
sức mạnh tinh thần từ giá trị tôn trọng sự sống, tinh thần hiếu hòa, lòng kính
ngưỡng sâu xa những giá trị thánh thiêng của đời sống hôn nhân, gia tộc và cộng
đồng. Đó là sức mạnh cố kết bảo vệ nền tảng gia đình theo dòng lịch sử, tạo nên
nét đẹp sâu xa của văn hóa Á Đông. Nhưng trong gần hai thập niên trở lại đây,
gia đình Á châu đang phải đối diện với những thách đố về giá trị và căn tính
của mình.
Xu thế toàn cầu hóa mở ra nhiều cơ
hội nhưng cũng đem đến không ít phiền toái. Làn sóng di dân ồ ạt từ nông thôn
ra thành thị đang đẩy người trẻ ra khỏi cơ cấu gia đình truyền thống. Chính
sách hạn chế dân số cùng với tỉ lệ ly hôn đang ảnh hưởng sâu rộng trên những
giá trị thánh thiêng của gia đình. Phá thai và những nỗ lực nhằm thao túng sự
sống con người tại Á châu đang trở nên nghiêm trọng. Đặc biệt cùng với đà tiến
của khoa học, các vấn đề về đạo đức sinh học được đặt ra vì liên quan đến sự
thánh thiêng của sự sống ngay từ lúc khởi đầu.
Bên cạnh đó, vấn nạn nghèo đói cũng
là một thách đố đáng quan tâm. Nhiều bạn trẻ nghèo không dám nghĩ đến hôn nhân
và xây dựng gia đình vì thiếu những phương tiện cơ bản để sinh tồn. Trở lực về
kinh tế khiến nhiều người không còn xem hôn nhân như một sự dấn thân trọn đời
mà chỉ là sự trói buộc theo định kỳ. Thậm chí đang có những nỗ lực thay đổi
những quan niệm truyền thống về hôn nhân và gia đình như một hệ quả của làn
sóng tự do, chủ nghĩa cá nhân và trào lưu thực dụng. Tất cả những dấu chỉ này
nhằm nêu lên những thách đố trên bề mặt của sự kiện. Nhưng tự bản chất, gia
đình Á châu vẫn đang gìn giữ một sức sống mãnh liệt kín múc từ những giá trị
văn hóa, tôn giáo truyền thống. Và đây cũng chính là mảnh đất màu mỡ để sức
mạnh Thánh Linh hoạt động, là môi trường thuận lợi để hạt giống Tin Mừng được
triển nở. Vì vậy, chúng ta hãy vui mừng và hy vọng.
b. Vui mừng và hy vọng
Các dân tộc Á châu vẫn xem hôn nhân
là một định chế thánh thiêng. Tại Á châu, gia đình vẫn là cơ cấu nền tảng. Nơi
đó, con người được phát triển toàn diện như quà tặng của Thiên Chúa. Quan hệ
huyết thống là mối dây nối kết tuyệt hảo. Bên cạnh đó còn có những giá trị nhân
bản khác như: tương quan gắn kết cộng đồng, tinh thần hiếu hòa, lòng hiếu thảo,
tôn trọng các bậc trưởng thượng,… là những yếu tố mang lại niềm hy vọng sâu xa,
biến nhiều gia đình Á châu thành những vườn ươm cho ơn thiên triệu.
Hy vọng vì gia đình Á châu vẫn đang
được nuôi dưỡng bởi những giá trị văn hóa, tôn giáo truyền thống. Một nền văn
hóa đậm nét nhân văn, đề cao lòng nhân ái giữa con người, tôn trọng giá trị
thánh thiêng của đời sống hôn nhân. Một định chế tôn giáo đậm nét tâm linh, thể
hiện lòng tôn kính sâu xa đối với sự sống. Chính truyền thống này đã hun đúc
tính can trường của gia đình Á châu trước những thách đố của thời đại. Đây cũng
chính là nền đá tảng trên đó giá trị Tin Mừng được xây dựng và là mảnh đất màu
mỡ trên đó hạt giống Tin Mừng được dưỡng nuôi.
c. Gia đình Kitô giáo Á châu hãy trở
nên chứng tá về nền “văn hóa sự sống”
Đức tin Kitô giáo xác định con người
được tạo dựng “theo hình ảnh Thiên Chúa” có khả năng nhận biết và yêu mến Đấng
Tạo Dựng nên mình và được Ngài đặt làm chủ mọi tạo vật trên trái đất (St 1, 26;
Kn 2, 23) để cai trị và sử dụng chúng mà ngợi khen Thiên Chúa (Hđ 17, 3-10).[7] Vì vậy, gia đình
Kitô giáo Á châu được mời gọi hãy trở nên chứng tá về nền “văn hóa sự sống”
bằng cách sống trọn vẹn căn tính và phẩm giá con người được đặt để trong ý muốn
ban đầu của Đấng Tạo Hóa:
- Con người là thực tại hợp nhất hồn và xác. Xét về thể xác con người là một tổng hợp những yếu tố thuộc
thế giới vật chất. Nhờ con người những yếu tố ấy đạt đến tuyệt đỉnh và tự do
nội tại của chúng là chính Đấng Tạo Hóa (Đn 3, 57-90). Vì vậy, con người không
được khinh miệt đời sống thể xác nhưng trái lại phải tôn trọng vì đó là công
trình sáng tạo yêu thương của Thiên Chúa. Thân xác sẽ phục sinh trong ngày sau
hết để hiệp nhất trong sự sống viên mãn là chính Thiên Chúa. Hơn nữa, niềm tin
Kitô giáo khi nhìn nhận có một linh hồn thiêng liêng, bất tử, con người không
thể bị mê hoặc bởi một thứ ảo ảnh phát sinh do những điều kiện vật lý và xã hội
nhưng không ngừng được thôi thúc tìm đến nguyên ủy sự sống là Thiên Chúa.[8]
- Con người có phẩm giá, lý trí và
tự do để kiện toàn công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Con người là thực thể
cao quý, trổi vượt trên các loài thụ tạo khác bởi con người được thông dự vào
ánh sáng trí tuệ của Thiên Chúa. Bản chất tri thức con người phải được kiện
toàn nhờ sự hiểu biết.[9] Chính sự
hiểu biết này lôi kéo một cách dịu dàng tâm trí con người tìm kiếm và yêu mến
những gì là chân, thiện, mỹ. Hơn nữa,
tận đáy sâu tâm hồn con người được Thiên Chúa phú bẩm một lề luật thánh hướng
dẫn con người yêu mến và thi hành điều thiện cũng như xa tránh việc gian tà.
Tuân theo lề luật ấy chính là thể hiện phẩm giá của con người. Lương tâm là
điểm sâu kín nhất và là cung thánh nơi con người hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Người vang dội trong
thâm tâm họ. Như vậy theo niềm tin Kitô giáo, phẩm giá con người gắn liền với ý
chí tuân phục lương tâm trong sự tự do. Con người sẽ đạt đến phẩm giá đích thật
mà Thiên Chúa phú bẩm một khi nhờ sự tự giải thoát khỏi mọi kiềm tỏa của đam mê
và hướng đến sự toàn hảo là chính Thiên Chúa.
- Con người là
hữu thể có cứu cánh tại thân. Trước cái chết, bản năng sinh tồn dày vò con
người trong đau khổ và suy nhược bởi nỗi lo sợ bị tiêu diệt đời đời. Mầm sống
vĩnh cửu nơi con người không thể giản lược vào nguyên vật chất, nên có xu hướng
chống cưỡng lại sự chết. Nhưng Giáo Hội được Mạc Khải từ Thiên Chúa quả quyết
rằng con người được Thiên Chúa dựng nên
để đạt đến cứu cánh hạnh phúc.[10] Hơn nữa đức
tin Kitô giáo còn dạy rằng chính tội lỗi gây nên sự chết nhưng sự chết bị đánh
bại dưới ánh sáng Phục Sinh của Đức Kitô. Và con người được mời gọi thông hiệp
vào sự sống vĩnh cữu của Người.
Mặc dù có những thách đố đang làm
xói mòn nền tảng gia đình tại Á châu nhưng Giáo Hội vẫn luôn hy vọng về sức
mạnh cố kết của truyền thống văn hóa tại đây và mời gọi gia đình Kitô giáo Á
châu hãy mạnh dạn trình bày hình ảnh về một nền “văn hóa sự sống” toàn diện.
Nền văn hóa đặt trọng tâm trên giao ước sự sống với Thiên Chúa. Nền văn hóa đề
cao những giá trị Kitô giáo về tình yêu, sự hiệp thông giữa cá nhân, gia đình
và xã hội. Nền văn hóa luôn tôn trọng và bảo vệ quà tặng sự sống như ân ban của
Thiên Chúa từ lúc thụ thai cho đến lúc lìa đời. Nền văn hóa đề cao vai trò
trách nhiệm của bậc làm cha mẹ, đề cao tính ưu việt của sự sống và nhân phẩm
con người trên hiệu suất và lợi nhuận xã hội. Nền văn hóa chống lại tất cả
những nổ lực đê hèn nhằm thao túng sự sống của con người dưới bất kỳ hình thức
nào.
Và cuối cùng, nền văn hóa sự sống
này phải được xây dựng trên nền tảng tình yêu Thiên Chúa, Đấng sáng tạo và trao
ban sự sống cho con người.[11] Sự sống con người khởi thủy bởi
tình yêu, tác thành trong tình yêu và hiện hữu trong cuộc đời như một ân ban vô
giá là được chia sẻ chính sự sống của Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa mà Giáo Hội muốn tất cả các gia đình Kitô giáo tại Á
châu hãy mạnh dạn trình bày căn tính của chính mình là một “cộng đồng tình yêu
và sự sống” với niềm xác tín mãnh liệt và hy vọng sâu xa vì chính “Thiên Chúa đã nâng sự sống con người lên
mức độ thần linh, và chia sẻ sự sống đó với chúng ta trong Giáo Hội nhờ quyền
năng Chúa Thánh Thần”.[12]
[1] Trích lược nội dung sứ điệp của Liên Hội
đồng Giám mục Á Châu họp tại Deajon, Hàn Quốc, từ ngày 17 đến 23 tháng 08 năm
2004.
[2] Thánh Bộ Giáo lý Đức tin, Huấn thị Ơn ban sự sống (22-2-1987), nhập đề, số
5.
[3] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Tin Mừng về sự sống, số 33.
[4] ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Tin Mừng về sự sống, số 39.
[5] Ibid.
[6] Hiến chế Mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay, vui mừng và hy vọng, số
22.
[7] “Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế
giới ngày nay,” trong Thánh Công Đồng
chung Va-ti-ca-nô II (Đà Lạt: Phân khoa Thần học Giáo hoàng Học viện thánh
PIÔ X, 1972), tr.743.
[8] Sđd, tr. 746.
[9] Đó là
thứ hiểu biết của người sáng suốt, không phải chì hiểu biết chân lý mà con thưởng
thức ý nghĩa thâm sâu của chân lý dù chân lý đó là những nhận xét về thiên
nhiên, về bản tính con nười hay về thế giới vô hình. Người học thức chưa chắc
đã có thứ hiểu biết này, trái lại, kẻ vô học, mù chữ rất có thể lại được hứ hiểu
biết đó.
[10] “Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế
giới ngày nay,” trong Thánh Công Đồng
chung Va-ti-ca-nô II (Đà Lạt: Phân khoa Thần học Giáo hoàng Học viện thánh
PIÔ X, 1972), tr.749.
[11] St 1, 26-28
[12] Xc. Sứ điệp “Gia đình Á châu hướng đến sự
sống toàn diện” của Liên Hội đồng Giám mục Á Châu họp tại Deajon, Hàn Quốc, từ
ngày 17 đến 23 tháng 08 năm 2004
Đăng nhận xét